Dân số Hồng Kông tăng nhanh chóng trong thập niên 1990, đạt 6,99 triệu vào năm 2006. Khoảng 95% dân Hồng Kông là gốc Trung Hoa, đa số dân của Hồng Kông là Quảng Đông hoặc từ các nhóm dân tộc như Người Khách gia và Triều Châu. Tiếng Quảng Đông, một ngôn ngữ Trung Quốc được sử dụng phổ biến ở phía Nam Trung Quốc là phương ngữ chính thức của Hồng Kông. Tiếng Anh cũng là một ngôn ngữ chính thức được sử dụng rộng rãi bởi hơn 1⁄3 dân số. Phần còn lại 5% dân số bao gồm các dân tộc không phải là người Hoa là một nhóm dân cư có thể thấy rất rõ dù số lượng nhỏ. Một cộng đồng Nam Á bao gồm người Ấn Độ, Nepal. Dân tị nạn người Việt đã trở thành các cư dân thường trú của Hồng Kông. Khoảng 140.000 người Philippines làm việc ở Hồng Kông với những công việc như những người giúp việc nhà. Một số công nhân cũng đến từ Indonesia. Có một số người châu Âu, người Mỹ, người Úc, người Canada, người Nhật, và người Triều Tiên làm việc trong các lĩnh vực tài chính và thương mại.
47 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1139 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngoại thương và tầm quan trọng của nó với phát triển kinh tế Hồng Kông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực phẩm có chứa chất bảo quản, chất chống oxy hoá, chất làm mầu không được phép, và các thứ gây hại cho sức khoẻ.
Halons and CFC's.
Ngà voi và các sản phẩm làm từ ngà voi.
Hàng hoá nguy hiểm được quy định bởi IATA (Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế).
Cacbon đioxyt đậm đặc (Dry Ice).
Thuốc cá nhân (Personal Drugs).
Thuốc nguy hiểm.
Hoá chất bị kiểm soát.
Hoá chất nguy hiểm.
Hạn chế nhập khẩu.
Hồng Kông có rất ít các hạn chế thương mại, giấy phép nhập khẩu được yêu cầu chỉ để Hồng Kông thực hiện các cam kết quốc tế. Những sản phẩm dưới đây bắt buộc phải có giấy phép xuất khẩu:
Thuốc nguy hiểm và dược phẩm.
Thực vật, động vật gây nguy hiểm và các sản phẩm có nguồn gốc từ chúng.
Động vật sống và các sản phẩm động vật như da chó (dog skin), răng nănh.
Thực vật và các loài phá hoại cây trồng.
Thuốc trừ sâu.
Chất phóng xạ và các dụng cụ chiếu xạ.
Các sản phẩm chiến lược như thiết bị viễn thông hay các sản phẩm quân sự.
Chất nổ, pháo hoa, súng cầm tay các loại và đạn, vũ khí.
Vải sợi.
Gạo, thịt, gia cầm.
Máy truyền phát sóng (bao gồm cả điện thoại di động)
Chất ảnh hưởng môi trường.
2.3.1.2.Cấu trúc nhập khẩu.
Nhu cầu nhập khẩu của Hồng Kông tăng liên tục trong những năm qua trong đó bao gồm 2 loại hình:
Nhập khẩu hữu hình: là việc nhập khẩu các loại hàng hoá thông thường.
Nhập khẩu vô hình ( hay còn gọi là nhập khẩu dịch vụ): là việc nhập khẩu các loại hàng hoá vô hình, mang tính chất dịch vụ như vận tải, du lịch, bảo hiểm, tài chínhvv
Nhập khẩu hữu hình (hàng hoá)
Hàng hoá nhập khẩu của Hồng Kông chủ yếu gồm 5 nhóm hàng chính:
Thực phẩm
Hàng tiêu dùng
Nguyên liệu thô và bán sản phẩm
Chất đốt
Tư liệu sản xuất
Hàng hoá nhập khẩu hoặc được giữ lại tiêu dùng trong nuớc hoặc được tái xuất khẩu trong đó hàng hoá dành cho tiêu dùng trong nước chỉ chiếm khoảng ¼ tổng số hàng hoá nhập khẩu.
Những nhóm mặt hàng chủ yếu dùng để tái xuất khẩu là hàng tiêu dùng, nguyên liệu thô và bán sản phẩm, tư liệu sản xuất trong đó nhóm hàng thực phẩm và chất đốt được nhập khẩu phục vụ chính cho tiêu dùng trong nước.
Những năm trước đây, hàng tiêu dùng chiếm tỷ lệ nhiều nhất trong giá trị nhập khẩu của Hồng Kông nhưng những năm gần đây, nguyên liệu thô và bán sản phẩm cung với tư liệu sản xuất đã chiếm phần lớn tỉ trọng nhập khẩu qua đó nói lên được xu hướng phát triển mới của Hồng Kông nói chung cũng như xuất khẩu lại nói riêng.
Nhập khẩu vô hình (dịch vụ)
Nhập khẩu dịch vụ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng giá trị nhập khẩu của Hồng Kông, chủ yếu là các dịch vụ song song trong quá trình nhập khẩu hàng hoá.
Do nền kinh tế phát triển nhanh và thu nhập của người dân khá cao nên nhu cầu du lịch của Hồng Kông là khá lớn làm cho dịch vụ du lịch chiếm tỉ trọng cao nhất khoảng 40% tổng giá trị nhập khẩu bên cạnh đó do nhu cầu nhập khẩu tăng cao trong những năm gần đây cũng làm cho nhu cầu nhập khẩu dịch vụ vận tải tăng lên bên cạnh đó là các dịch vụ như bảo hiểm, tài chính và các dịch vụ liên quan khác.
Hình 2.6. Phân bổ giá trị nhập khẩu của Hồng Kông qua các nhóm hàng hoá chính
Đơn vị: tỷ $HK
Import: Nhập khẩu
Retained Import: Nhập khẩu giữ lại.
Re-export: Xuất khẩu lại.
Nguồn: HK Census and Statistics Department
Hình 2.7. 10 sản phẩm nhập khẩu chính của Hồng Kông (1993-2007)
Đơn vị: triệu $HK
Năm
Máy điện và các dụng cụ điện
Thiết bị viễn thông
Máy văn phòng và máy dữ liệu
Tạp phẩm
Quần áo
Vải sợi
Phi kim
Chất dẻo
Chất đốt và các sp liên quan
Dụng cụ quang học, đồng hồ
Tất cả các sản phẩm
1993
116,357
93,346
36,915
79,460
91,325
98,895
33,431
20,563
15,806
48,661
1,072,597
1994
138,881
120,621
48,468
90,951
96,277
118,205
39,790
28,438
18,232
54,314
1,250,709
1995
185,943
145,976
68,737
104,051
97,886
130,422
43,960
44,078
22,143
62,759
1,491,121
1996
195,942
141,033
81,382
108,193
105,419
127,730
43,391
37,811
27,469
62,745
1,535,582
1997
219,701
152,377
100,029
115,497
116,277
125,460
44,679
38,138
24,034
62,937
1,615,090
1998
195,561
130,886
103,145
107,691
110,744
104,439
35,496
33,668
17,143
54,627
1,429,092
1999
212,589
119,257
108,295
112,719
114,485
97,455
40,632
34,313
20,461
54,145
1,392,718
2000
288,955
161,627
142,920
128,495
124,735
106,875
49,113
44,439
26,911
59,871
1,657,962
2001
262,867
158,690
147,697
116,272
125,545
94,955
45,481
35,339
22,126
60,946
1,568,194
2002
295,188
181,382
156,786
114,633
122,465
94,103
51,047
39,356
22,433
57,387
1,619,419
2003
351,139
209,697
184,418
121,018
124,217
100,707
57,875
45,344
26,666
58,777
1,805,770
2004
459,762
264,596
209,170
130,389
133,436
109,918
68,708
59,006
39,205
63,199
2,111,123
2005
530,197
295,713
250,312
139,102
143,392
107,273
86,919
72,882
49,859
64,045
2,329,469
2006
629,143
335,208
284,995
155,158
146,439
108,552
89,694
80,510
62,953
61,433
2,599,804
2007
740,115
385,444
249,433
205,240
149,387
105,775
101,903
81,318
73,859
71,966
2,868,011
Nguồn: HK Census and Statistics Department
2.3.1.3.Đối tác nhập khẩu.
10 thị trường nhập khẩu chính của Hồng Kông bao gồm: Trung Quốc đại lục, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, Đức, Thái Lan và Philippines.
Những năm 60 và 70 trước đây, Nhật Bản luôn đóng vai trò là thị trường nhập khẩu chính của Hồng Kông với giá trị nhập khẩu chiếm từ 20-25% tổng giá trị nhập khẩu. Nhưng từ những năm 80 trở lại đây, với sự bùng nổ phát triển của kinh tế kèm theo đó là sự đi lên của chất lượng sản phẩm và dịch vụ, cùng với lợi thế về địa lý cũng như giá cả, Trung Quốc đại lục đã trở thành đối tác nhập khẩu lớn nhất của Hồng Kông khi chiếm khoảng 45-50 % tổng giá trị nhập khẩu.
Trong khi đó, Mỹ cũng là một thị trường nhập khẩu lớn của Hồng Kông từ trước đến nay khi giá trị nhập khẩu từ Mỹ luôn chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng giá trị nhập khẩu của Hồng Kông tuy nhiên mức tăng của nhập khẩu từ Mỹ đang có xu hướng chậm lại.
Có thể thấy xu hướng nhập khẩu mới của Hồng Kông là chú trọng đến các thị trường có khoảng cách địa lý gần, có sự cạnh tranh về giá cả hơn nhằm giảm bớt các chi phí liên quan, tạo thêm sức cạnh tranh cho tái xuất khẩu. Bằng chứng là việc Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc đang dần dần thay thế 3 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Hồng Kông trước đây là Nhât Bản, Mỹ và Đức cùng với đó là giá trị nhập khẩu ngày càng tăng từ thị trường Thái Lan và Philippines.
Hình 2.8. Giá trị nhập khẩu từ 10 đối tác chính của Hồng Kông (1979-2007)
Đơn vị: triệu $HK
Năm
Đại lục
Japan
Đài Loan
USA
Singapore
Hàn Quốc
Malaysia
Đức
Thailand
Philippines
Tổng nhập khẩu
1991
293,356
127,402
74,591
58,837
31,525
34,944
9,859
16,641
10,282
2,975
778,982
1992
354,348
166,191
87,019
70,594
39,087
44,155
12,825
21,911
11,811
3,458
955,295
1993
402,161
178,034
93,968
79,419
47,835
48,220
15,855
24,918
13,015
4,005
1,072,597
1994
470,876
195,036
107,310
89,343
61,968
57,551
20,147
28,660
17,196
4,693
1,250,709
1995
539,480
221,254
129,266
115,078
78,027
73,268
28,797
32,038
21,101
6,666
1,491,121
1996
570,442
208,239
123,202
121,058
81,495
73,302
33,994
33,884
23,748
7,360
1,535,582
1997
608,372
221,646
124,547
125,381
79,186
73,226
38,008
38,518
26,070
9,815
1,615,090
1998
580,614
179,947
104,075
106,537
61,457
68,836
32,479
32,639
22,234
10,248
1,429,092
1999
607,546
162,652
100,426
98,572
60,017
65,432
30,010
28,114
22,798
12,307
1,392,718
2000
714,987
198,976
124,172
112,801
74,998
80,600
37,906
32,215
28,001
16,247
1,657,962
2001
681,980
176,599
107,929
104,941
72,898
70,791
39,200
33,309
27,370
15,408
1,568,194
2002
717,074
182,569
115,906
91,478
75,740
75,955
39,729
32,997
29,556
21,135
1,619,419
2003
785,625
213,995
125,203
98,730
90,570
87,340
44,637
41,222
33,194
29,227
1,805,770
2004
918,275
256,141
153,812
111,994
110,986
100,467
51,941
39,999
37,782
33,735
2,111,123
2005
1,049,335
256,501
168,227
119,252
135,190
103,035
57,153
41,054
46,455
38,278
2,329,469
2006
1,192,952
268,140
194,917
123,569
164,837
119,647
60,339
44,428
53,081
40,847
2,599,804
2007
1,329,652
287,329
205,102
138,768
194,775
119,393
62,818
48,048
57,373
47,788
2,868,011
Nguồn: HK Census and Statistics Department
2.3.2. Xuất khẩu.
2.3.2.1.Cấu trúc xuất khẩu.
Hàng tiêu dùng và sản phẩm công nghiệp nhẹ là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Hồng Kông, cũng giống như nhập khẩu, xuất khẩu của Hồng Kông bao gồm 2 loại hình chính:
Xuất khẩu hữu hình (hay xuất khẩu hàng hoá): là việc xuất khẩu các hàng hoá thông thường. Xuất khẩu hữu hình bao gồm 2 phương thức chính:
Xuất khẩu nội địa.
Tái xuất khẩu.
Xuất khẩu vô hình ( hay xuất khẩu dịch vụ): là việc xuất khẩu các loại hàng hoá vô hình mang tính chất dịch vụ như du lịch, vận tải, bảo hiểm, tài chínhvv
Xuất khẩu nội địa.
Xuất khẩu nội địa là việc xuất khẩu những sản phẩm được sản xuất trong lãnh thổ Hồng Kông.
Sản phẩm chủ yếu của xuất khẩu nội địa là hàng tiêu dùng bao gồm quần áo, vải sợi và tạp phẩm trong đó quần áo chiếm tỉ trọng lớn nhất trong xuất khẩu nội địa với khoảng 40% tổng giá trị xuất khẩu.
Với sự phát triển của xuất khẩu lại cũng như công nghiệp chế biến, các sản phẩm công nghiệp nhẹ của nội địa đã không còn phát triển như những năm 60-70 trước đây và đóng góp rất ít vào tỉ trọng của xuất khẩu nội địa.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của hàng hoá nội địa là Mỹ, Trung Quốc đại lục, Anh, Đức, Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Hà Lan, Macao và Úc trong đó Trung Quốc đại lục là thị trường lớn nhất.
Nếu như những năm 60 – 70 và giữa những năm 80, hàng nội địa Hồng Kông chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ, Anh và Đức trong khi hầu như không xuất khẩu sang Đại lục thì từ cuối những năm 80 đến nay thị trường Đại lục phát triển mạnh mẽ và chiếm phần lớn tỷ trọng xuất khẩu của hàng nội địa Hồng Kông, trong khi thị trường Mỹ và các thị trường Châu Âu đang có xu hướng giảm do ảnh hưởng của việc đi xuống của nền kinh tế thế giới, bên cạnh đó có thể thấy xu hướng đa dạng thị trường xuất khẩu của Hồng Kông mà điển hình là thị trường Đài Loan và Singapore khi tỉ trọng xuất khẩu sang hai thị trường này đã vượt qua các thị trường Châu Âu khác như Đức.
Tuy nhiên, có thể thấy giá trị xuất khẩu của hàng hoá nội địa tăng lên mạnh mẽ vào những năm 80-90 nhưng đang có xu hướng giảm dần những năm gần đây và không còn đóng góp nhiều vào tăng trưởng kinh tế của Hồng Kông.
Hình 2.9. Bảng thống kê 10 sản phẩm xuất khẩu nội địa chính của Hồng Kông (1993-2007)
Đơn vị: triệu $ HK
Năm
Quần áo
Máy văn phòng và thiết bị dữ liệu
Tạp phẩm
Máy điện và các dụng cụ điện
Chất dẻo
Vải sợi
Kim loại
Điện
Kim loại màu
Thuốc lá
Tất cả các sản phẩm
1993
71,857
17,247
20,568
22,668
3,441
16,180
1,262
1,941
1,181
2,423
223,027
1994
73,086
17,623
19,272
24,815
3,948
15,038
1,299
832
1,312
2,394
222,092
1995
73,801
17,866
19,876
31,889
4,506
14,030
1,674
722
1,579
2,215
231,657
1996
69,447
13,090
18,092
30,357
3,823
13,693
1,501
314
1,635
2,145
212,160
1997
72,228
10,425
17,397
32,958
3,577
12,655
1,372
336
1,614
2,073
211,410
1998
74,874
8,922
14,892
26,688
3,076
10,767
1,161
366
1,571
1,201
188,454
1999
74,251
8,254
14,197
23,790
2,493
9,488
1,077
387
2,065
678
170,600
2000
77,415
7,303
16,408
28,533
2,839
9,164
1,185
627
2,253
810
180,967
2001
72,240
5,721
14,352
20,322
2,268
8,193
1,274
746
1,191
815
153,520
2002
65,039
5,273
14,255
15,564
2,393
7,645
1,271
1,013
903
937
130,926
2003
63,880
4,925
14,621
10,235
2,411
5,898
1,757
1,323
858
1,198
121,687
2004
63,392
5,279
14,834
13,115
3,109
5,325
2,368
1,433
1,046
1,611
125,982
2005
56,240
13,721
15,038
18,839
4,643
4,695
2,450
1,959
1,411
1,568
136,030
2006
52,233
19,482
15,259
13,507
5,060
4,120
3,104
1,975
1,730
1,669
134,527
2007
38,889
2,947
16,469
7,917
6,064
3,608
3,789
1,789
1,895
1,874
109,122
Nguồn: HK Census and Statistics Department
Hình 2.10. Bảng thống kê giá trị xuất khẩu hàng hoá nội địa tới 10 thị trường chính của Hồng Kông (1987-2007)
Đơn vị: triệu $ HK
Năm
USA
Đại lục
Anh
Đức
Đài Loan
Singapore
Nhật Bản
Hà Lan
Macao
Australia
Tổng giá trị
1987
72,817
27,871
12,905
14,943
2,384
3,880
9,489
4,027
1,007
3,697
195,254
1988
72,884
38,043
15,524
16,242
3,460
5,223
11,435
4,918
1,077
4,172
217,664
1989
72,162
43,272
14,638
15,757
4,460
5,804
13,028
4,756
1,169
4,198
224,104
1990
66,370
47,470
13,496
17,991
5,720
7,796
12,079
4,964
1,168
3,527
225,875
1991
62,870
54,404
13,706
19,318
6,066
8,794
11,666
5,238
1,117
3,110
231,045
1992
64,600
61,959
12,541
15,956
6,500
10,360
10,997
4,878
1,272
2,733
234,123
1993
60,292
63,367
10,771
13,969
6,261
11,344
9,677
4,520
1,170
2,339
223,027
1994
61,419
61,009
10,292
12,811
6,076
12,225
10,455
4,775
1,311
2,565
222,092
1995
61,250
63,555
10,941
12,178
7,971
12,236
11,877
5,152
1,502
2,597
231,657
1996
53,860
61,620
10,597
11,388
6,705
10,009
11,335
4,674
1,577
2,113
212,160
1997
55,073
63,867
10,723
10,321
7,029
8,404
10,641
5,138
1,286
1,889
211,410
1998
54,842
56,066
10,058
9,805
6,505
5,103
6,435
4,736
1,004
1,639
188,454
1999
51,358
50,414
10,392
8,543
5,101
3,682
5,459
4,119
642
1,285
170,600
2000
54,438
54,158
10,681
9,294
6,104
4,716
5,084
3,910
588
1,171
180,967
2001
47,589
49,547
8,578
5,818
5,346
2,650
4,060
4,619
609
991
153,520
2002
41,908
41,374
7,588
4,273
4,388
2,161
2,969
3,470
654
825
130,926
2003
39,130
36,757
7,762
4,853
3,653
2,237
2,848
2,473
528
959
121,687
2004
38,636
37,898
8,190
4,985
4,664
3,149
2,812
2,616
546
1,128
125,982
2005
37,767
44,643
7,304
4,353
5,142
4,076
4,320
5,386
965
1,869
136,030
2006
33,159
40,268
7,859
4,910
4,461
4,128
4,931
7,958
1,457
2,478
134,527
2007
23,878
40,610
5,847
3,022
4,032
3,047
2,864
2,922
1,688
1,764
109,122
Nguồn: HK Census and Statistics Department
Tái xuất khẩu.
Tái xuất khẩu là việc những sản phẩm sản xuất bên ngoài lãnh thổ Hồng Kông, đặc biệt ở Trung Hoa đại lục, đầu tiên được nhập khẩu vào Hồng Kông. Sau đó, lại được xuất khẩu đi nơi khác mà không có bất cứ sự thay đổi nào.
3 nhóm mặt hàng chính cho xuất khẩu lại của Hồng Kông bao gồm: hàng tiêu dùng, sản phẩm công nghiệp nhẹ và các sản phẩm chế biến từ nguyên liệu thô.
Các sản phẩm xuất khẩu lại chính trong nhóm hàng tiêu dùng bao gồm quần áo, vải sợi, giầy dép, tạp phẩm.
Các sản phẩm xuất khẩu lại chính trong nhóm hàng sản phẩm công nghiệp nhẹ bao gồm: các máy điện và các dụng cụ điện, thiết bị viễn thông, máy văn phòng và máy dữ liệu, dụng cụ quang học và đồng hồ.
Các sản phẩm xuất khẩu lại chính trong nhóm hàng sản phẩm chế biến từ nguyên liệu thô bao gồm: chất dẻo và phi kim
Những năm trước đây, hàng tiêu dùng là nhóm hàng chủ lực đối với xuất khẩu lại của Hồng Kông khi đóng góp tới gần ½ giá trị xuất khẩu lại của Hồng Kông nhưng trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của công nghiệp chế biến thì nhóm sản phẩm công nghiệp nhẹ đã dần dần thay thế hàng tiêu dùng để trở thành nhóm hàng chủ lực của xuất khẩu lại khi chiếm tới gần 2/3 tổng giá trị xuất khẩu lại.
10 thị trường chính của tái xuất khẩu Hồng Kông bao gồm: Trung Quốc đại lục, Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Hà Lan và Pháp.
Những năm 60-70, Nhật Bản, Mỹ, Singapore và Đài Loan là những thị trường xuất khẩu chính của tái xuất khẩu Hồng Kông khi chiếm tới gần 50% tổng giá trị xuất khẩu nhưng từ những năm 80 đến nay, thị trường Đại lục trở thành đối tác xuất khẩu quan trọng nhất của Hồng Kông do nhu cầu phát triển cũng như sự bùng nổ về kinh tế, khi luôn chiếm từ 40-50% tổng giá trị xuất khẩu lại. Trong khi đó, có thể thấy sự thay thế của thị truờng Anh, Đức và Hàn Quốc đối với thị trường Đài loan, và Singapore khi giá trị xuất khẩu đến những thị trường trên có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm vừa qua.
Nhìn chung, tái xuất khẩu là một vũ khí chiến lược của xuất khẩu nói riêng cũng như nền kinh tế Hồng Kông nói chung khi giá trị của nó liên tục tăng nhanh trong suốt hơn 40 năm qua từ những năm 60 đến nay cụ thể là giá trị của tái xuất khẩu năm 2007 đã gấp 620 lần so với năm 1972 qua đó đóng góp rất lớn vào tăng trưởng GDP của Hồng Kông.
Hình 2.11. Bảng thống kê 10 sản phẩm xuất khẩu lại chính của
Hồng Kông (1997-2007)
Đơn vị: triệu $HK
Năm
Máy điện và các dụng cụ điện
Thiết bị viễn thông
Máy văn phòng và máy dữ liệu
Tạp phẩm
Quần áo
Vải sợi
Dụng cụ quang học, đồng hồ
Chất dẻo
Phi kim
Giầy dép
Tất cả các sản phẩm
1997
136,784
116,801
86,253
162,642
106,669
100,395
58,838
30,047
22,398
65,619
1,244,539
1998
132,040
114,348
92,902
155,544
96,799
90,234
58,379
27,798
19,952
51,913
1,159,195
1999
156,479
114,325
98,136
161,888
99,308
85,710
59,790
29,387
21,843
47,840
1,178,400
2000
220,611
148,663
120,509
179,586
111,268
95,573
69,583
35,298
27,543
50,534
1,391,722
2001
215,892
142,304
132,680
158,421
110,609
87,053
69,480
30,241
25,400
45,938
1,327,467
2002
247,313
177,342
153,836
158,877
109,912
89,243
67,352
34,111
29,316
44,905
1,429,590
2003
303,728
219,182
184,233
162,350
116,477
96,025
73,216
38,621
31,672
44,667
1,620,749
2004
383,822
286,584
215,076
171,755
132,115
106,039
80,280
49,255
37,131
44,297
1,893,132
2005
442,175
324,923
274,823
180,867
156,027
102,866
80,888
55,989
47,608
47,750
2,114,143
2006
540,988
358,119
295,753
184,301
168,296
103,932
81,577
61,125
54,904
46,737
2,326,500
2007
642,572
428,095
258,813
227,625
185,514
101,066
88,008
65,830
67,834
46,488
2,578,392
Nguồn: HK Census and Statistics Department
. Hình 2.12. Giá trị tái xuất khẩu tới 10 thị trường chính của Hồng Kông (1989 – 2007)
Đơn vị: triệu $HK
Năm
Đại lục
USA
Nhật Bản
Đức
Anh
Đài Loan
Hàn Quốc
Singapore
Hà Lan
Pháp
Tổng giá trị
1989
103,492
72,033
22,268
13,502
8,918
16,478
13,279
11,029
3,931
4,543
346,405
1990
110,908
87,752
24,376
23,406
12,107
21,248
13,011
12,572
5,910
6,415
413,999
1991
153,318
110,802
29,574
32,073
14,663
24,765
14,631
12,094
7,232
9,038
534,841
1992
212,105
148,500
37,465
33,103
20,591
26,156
13,588
13,866
9,781
11,039
690,829
1993
274,561
180,349
44,156
40,798
24,536
21,910
15,538
17,143
11,977
12,864
823,224
1994
322,835
210,077
54,745
41,617
27,318
22,416
16,483
20,346
13,542
13,671
947,921
1995
384,043
230,997
70,081
45,770
32,257
27,758
19,292
26,011
16,702
17,452
1,112,470
1996
417,752
242,342
80,154
47,216
35,991
26,638
20,091
28,388
18,261
18,823
1,185,758
1997
443,878
261,372
77,724
46,336
39,066
29,581
19,310
29,385
19,847
20,293
1,244,539
1998
407,366
259,856
64,194
42,161
42,259
27,368
12,241
25,625
20,332
21,316
1,159,195
1999
399,188
269,444
67,506
44,122
45,541
27,859
19,793
28,716
19,422
22,837
1,178,400
2000
488,823
311,047
82,050
50,599
52,356
33,696
26,978
32,028
20,373
25,205
1,391,722
2001
496,574
282,189
83,551
45,774
46,764
30,021
24,640
26,929
20,693
21,516
1,327,467
2002
571,870
291,043
80,743
44,567
46,644
30,193
29,264
29,424
22,775
19,243
1,429,590
2003
705,787
285,084
91,154
51,369
49,625
38,616
34,336
33,468
25,498
20,676
1,620,749
2004
850,645
302,964
104,733
57,915
57,663
44,447
42,673
40,428
30,524
24,964
1,893,132
2005
967,923
322,872
114,258
68,367
61,944
45,285
46,591
42,465
37,252
30,341
2,114,143
2006
1,115,941
337,971
115,490
70,753
65,773
47,645
50,084
44,484
33,082
31,841
2,326,500
2007
1,267,722
344,324
116,703
78,096
69,015
48,902
51,477
47,403
41,498
34,190
2,578,392
Nguồn: HK Census and Statistics Department
Xuất khẩu dịch vụ.
Xuất khẩu dịch vụ: bao gồm các dịch vụ liên quan đến thương mại, vận chuyển, du lịch và các dịch vụ khác ( như bảo hiểm, tài chínhvv...).
Trong đó, xuất khẩu dịch vụ vận tải chiếm tỉ trọng cao nhất bởi sự phát triển của xuất khẩu của Hồng Kông kéo theo sự phát triển của dịch vụ vận tải. Bên cạnh đó, với sự phát triển về kinh tế cũng như các chính sách mở cửa của chính phủ, Hồng Kông đã trở thành một trong những trung tâm tài chính – thương mại của thế giới làm cho xuất khẩu các dịch vụ tài chính, kinh tế cũng đóng góp khá lớn vào giá trị xuất khẩu dịch vụ.
Thị trường chính của xuất khẩu dịch vụ Hồng Kông là Trung Quốc đại lục, Mỹ, Anh, Nhật và Đài Loan. Trong đó, Mỹ và Đại lục là những đối tác chính của Hồng Kông khi chiếm hơn 50 % tỷ trọng tổng giá trị xuất khẩu
Hình 2.13. Biểu đồ miêu tả xuất khẩu dịch vụ của Hồng Kông năm 2007
: Vận tải
: Du lịch
: Dịch vụ thương mại liên quan
: Các dịch vụ khác
Nguồn: ww.hkecnomy.gov.hk
Hình 2.14. Giá trị xuất khẩu dịch vụ tới những thị trường chính của Hồng Kông (1995-2006)
Năm
Đại lục
Mỹ
Anh
Nhật Bản
Đài Loan
Thị trường khác
Tổng giá trị
1995
40,092
51,120
12,692
35,345
21,104
80,230
240,584
1996
46,457
58,792
15,169
39,663
19,557
92,544
272,183
1997
52,834
64,939
14,120
29,243
17,722
93,901
272,760
1998
65,067
48,242
11,654
27,433
14,765
90,256
257,416
1999
63,658
54,053
14,410
25,577
15,043
92,794
265,536
2000
68,844
68,488
18,904
27,958
20,477
97,144
301,813
2001
76,479
70,205
17,966
26,945
20,938
95,125
307,657
2002
94,547
70,606
19,837
29,808
22,036
98,530
335,363
2003
102,281
74,351
19,080
25,481
25,353
108,629
355,175
2004
116,788
87,535
26,262
30,699
31,230
133,126
425,640
2005
127,947
100,294
33,471
34,803
35,349
153,857
485,721
2006
137,007
119,030
44,238
40,131
36,322
177,868
554,596
Nguồn: HK Census and Statistics Department
2.3.2.2.Thị trường xuất khẩu.
Các đối tác xuất khẩu chính của Hồng Kông là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, EU, Singapore và Đài Loan. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Hồng Kông bởi nhu cầu rất lớn về hàng hoá cho tiêu dùng cũng như những hoạt động kinh tế ngoại thương mạnh mẽ của đại lục tiếp đến là Mỹ và EU.
Nếu từ những năm 60 đến những năm 80 trước đây, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Hồng Kông khi chiếm tới 30-40% giá trị xuất khẩu thì từ những năm 90 trở lại đây Đại lục dần dần thay thế Mỹ và trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Hồng Kông và chiếm khoảng 50% tổng giá trị xuất khẩu của Hồng Kông.
Bên cạnh đó, với sự phát triển kinh tế nhanh chóng của các thị trường Châu Á khác như Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia cùng nhu cầu nhập khẩu lớn nhằm nâng cao sức mạnh nền kinh tế cũng là động lực thúc đẩy xuất khẩu Hồng Kông đến những nền kinh tế này.
Hình 2.15. Biểu đồ xuất khẩu hàng hoá của Hồng Kông trong nửa đầu năm 2008
Đơn vị: tỷ USD
Ghi chú: Tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá nửa đầu năm 2008 của Hồng Kông là 1351,4 tỷ USD
Nguồn: www.hkecnomy.gov.hk
Hình 2.16. Biểu đồ sự thay đổi tỉ lệ hàng năm của xuất khẩu Hồng Kông tới Trung Quốc đại lục và các thị trường khác
Đơn vị: %
------- : Xuất khẩu Hồng Kông đến Đại lục
------- : Xuất khẩu của Hồng Kông đến tất cả các thị trường khác
Nguồn: www.hkecnomy.gov.hk
Trong thời gian gần đây, trong số các thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu Singapore có dấu hiệu tăng cao do tác động của sự khởi sắc trong ngành công nghiệp điện tử Singapore. Tuy nhiên, trong tương lai, một số nền kinh tế Châu Á nói trên sẽ phải đối mặt với những thách thức từ sự suy yếu của nền kinh tế toàn cầu và sự gia tăng lạm phát.
Hình 2.17. Biểu đồ xuất khẩu của Hồng Kông đến thị trường Singapore
Đơn vị: %
------: Xuất khẩu của HK đến Singapore
-------: Nhu cầu nhập khẩu của Singapore
--------: Tỷ giá $HK/$ Singapore
Nguồn: www.hkecnomy.gov.hk
Trong khi đó, do sự đi xuống của nền kinh tế Mỹ nên xuất khẩu của Hồng Kông đến thị trường này, chủ yếu là hàng tiêu dùng, có dấu hiệu sụt giảm.
Hình 2.18. Biểu đồ xuất khẩu của Hồng Kông đến thị trường Mỹ
Đơn vị: %
------: Xuất khẩu của HK đến Mỹ
-------: Nhu cầu nhập khẩu của Mỹ
Nguồn: www.hkecnomy.gov.hk
Xuất khẩu của Hồng Kông đến thị trường Châu Âu vẫn duy trì sự tăng trưởng nhẹ do chính sách mở rộng kinh tế cũng như sức mạnh của đồng Euro.
Hình 2.19. Biểu đồ miêu tả xuất khẩu Hồng Kông đối với thị trường EU
Đơn vị: %
------: Xuất khẩu của HK đến EU
-------: Nhu cầu nhập khẩu của EU
--------: Tỷ giá $HK/Euro
Nguồn: www.hkecnomy.gov.hk
Xuất khẩu đối với thị trường Nhật Bản giảm thấp do nhu cầu trong nước của Nhật Bản vẫn rất thấp cũng như chính sách cắt giảm chi tiêu của chính phủ Nhật Bản.
Hình 2.20. Biểu đồ miêu tả xuất khẩu Hồng Kông đến thị trường Nhật
Đơn vị: %
------: Xuất khẩu của HK đến Nhật
-------: Nhu cầu nhập khẩu của Nhật
--------: Tỷ giá $HK/ đồng Yên
Nguồn: www.hkecnomy.gov.hk
Xuất khẩu tới Hàn Quốc cũng giảm do ảnh hưởng từ sự tiết chế trong chi tiêu của các nền kinh tế khác trong không khí ảm đạm chung của kinh tế thế giới.
Hình 2.21. Biểu đồ miêu tả xuất khẩu Hồng Kông đến thị trường Hàn Quốc
Đơn vị: %
------: Xuất khẩu của HK đến Hàn Quốc
-------: Nhu cầu nhập khẩu của Hàn Quốc
--------: Tỷ giá $HK/ đồng Won
Nguồn: www.hkecnomy.gov.hk
2.3.2.3.Thực trạng và những vấn đề hiện tại của xuất khẩu Hồng Kông.
Trung bình hàng năm xuất khẩu Hồng Kông tăng 7% và đóng góp khoảng 70% vào sự tăng trưởng GDP trong suốt hơn 2 thập kỷ qua. Trong số 3 phương thức chính nói trên, tái xuất khẩu được đánh giá là có sự phát triển mạnh mẽ nhất, tăng trưởng trung bình 20% một năm và đóng góp tới 40% vào tăng trưởng GDP trong mỗi thời kỳ.
Sự tăng trưởng của tái xuất khẩu còn được khuyến khích bởi sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc đại lục và cụ thể hơn là sự phân bố lại khu vực sản xuất. Kết quả là, xuất khẩu hàng hoá nội địa đã sụt giảm một cách đáng kể từ năm 1990. Trong khi đó, xuất khẩu dịch vụ đã tăng trưởng một cách vững chắc và mạnh mẽ từ năm 1980 cho đến nay và đóng góp tới 29% vào tăng trưởng GDP cùng với sự tăng trưởng của các dịch vụ thương mại liên quan.
Hình 2.22. Sự tăng trưởng và đóng góp của các phương thức xuất khẩu vào GDP của Hồng Kông (1981 – 2001)
1981 - 1989
1990 - 2001
1981 – 2001
Tăng trưởng(%)
Xuất khẩu nội địa
8,4
-2,5
1,7
Lợi nhuận tái xuất khẩu
23,1
18,0
20,0
Xuất khẩu dịch vụ
8,1
5,8
6,8
Hoạt động thương mại liên quan
3,3
9,3
6,9
Tổng lợi nhuận xuất khẩu
9,2
5,0
6,7
Đóng góp vào tăng trưởng GDP (%)
Xuất khẩu nội địa
32,9
-11,6
7,2
Lợi nhuận tái xuất khẩu
8,9
68,6
39,5
Xuất khẩu dịch vụ
25,4
32,3
29,0
Hoạt động thương mại liên quan
2,5
12,3
7,0
Tổng lợi nhuân xuất khẩu
67,3
70,0
69,9
Nguồn: HK Census and Statistics Department
Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề tồn tại đối với xuất khẩu của Hồng Kông, tình trạng xuất khẩu Hồng Kông trong những năm gần đây cùng với sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc đại lục đã tạo nên những lo ngại về sự phân hoá phát triển xuất khẩu giữa hai nền kinh tế và triển vọng xuất khẩu của Hồng Kông trong tương lai. Xuất khẩu Hồng Kông đã tụt lại so với xuất khẩu của đại lục, khi tỷ lệ giá trị xuất khẩu giữa Hồng Kông và Đại lục đã giảm một cách nhanh chóng từ 120% vào giữa những năm 80 xuống dưới 40% vào năm 2001.
Sự sụt giảm tỉ lệ nói trên ngoài sự phát triển mạnh mẽ của Đại lục trong những năm gần đây còn bao gồm việc hàng hoá ở Đại lục từ phía nam Trung Quốc được vận chuyển trực tiếp đến nơi nhận hàng mà không thông qua Hồng Kông, kết quả là chi phí vận chuyển thấp hơn và nâng cao được tính cạnh tranh, có được điều này là do sự nâng cấp cơ sở hạ tầng và cải thiện chất lượng dịch vụ của Trung Quốc đại lục.
Sự phát triển xuất khẩu không cân đối trên còn được thể hiện qua việc phát triển xuất khẩu ở phía Đông Trung Quốc, đặc biệt là Thượng Hải và khu vực Châu thổ sông Trường (Yangzte River Delta) nhanh hơn so với khu vực Châu thổ sông Châu (Pearl River Delta), nơi mà Hồng Kông có quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn.
Hình 2.23. Biểu đồ miêu tả tỷ lệ giá trị xuất khẩu của Hồng Kông so với Đại lục
Đơn vị: %
Nguồn:HK Census and Statistics Department, CEIC and HKMA estimates
Bên cạnh đó, sự sụt giảm nhanh chóng của các thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ và Nhật Bản do ảnh hưởng bởi sự đi xuống của nền kinh tế thế giới cũng như sự nổi lên của các nền kinh tế mới nổi khác như Malaysia, Thái Lan cũng là một tín hiệu đáng lo ngại đối với xuất khẩu Hồng Kông.
2.4. Đóng góp của ngoại thương vào sự phát triển của nền kinh tế Hồng Kông.
2.4.1. Kết quả hoạt động của ngoại thương Hồng Kông
Trước năm 1957, Hồng Kông theo đuổi chiến lược hướng nội, tập trung phát triển công nghiệp và các ngành sản xuất trong nước vì thế xuất khẩu của Hồng Kông chủ yếu là xuất khẩu nội địa mà không bao gồm tái xuất khẩu và quy mô xuất khẩu vẫn còn rất nhỏ. Sau năm 1957, do hạn chế về thị trường nhỏ hẹp và nợ nước ngoài tăng, Hồng Kông đã có những thay đổi về chiến lược phát triển, thay vào đó là chiến lược hướng ngoại và các chính sách mở cửa nhằm thu hút đầu tư từ nước ngoài cũng như giải quyết các hạn chế còn tồn tại.
Qua số liệu trên có thể thấy, xuất nhập khẩu của Hồng Kông có những bước phát triển vượt bậc qua các năm. Nếu như năm 1952, giá trị nhập khẩu là 3.779 triệu HK$, giá trị xuất khẩu là 2.899 HK$ thì đến năm 2007, giá trị nhập khẩu là 2.868.011 HK$ gấp 755 lần còn giá trị xuất khẩu là 2.687.513 HK$ gấp 927 lần.
Vào những năm 50 thế kỷ trước, do ảnh hưởng của Chiến tranh lạnh, ngoại thương Hồng Kông phát triển tương đối chậm và giảm xuống đặc biệt là năm 1954, tốc độ tăng nhập khẩu là -11,3 %, tốc độ xuất khẩu là -11,6%. Sau giai đoạn này, ngoại thương Hồng Kông tăng trưởng nhanh và ổn định đặc biệt là giai đoạn những năm 1970 – 1980, tốc độ tăng trưởng đạt trung bình khoảng 20% mặc dù bị ảnh hưởng bởi “khủng hoảng dầu mỏ thế giới” vào năm 1975 khi giá trị nhập khẩu giảm 1,9% và giá trị xuất khẩu giảm 0,7% nhưng ngoại thương Hồng Kông đã vực dậy rất nhanh ngay sau đó với mức tăng 29,3% với nhập khẩu và 39,3% với xuất khẩu.
Giai đoạn những năm 1990 đến nay, tốc độ phát triển của ngoại thương Hông Kông đã có phần chậm lại một phần do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 biểu hiện là năm 1998 tốc độ nhập khẩu của Hồng Kông đã giảm tới 11,5% còn tốc độ xuất khẩu giảm 7,4% tuy nhiên những năm gần đây, ngoại thương Hồng Kông đã dần khôi phục trở lại với tốc độ tăng trung bình hàng năm trên 10%.
Hình 2.24. Kim ngạch xuất nhập khẩu (1952-2007)
Năm
Nhập khẩu
Xuất khẩu nội địa
Tái xuất khẩu
Tổng xuất khẩu
Nhập siêu
Quy mô (triệu $HK)
Tốc độ(%)
Quy mô (triệu $HK)
Tốc độ(%)
Quy mô (triệu $HK)
Tốc độ(%)
Quy mô (triệu $HK)
Tốc độ(%)
Quy mô (triệu $HK)
1952
3,779
N.A.
2,899
N.A.
_
N.A.
2,899
N.A.
880
1953
3,873
+2.5
2,734
-5.7
_
N.A.
2,734
-5.7
1,139
1954
3,435
-11.3
2,417
-11.6
_
N.A.
2,417
-11.6
1,018
1955
3,719
+8.3
2,534
+4.8
_
N.A.
2,534
+4.8
1,185
1956
4,566
+22.8
3,210
+26.7
_
N.A.
3,210
+26.7
1,357
1957
5,149
+12.8
1,202
N.A.
1,814
N.A.
3,016
-6.0
2,133
1958
4,594
-10.8
1,260
+4.8
1,729
-4.7
2,989
-0.9
1,605
1959
4,949
+7.7
2,282
+81.1
995
-42.4
3,278
+9.7
1,672
1960
5,864
+18.5
2,867
+25.6
1,070
+7.5
3,938
+20.1
1,926
1961
5,970
+1.8
2,939
+2.5
991
-7.4
3,930
-0.2
2,040
1962
6,657
+11.5
3,317
+12.9
1,070
+8.0
4,387
+11.6
2,270
1963
7,412
+11.3
3,831
+15.5
1,160
+8.4
4,991
+13.8
2,421
1964
8,551
+15.4
4,428
+15.6
1,356
+16.9
5,784
+15.9
2,767
1965
8,965
+4.8
5,027
+13.5
1,503
+10.8
6,530
+12.9
2,435
1966
10,097
+12.6
5,730
+14.0
1,833
+22.0
7,563
+15.8
2,534
1967
10,449
+3.5
6,700
+16.9
2,081
+13.5
8,781
+16.1
1,668
1968
12,472
+19.4
8,428
+25.8
2,142
+2.9
10,570
+20.4
1,901
1969
14,893
+19.4
10,518
+24.8
2,679
+25.1
13,197
+24.9
1,696
1970
17,607
+18.2
12,347
+17.4
2,892
+7.9
15,238
+15.5
2,369
1971
20,256
+15.0
13,750
+11.4
3,414
+18.1
17,164
+12.6
3,092
1972
21,764
+7.4
15,245
+10.9
4,154
+21.7
19,400
+13.0
2,364
1973
29,005
+33.3
19,474
+27.7
6,525
+57.1
25,999
+34.0
3,005
1974
34,120
+17.6
22,911
+17.6
7,124
+9.2
30,036
+15.5
4,084
1975
33,472
-1.9
22,859
-0.2
6,973
-2.1
29,832
-0.7
3,640
1976
43,293
+29.3
32,629
+42.7
8,928
+28.0
41,557
+39.3
1,736
1977
48,701
+12.5
35,004
+7.3
9,829
+10.1
44,833
+7.9
3,868
1978
63,056
+29.5
40,711
+16.3
13,197
+34.3
53,908
+20.2
9,147
1979
85,837
+36.1
55,912
+37.3
20,022
+51.7
75,934
+40.9
9,903
1980
111,651
+30.1
68,171
+21.9
30,072
+50.2
98,242
+29.4
13,408
1981
138,375
+23.9
80,423
+18.0
41,739
+38.8
122,163
+24.3
16,212
1982
142,893
+3.3
83,032
+3.2
44,353
+6.3
127,385
+4.3
15,508
1983
175,442
+22.8
104,405
+25.7
56,294
+26.9
160,699
+26.2
14,743
1984
223,370
+27.3
137,936
+32.1
83,504
+48.3
221,441
+37.8
1,929
1985
231,420
+3.6
129,882
-5.8
105,270
+26.1
235,152
+6.2
-3,733
1986
275,955
+19.2
153,983
+18.6
122,546
+16.4
276,530
+17.6
-575
1987
377,948
+37.0
195,254
+26.8
182,780
+49.2
378,034
+36.7
-87
1988
498,798
+32.0
217,664
+11.5
275,405
+50.7
493,069
+30.4
5,729
1989
562,781
+12.8
224,104
+3.0
346,405
+25.8
570,509
+15.7
-7,728
1990
642,530
+14.2
225,875
+0.8
413,999
+19.5
639,874
+12.2
2,656
1991
778,982
+21.2
231,045
+2.3
534,841
+29.2
765,886
+19.7
13,096
1992
955,295
+22.6
234,123
+1.3
690,829
+29.2
924,953
+20.8
30,342
1993
1,072,597
+12.3
223,027
-4.7
823,224
+19.2
1,046,250
+13.1
26,347
1994
1,250,709
+16.6
222,092
-0.4
947,921
+15.1
1,170,013
+11.8
80,695
1995
1,491,121
+19.2
231,657
+4.3
1,112,470
+17.4
1,344,127
+14.9
146,994
1996
1,535,582
+3.0
212,160
-8.4
1,185,758
+6.6
1,397,917
+4.0
137,664
1997
1,615,090
+5.2
211,410
-0.4
1,244,539
+5.0
1,455,949
+4.2
159,141
1998
1,429,092
-11.5
188,454
-10.9
1,159,195
-6.9
1,347,649
-7.4
81,443
1999
1,392,718
-2.5
170,600
-9.5
1,178,400
+1.7
1,349,000
+0.1
43,718
2000
1,657,962
+19.0
180,967
+6.1
1,391,722
+18.1
1,572,689
+16.6
85,273
2001
1,568,194
-5.4
153,520
-15.2
1,327,467
-4.6
1,480,987
-5.8
87,208
2002
1,619,419
+3.3
130,926
-14.7
1,429,590
+7.7
1,560,517
+5.4
58,903
2003
1,805,770
+11.5
121,687
-7.1
1,620,749
+13.4
1,742,436
+11.7
63,334
2004
2,111,123
+16.9
125,982
+3.5
1,893,132
+16.8
2,019,114
+15.9
92,009
2005
2,329,469
+10.3
136,030
+8.0
2,114,143
+11.7
2,250,174
+11.4
79,295
2006
2,599,804
+11.6
134,527
-1.1
2,326,500
+10.0
2,461,027
+9.4
138,777
2007
2,868,011
+10.3
109,122
-18.9
2,578,392
+10.8
2,687,513
+9.2
180,497
Nguồn:HK Census and Statistics Department
2.4.2. Tác động của ngoại thương đến phát triển kinh tế Hồng Kông
Ngoại thương Hồng Kông, với tính đa dạng của nó và thị trường rộng lớn bao gồm các hoạt động ở đại lục và quốc tế, là một vũ khí chiến lược và đóng góp rất lớn vào sự phát triển của kinh tế Hồng Kông. Phương thức rõ ràng nhất để đánh giá sự đóng góp của ngoại thương đối với nền kinh tế Hồng Kông là giá trị đóng góp của nó vào GDP, lượng lợi nhuận thu được và số lượng lao động của ngoại thương trong nền kinh tế.Theo đó, ngoại thương là ngành có đóng góp GDP lớn nhất, thu được lượng ngoại tệ lớn nhất và là ngành có lượng lao động đứng thứ hai nền kinh tế
Bên cạnh đó, ngoại thương còn tạo ra nhu cầu cho các dịch vụ trung gian như vận tải, bảo hiểm và tài chính và như thế giá trị tăng thêm và việc làm tạo ra trong những ngành này sẽ được tính vào sự đóng góp của ngoại thương. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng không chỉ diễn ra một lần, thu nhập có được từ ngoại thương sẽ tạo ra khoản chi khác cho tiêu dùng hàng hóa và từ đó tạo ra thêm nhiều nhu cầu hơn.
Ngoại thương – khu vực kinh tế lớn nhất của Hồng Kông: Theo HKSAR Census and Statistics Department, ngoại thương đóng góp tới 21% GDP của Hồng Kông trong năm 2004 và là khu vực kinh tế lớn nhất của Hồng Kông và tiếp tục là động cơ thúc đẩy phát triển chính của Hồng Kông, theo đó ngoại thương luôn là khu vực hồi phục nhanh nhất từ khủng hoảng tài chính, trụ vững trước chu kỳ lên xuống kinh tế và vẫn tiếp tục phát triển. Từ năm 1980 đến 2005, chỉ có 3 trong tổng số 26 năm có sự sụt giảm trong xuất khẩu hàng hoá. Trong suốt thời kỳ này, lợi nhuận thu đuợc của xuất khẩu hàng hoá đã vượt qua cả GDP trừ năm 1982,1999 và 2001, không những vậy ngoại thương còn làm tốt hơn các ngành khác để trở thành khu vực đóng góp quan trọng nhất vào tăng trưởng GDP giai đoạn 2000-2005 với trên 50% tổng GDP thực tế.
Hình 2.25. Hoạt động của các khu vực kinh tế Hồng Kông năm 2004
(% GDP)
Hình 2.26. Tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng hoá của Hồng Kông (1980 – 2005)
-----: GDP
-----: Xuất khẩu hàng hoá
Ngoại thương là khu vực thu được phần lợi nhuận lớn nhất: Nếu tính theo giá trị của dollar thì lợi nhuận ròng của khu vực ngoại thương là lớn nhất trong số tất cả các khu vực kinh tế của Hồng Kông. Lợi nhuận thu được của ngoại thương năm 2004 là 161,5 tỷ HK$ chiếm tới 30% lợi nhuận của cả nền kinh tế. Theo thứ tự, dịch vụ tài chính, vận tải và dịch vụ là những ngành thu được lợi nhuận cao thứ hai và thứ ba nhưng giá trị thu được chỉ là 67 tỷ và 55 tỷ HK$. Thành tích trên được duy trì hơn 2 thập kỷ qua bởi lợi nhuận từ ngoại thương được tăng lên trung bình 10%/năm từ 1980-2004.
Hình 2.27. Lợi nhuận của các công ty ở Hồng Kông theo khu vực kinh tế năm 2004
Nguồn:HK Census and Statistics Department
Ngoại thương còn là khu vực kinh tế thu được lượng ngoại tế lớn nhất: Năm 2004, tái xuất khẩu thu được lượng ngoại tệ khoảng 328 tỷ HK$ trong khi đó thông qua dịch vụ, thuơng mại xa bờ thu được khoảng 147 tỷ HK$ đúng trên các khu vực kinh tế khác bao gồm vận tải,du lịch, tài chính và dịch vụ bảo hiểm, tổng lượng ngoại tệ thu được của ngoại thương nhiều hơn so với lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Hồng Kông.
Là khu vực có số lượng lao động lớn thứ hai Hồng Kông: Ngoại thương Hồng Kông có số lượng lao động là 773.400 người tính đến đầu năm 2005 và là khu vực kinh tế có lượng lao động lớn thứ hai sau khu vực dịch vụ. Lượng tiền lương và thù lao cho lao động trong khu vực ngoại thương khoảng 134 tỷ HK$ vào năm 2004, cũng lớn thứ hai sau khu vực dịch vụ.
Đồng thời đem lại lượng lợi nhuận khổng lồ cho các dịch vụ trung gian: ngoại thương còn tạo ra việc làm cho các khu vực kinh tế nội địa khác. Các nhà sản xuất và thương mại Hồng Kông dựa vào các công ty trong nước để cung cấp kỹ thuật, hậu cần, kiểm soát chất lượng, mẫu mã, tài chính, bảo hiểm và các loại dịch vụ khác như là đầu vào trung gian cho sản phẩm của họ và việc xuất khẩu. Do đó, tồn tại một mạng lưới thương mại tinh vi và sợi dây liên kết của hệ thống này bao gồm nhà thiết kế và phát triển sản phẩm, thanh tra chất lượng, người nghiên cứu thử nghiệm, người chuyên chở hàng hoá, ngân hàng, công ty bảo hiểm, luật sư và kế toán. Tổng lượng tiêu dùng trung gian của ngoại thương vào năm 2004 là 178,4 tỷ HK$ chiếm tới khoảng 20% tổng thiêu dùng trung gian của tất cả các ngành kinh tế và tương đương với khoảng 14 % GDP của năm đó.
Với hệ thống tinh vi này, nhu cầu của khu vực ngoại thương cho dịch vụ trung gian chính là một nguồn phát triển cho các khu vực kinh tế khác. Đặc biệt, đóng góp của nó cho sự phát triển của vận tải là rất lớn bởi xuất khẩu của Hồng Kông được xuất đi các thị trường nước ngoài thông qua đương bộ, đường hàng không và đường biển. Những khu vực kinh tế khác, như dịch vụ ngân hàng, cũng thu được lợi nhuận từ sự phát triển của ngoại thương.
Đóng góp gián tiếp vào sự giàu có của Hồng Kông: hoạt động ngoại thương đã tạo ra một nhu cầu lớn đối với tiêu dùng trung gian. Việc định lượng những tác động này trên giá trị tăng thêm đối với nền kinh tế và việc làm, dựa trên những phân tích về đầu vào và đầu ra, có thể thấy ngoại thương thực chất đã tạo ra nhiều giá tri tăng thêm và việc làm hơn thông qua nhu cầu cho dịch vụ trung gian.
Yếu tố chính tác động tới GDP và việc làm: như đã nói ở trên, ngoại thương đóng góp vào nền kinh tế Hồng Kông cả theo cách trực tiếp lẫn gián tiếp nhưng ảnh hưởng trên không chỉ diễn ra một lần, thông qua lợi nhuận doanh nghiệp và thù lao của người lao động, nó lại được đầu tư vào những ngành công nghiệp khác và lần lượt tạo ra chi tiêu các nhân, đầu tư cá nhân và những ảnh hưởng xa hơn. Sự tăng trưởng của ngoại thương còn làm thay đổi các số liệu kinh tế vĩ mô, theo ước lượng với 5% tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá năm 2004, GDP thực tế sẽ tăng khoảng 2,4% và tạo ra thêm trung bình 22.000 việc làm qua đó giảm khoảng 0,6% tỷ lệ thất nghiệp.
Có thể thấy, với những ảnh hưởng nêu trên, bằng cách trực tiếp cũng như gián tiếp ngoại thương đã, đang và sẽ là động lực thúc đẩy chính đối với kinh tế Hồng Kông.
Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy phát triển ngoại thương
của Hồng Kông và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Giải pháp thúc đẩy phát triển ngoại thương của Hồng Kông
Sau 2 thập kỷ phát triển nhanh, kinh tế Hồng Kông đang bước lên một tầm cao mới khi mà sự phát triển nhanh của nền kinh tế phụ thuộc vào sự thành công của việc quyết tâm thay đổi một vài cấu trúc. Với những vấn đề tồn tại với xuất khẩu Hồng Kông nói riêng và ngoại thương nói chung ở trên, đòi hỏi chính phủ Hồng Kông cần có những giải pháp thay thế nhằm thúc đẩy phát triển ngoại thương. Một xu hướng nổi lên trong thời gian gần đây là sự gia tăng nhanh chóng các dịch vụ liên quan đến thương mại song song với sự phát triển của các hoạt động thương mại xa bờ (offshore trade)
Thương mại xa bờ (offshore trade) bao gồm dịch vụ của cả “merchanting” và “merchandising” cho các giao dịch xa bờ. ”Merchanting” được hiểu như là những dịch vụ kết hợp với thương mại của hàng hoá được mua và bán tới những nơi bên ngoài Hồng Kông mà không bao gồm hàng hoá từ Hồng Kông. Nó cũng bao gồm việc bán hàng hoá được sản xuất thông qua hợp đồng gia công “thực hiện một phần” bán tới những nơi bên ngoài Hồng Kông không có hàng hoá từ Hồng Kông. Dịch vụ “Merchandising” (hay mua) cho các giao dịch xa bờ được hiểu là dịch vụ sắp xếp việc mua/bán hàng hoá thay mặt cho người mua/bán ở bên ngoài Hồng Kông. Không giống trong “merchanting”, các công ty Hồng Kông, với tư cách là người đại diện, không đem quyền sở hữu hàng hoá dính vào. Năm 2000, hơn 80% xuất khẩu dịch vụ liên quan tới thương mại xa bờ là từ ‘merchanting”.
Sự tăng trưởng của thương mại xa bờ nhanh hơn so với tái xuất khẩu trong thời kì gần đây. Xu hướng chuyển từ tái xuất khẩu sang thương mại xa bờ cũng được nhìn thấy rõ từ sự giảm xuống đóng góp của tái xuất khẩu vào tổng sắp xếp vận chuyển đối với xuất khẩu bắt nguồn từ đại lục. Tuy nhiên, tỉ lệ trung bình của lợi nhuận thương mại xa bờ, khoảng 10% năm 1999 và 8.6% năm 2000 ít hơn một nửa so với tái xuất khẩu. Đánh giá sự phát triển này, có vẻ như khu vực dịch vụ thương mại của Hồng Kông bao gồm công nghiệp cảng, vận tải thuỷ và sản phẩm xuất khẩu từ Đại lục đang đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ phần còn lại của đất nước và các nhà đầu tư nước ngoài khác.
Hình 3.1. So sánh lợi nhuận giữa tái xuất khẩu và thương mại xa bờ
Đơn vị: tỷ HK$
Nguồn:HK Census and Statistics Department
3.2. Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Từ những thành công của Hồng Kông trong phát triển ngoại thương cũng như những chính sách thúc đẩy xuất khẩu của trong thời gian qua có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm, trong đó có những bài học bổ ích mà những nước như Việt Nam có thể tham khảo vận dụng không chỉ trong việc thực hiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu, mà còn cho cả quá trình hoạch định đường lối và chính sách phát triển kinh tế của đất nước nói chung.
Chính sách thông thoáng: như đã nói ở trên, Hồng Kông có hệ thống chính sách mở và thông thoáng nhất thế giới, chính phủ Hồng Kông theo đuổi chính sách không can thiệp vào các quyết định thương mại trong đó các chính sách về nhập khẩu hàng hoá đơn giản, hầu như không có các hàng rào kinh tế qua đó thu hút đươc một lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Với những chính sách trên, Hồng Kông là nước có nền kinh tế tự do nhất thế giới 12 năm liên tiếp tính đến năm 2008 trong khi Việt Nam đứng thứ 97/141 nền kinh tế được khảo sát theo bản báo cáo hằng năm về nền kinh tế các nước do Viện Cato đưa ra.
Hệ thống luật kiện toàn, rõ ràng và hoàn chỉnh: Hồng Kông được đánh giá là nơi có hệ thống luật tốt nhất Châu Á năm 2008 theo nghiên cứu của PERC (Tổ chức Tư vấn về Rủi ro chính trị và Kinh tế) , nghiên cứu bao gồm luật bảo hộ tài sản trí tuệ, nạn tham nhũng, sự minh bạch và việc bắt buộc tuân theo luật, sự tự do không bị các vấn đề chính trị làm cản trở và những tiêu chuẩn giáo dục cũng như kinh nghiệm của luật sư cũng như các quan tòa của từng nước đều được tính đến trong khi đó Việt Nam đứng gần cuối cùng trong bảng xếp hạng do bắt nguồn từ sựu cản trở chính trị. Chính hệ thống luật pháp kiện toàn của Hồng Kông đã đem lại khả năng thành công cao hơn của các dự án kinh tế qua đó mang đến sự an tâm, cũng như tin tưởng cho các nhà đầu tư.
Hệ thống thuế đơn giản, thấp và minh bạch: Hồng Kông có một hệ thống thuế được đánh giá là đơn giản và thân thiện với doanh nghiệp nhất thế giới. Thuế được đánh vào 3 loại thu nhập là: lợi nhuận, tiền lương và bất động sản. Thuế lợi nhuận đánh vào lợi nhuận phát sinh tại Hồng Kông là kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp, nghề nghiệp chuyên môn. Mức thuế là 17,5% đối với doanh nghiệp và 16% đối với các loại hình kinh doanh khác. Thuế tiền lương: bất cứ ai có thu nhập phát sinh từ bất kỳ văn phòng, việc tuyển dụng hay hưu trí là đối tượng chịu thuế này. Mức thuế sau khi khấu trừ và các khoản phúc lợi không vượt quá 16% tổng thu nhập có thể định giá sau khi đã khấu trừ. Thuế bất động sản đánh vào chủ sở hữu nhà, đất, căn cứ vào thu nhập từ tiền cho thuê. Mức thuế là 16% đối với tổng tiền thuê nhà thu được sau khi khấu trừ 20% chi phí sửa chữa và chi phí khác. Đối với ngoại thương, Hồng Kông hầu như không có chính thuế đối với xuất, nhập khẩu hàng hoá. Trong khi đó, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam hiện đang quá phức tạp với nhiều mức thuế suất khác nhau, làm tốn nhiều thời gian của doanh nghiệp. Theo thống kê của WB, một doanh nghiệp mỗi năm phải mất 1.000 giờ để có thể đảm bảo tuân thủ được các thủ tục, quy định về thuế của Nhà nước. Tình trạng này đã dẫn tới các tệ nạn "phong bì, phong bao" hòng giảm bớt những khoảng thời gian lãng phí không cần thiết, tiết giảm chi phí. Theo số liệu điều tra của WB và IFC, một doanh nghiệp tại Việt Nam phải nộp tới 44 khoản thuế khác nhau, trong khi ở Hồng Kông, họ chỉ phải thanh toán làm 8 lần trong 1 năm.
Hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn hảo: do là thuộc địa của Anh trong một thời gian dài nên Hồng Kông sở hữu một hệ thống cơ sở hạ tần đồ sộ, hiện đại và rất khoa học. Chính cơ sở hạ tầng tốt như thế đã giúp Hồng Kông trở thành địa bàn mà nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư.
Đồng tiền ổn định: với lượng dự trữ ngoại hối đứng trong top 10 thế giới cùng với việc neo chặt đồng dollar Hồng Kông vào đồng USD theo một dải tỷ giá từ 7,75 và 7,85 dollar Hồng Kông ăn một dollar Mỹ giúp cho đồng dollar Hồng Kông luôn luôn được cố định qua đó giúp đỡ rất nhiều cho các nhà xuất khẩu Hồng Kông nói riêng cũng như ngoại thương và kinh tế Hồng Kông nói chung trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chính quyền trong sạch và hiệu quả: Hồng Kông được đánh giá là một trong những nơi có chính quyền trong sạch nhất thế giới, việc tiến hành chống tham nhũng của Hồng Kông được tiến hành từ những năm 70 của thế kỷ trước và thu được những thành công vô cùng to lớn. Bên cạnh đó, một yếu tố rất quan trọng khác đối với sự phát triển của Hồng Kông nói chung và ngoại thương nói riêng chính là hiệu quả hoạt động của chính quyền, sự phát triển nhanh chóng của xuất khẩu Hồng Kông một phần là do khả năng của chính phủ trong việc đa dạng hoá phuơng thức xuất khẩu và sản phẩm xuất khẩu.
Kết luận
Với những phân tích trên đây, có thể thấy được hoạt động, cách vận hành và vai trò to lớn của ngoại thương trong phát triển kinh tế Hồng Kông, ngoại thương với kết hợp nhiều yếu tố đông bộ khác như chính sách thông thoáng, hệ thống luật kiện toàn , hệ thống thuế thấp và chính quyền trong sạch ..v.v.. đã đưa kinh tế Hông Kông có những bước phát triển vượt bậc và trở thành một trong những trung tâm kinh tế của Châu Á. Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề tồn tại đối với ngoại thương Hồng Kông như ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới, sự phụ thuộc lớn vào đại lục, sự cạnh tranh của các nền kinh tế có điều kiện tương đương hay sự đi lên của các nền kinh tế mới nổi khác như Thái Lan, Malaysia. Qua ví dụ của Hồng Kông, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung trong việc phát triển ngoại thương, từ đó đưa ngoại thương trở thành đầu tầu trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế phát triển trường ĐHKTQD.
Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin dùng cho khối ngành kinh tế.
Wikipedia tiếng Việt (
Wikipedia, the free encyclopedia (
HK Census and Statistics Department (
Hong Kong Government Website (
Hong Kong Economy Website (
Development And Contribution Of Hong Kong’s Manufacturing And Trading Sector (
Country Reports On Economic Policy And Trade Practices (
Export Performance In Hong Kong – Offshore Trade And Re-exports (
External Trade Sector Of Hong Kong (
Foreign Trade And Economic Growth In Hong Kong: Experience And Prospects _ Edward K.Y.Chen (
FedEx – Hong Kong country profile (
Economic History Of Hong Kong (
US State Department – Background Note: Hong Kong (
Encyclopedia Of The Nations - Hong Kong International Trade (
Hong Kong: Economic Policy Analysis (
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6110.doc