LỜI NÓI ĐẦU
Chúng ta vẫn hay nói “ học đi đôi với hành” ,điều đó có nghĩa khi học lý thuyết trên ghế nhà trường ta cần phải biết đem những kiến thức đó ứng dụng vào thực tế. Và khi học về ngoại ứng- một dạng thất bại của thị trường đòi hỏi có sự can thiệp của chính phủ cũng như vậy. Để hiểu rõ hơn về ngoại ứng,đặc biệt là ngoại ứng tiêu cực trong thực tế như thế nào, ảnh hưởng của ngoại ứng đối với xã hội ra sao, nhà nước đã can thiệp như thế nào . ta đi vào phân tích ngoại ứng qua 1 ví dụ điển hình thực tế đã xảy ra. Đó chính là vụ Vedan làm ô nhiễm dòng sông Thị Vải.
Khi xã hội ngày càng phát triển,các doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt hơn để doanh nghiệp mình không những tồn tại được mà còn có thể ngày càng mở rộng quy mô và thị trường. Vì tăng lợi nhuận trước mắt, không ít các doanh nghiệp muốn cắt giảm chi phí bằng cách không xử lý rác thải theo quy định mà trực tiếp đổ rác thải ra môi trường tự nhiên. Những con sông vô tội đang trong xanh bỗng nhiên đen xì và bốc mùi hôi thối điều đó có nghĩa là môi trường đã bị ô nhiễm! Thế rồi cây cối không thể sinh sôi, thủy sản không thể sống được, con người đau ốm bệnh tật, tất cả những điều đó chính là ngoại ứng tiêu cực mà các nhà máy gây ra – một dạng thất bại của thị trường theo các nhà khoa học nghiên cứu.
Trên thực tế vụ án của Vedan không phải vụ duy nhất chỉ vì lợi ích của doanh nghiệp mình mà làm làm ô nhiễm môi trường, gây ra thiệt hại vô cùng nặng nề cho xã hội và chính phủ: Nhiều vụ xả thải sau đó như của Hào Dương (TP HCM), Tung Kuang (Hải Dương), Thông Thuận (Ninh Thuận), Đường Quảng Ngãi (Quảng Ngãi) .
Tuy nhiên vụ án Vedan là một trường hợp điển hình mà hành vi gây ô nhiễm môi trường có chủ ý đã bị phát hiện ra. Đây là 1 vụ án lớn đã làm xôn xao dư luận trong một thời gian dài,lật mở ra rất nhiều vấn đề mà trước nay vẫn âm thầm tồn tại không bị phát hiện. Tất cả những vấn để trên sẽ được nghiên cứu và phân tích theo mục lục sau đây:
I. LÝ THUYẾT
1. Khái niệm
2. Đặc điểm
3.Phân loại
II. VE-DAN VÀ QUÁ TRÌNH XẢ NƯỚC THẢI CHƯA QUA XỬ LÝ RA SÔNG THỊ VẢI
1. Giới thiệu Ve-dan
2. Giới thiệu sông Thị Vải
3. Tóm tắt hành vi gây ô nhiễm của Ve-dan
4. 12 hành vi phạt tiền 267,5 triệu đồng của Ve-dan
III. NGOẠI ỨNG TIÊU CỰC MÀ CÔNG TY VE-DAN GÂY RA
1. Ngoại ứng tiêu cực mà công ty Ve-dan gây ra theo khía cạnh lý thuyết15
2. Thực trạng ngoại ứng tiêu cực của Ve-dan17
IV. NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH THỨC HÀNH ĐỘNG29
1. Nguyên nhân chủ quan và chiêu thức hành động của Ve-dan29
2. Nguyên nhân khách quan32
V. GIẢI PHÁP34
1. Các giải pháp đối với riêng công ty Ve-dan34
2. Giải pháp để tránh các trường hợp tương tự như Ve-dan40
KẾT LUẬN50
49 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 7140 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ngoại ứng do ve-Dan gây ra, nguyên nhân và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c làm mát lấy từ sông Thị Vải khoảng 40.000 m3/ngày. Theo báo cáo tổng hợp về tài chính của Công ty Vedan, tổng vốn đầu tư đến nay là 460.724.000 USD; doanh thu từ năm 1994 - 2007 là 2.265.498.382 USD (khoảng 151 triệu USD/năm); lợi nhuận trước thuế từ năm 1994 - 2007 là 169.794.312 USD (khoảng 11,3 triệu USD/năm); lợi nhuận sau thuế từ năm 1994 - 2007 là 144.803.132 USD (khoảng 9,6 triệu USD/năm); số thuế đã nộp từ năm 1994 - 2007 là 133.151.086 USD (khoảng 8,9 triệu USD/năm); lương bình quân đầu người là 2.167.307 đồng/tháng.)
Nguồn: Viện Môi trường và Tài nguyên - Đại học Quốc gia TP HCM
Tạp chí môi trường số 7 năm 2010
Giới thiệu sông Thị Vải
Sông Thị Vải. Nguồn: Tuổi trẻ online
Sông Thị Vải là con sông chảy qua và làm ranh giới tự nhiên giữa Đồng Nai và Bà Rịa Vũng Tàu
Sông được bắt nguồn từ huyện Long Thành, chảy theo hướng đông - nam, qua Nhơn Trạch, đến huyện Tân Thành đổi hướng theo hướng nam đổ ra biển tại vịnh Gành Rái
Sông có tổng chiều dài khoảng 76km, đoạn chảy theo hướng nam làm ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Nhơn Trạch, TP.HCM và Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu
Tóm tắt hành vi gây ô nhiễm của Vedan
Từ khi thành lập Vedan đã thực hiện hành vi gây ô nhiếm dòng sông Thị Vải và mãi cho đến 14 năm sau thì sự việc mới bại lộ. Vụ Vedan là một vụ xả thải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng của Việt Nam. Dưới đây là tóm tắt hành vi gây ô nhiễm của Vedan:
Năm 1994, ngay sau khi đi vào hoạt động chính thức (vào thời điểm đó trên lưu vực sông Thị Vải có rất ít cơ sở công nghiệp hoạt động), Công ty Vedan đã thải chất thải gây ô nhiễm môi trường sông Thị Vải làm thủy sản chết hàng loạt.
Năm 1995, Công ty Vedan đã đồng ý đền bù với danh nghĩa là hỗ trợ ngư dân chuyển đổi sản xuất với số tiền 15 tỷ đồng cho 3 tỉnh/TP: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và TP HCM.
Trong điều kiện xả thải bình thường trước khi phát hiện vụ việc xảy ra (9/2008), lưu lượng nước thải của Công ty Vedan trung bình khoảng 5.000 - 5.800 m3/ngày, đã được xử lý tại 3 hệ thống xử lý nước thải (XLNT) của Công ty:
Hệ thống XLNT chế biến tinh bột biến tính bằng công nghệ UASB, kết hợp bùn hoạt tính có công suất 1.500 m3/ngày. Nước thải sau xử lý có nồng độ các chất ô nhiễm chính như sau (theo kết quả kiểm tra năm 2008 của Tổng cục Môi trường): TSS = 38 mg/l, BOD5 = 8 mg/l, COD = 31 mg/l, N-NH3 = 0,35 mg/l, Tổng N = 1,6 mg/l, và Tổng P = 1,84 mg/l; cơ bản đạt tiêu chuẩn cho phép (TCCP).
Hệ thống XLNT chế biến tinh bột bằng hệ thống 21 hồ sinh học tự nhiên có công suất 2.500 m3/ngày. Nước thải sau xử lý có nồng độ các chất ô nhiễm chính như sau (theo kết quả kiểm tra năm 2008 của Tổng cục Môi trường): TSS = 41 mg/l, BOD5 = 59 mg/l, COD = 113 mg/l, N-NH3 = 40,7 mg/l, Tổng N = 50,5 mg/l, và Tổng P = 2,94 mg/l; không đạt TCCP.
Hệ thống XLNT sản xuất Lysin từ mật rỉ đường bằng hệ thống sinh học hiếu khí bùn hoạt tính, kết hợp mương ôxy hóa có công suất 1.800 m3/ngày. Nước thải sau xử lý có nồng độ các chất ô nhiễm chính như sau (theo kết quả kiểm tra năm 2008 của Tổng cục Môi trường): TSS = 57 mg/l, BOD5 = 35 mg/l, COD = 80 mg/l, N-NH3 = 47,4 mg/l, Tổng N = 54,6 mg/l, và Tổng P = 3,68 mg/l; không đạt TCCP.
Hệ thống xả nước thải của Vedan ( Nguồn: dantri.com.vn)
Hồ chứ nước thải chưa qua xử lý của công ty Vedan ( Nguồn: tuổi trẻ online)
Đặc biệt nghiêm trọng, Công ty đã bơm xả trực tiếp dịch thải sau lên men bột ngọt Lysin và từ bể chứa bán âm dung tích 6.000 - 7.000 m3 và bồn chứa 15.000 m3 theo hệ thống đường ống (có đoạn chôn ngầm, có đoạn đi trên bề mặt đất) ra cầu cảng số 2, theo phát hiện của Đoàn Thanh tra và Cục Cảnh sát môi trường vào lúc 17h30 ngày 6/9/2008.
Tổng lượng dịch thải sau lên men được Công ty xả lén ra sông Thị Vải theo kết luận của Đoàn Thanh tra năm 2008 là 105.600 m3/tháng, tương đương 3.520 m3/ngày với nồng độ các chất ô nhiễm rất cao: pH = 4,9; Độ màu = 610.000 Pt-Co; BOD5 = 549.000 mg/l; COD = 705.000 mg/l; TSS = 156.700 mg/l; N-NH4+ = 11.800 mg/l; Tổng N = 22.100 mg/l; Tổng P = 705 mg/l.
Bên cạnh đó, Đoàn Thanh tra còn phát hiện một số nguồn thải khác không qua xử lý của Công ty Vedan, cụ thể như sau:
Lượng bùn thải từ Xưởng tinh bột là 24.000 m3/tháng (tương đương 800 m3/ngày) với nồng độ các chất ô nhiễm chính rất cao: TSS = 12.280 mg/l, BOD5 = 1.050 mg/l, COD = 12.280 mg/l, N-NH3 = 3,08 mg/l, Tổng N = 59,7 mg/l và Tổng P = 32 mg/l.
Tổng lượng nước thải từ Nhà máy bột ngọt và Lysine thải xuống mương thoát nước giải nhiệt là 46.800 m3/tháng (tương đương 1.560 m3/ngày) với nồng độ các chất ô nhiễm chính như sau: TSS = 423 mg/l, BOD5 = 2.700 mg/l, COD = 5.330 mg/l, N-NH3 = 163 mg/l, Tổng N = 385 mg/l, và Tổng P = 9,5 mg/l.
Qua những sai phạm có tính hệ thống của Công ty Vedan từ năm 1994 - 2008 và những dữ liệu thống kê xả thải ở trên, có thể khẳng định rằng, chất thải của Công ty Vedan (đặc biệt là dịch thải sau lên men) là nguồn gây ô nhiễm chính đối với sông Thị Vải.
Với các hành vi gây ô nhiễm của mình, Công ty Vedan đã bị xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 267.500.000 đồng, đồng thời truy thu khoản phí BVMT đối với nước thải công nghiệp trốn nộp là: 127.268.067.520 đồng (Công ty Vedan đã nộp đủ khoản truy thu này).
12 hành vi bị phạt tiền 267,5 triệu đồng của Vedan
Dưới những hành vi gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng của Vedan,Vedan đã phải chịu ít nhất 12 hình phạt hành chính,tổng số tiền là 216,5 triệu đồng
1- Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép ở Nhà máy sản xuất tinh bột: 33 triệu đồng
2- Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép ở Nhà máy sản xuất Bột ngọt và Lysine: 23 triệu đồng
3- Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép ở các nhà máy khác: 23 triệu đồng
4- Nộp không đầy đủ các số liệu điều tra, khảo sát, quan trắc...cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: 30 triệu đồng
5- Hành vi thải mùi hôi thối trực tiếp vào môi trường không qua thiết bị hạn chế ô nhiễm môi trường: 500 ngàn đồng
6- Quản lý chất thải nguy hại không đúng quy định: 10 triệu đồng
7- Xả nước thải vào nguồn nước không đúng vị trí quy định trong giấy phép: 6 triệu đồng
8- Xả nước thải (dịch thải lỏng sau lên men bột ngọt có các thông số ô nhiễm vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần: 33 triệu đồng
9- Xả nước thải (dịch thải lỏng sau lên men Lysin có các thông số ô nhiễm vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần: 33 triệu đồng
10- Xả nước thải bùn vượt tiêu chuẩn cho phép từ mười lần trở lên: 33 triệu đồng
11- Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ năm lần đến dưới mười lần ở trại chăn nuôi heo và: 20 triệu đồng
12- Không nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp: 50 triệu đồng
( Nguồn:
III. NGOẠI ỨNG TIÊU CỰC DO VE-DAN GÂY RA
Ngoại ứng tiêu cực mà công ty Vedan gây ra theo khía cạnh lý thuyết
Hình ảnh minh họa cho ngoại ứng tiêu cực thông qua ví dụ Vedan thải nước chưa qua xử lý vào sông Thị Vải gây thiệt hại lớn cho người
Trục hoành của đồ thi cho biết sản lượng mà nhà máy sản xuất, trục tung đo lường chi phí và lợi ích mà họa động này tạo ra, tính bằng tiền. Đường MB cho biết lơi ích biên mà Vedan thu được ứng với từng mức sản lượng. Đường MPC thể hiện chi phí tư nhân biên, tức là mọi khoản chi phí mà nhà máy thực phải chi ra để sản xuất thêm một đơn vị ản lượng, thí dụ như chi phí nhân công, nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị…..
Đứng trên quan điểm xã hội, đường chi phí biên đối với xã hội ( MSC) sẽ gồm cả hai bộ phận cấu thanh: thứ nhất là chi phí mua sắm đầu vào của nà máy mà giá trị của chúng được phản ánh trên đường MPC; thứ hai là chi phí thiêt hại mà HTX phải gánh chịu được thể hiện bằng đường MEC. Vì thế, MSC sẽ bằng MPC cộng với MEC.
Nếu Vedam là người tối đa hóa lợi nhuận thì họ sẽ sản xuất hiệu quả nhất tại điểm MB = MC. Nhưng vì MC mà nhà máy quan tâm là MPC nên họ sẽ sản xuất tại điểm B, tại đó MB = MPC. Điểm này con gọi là mức sản lượng tối ưu thị trường. Trái lại, cũng theo nguyên tắc biên về hiệu quả, nhưng vì quan tâm đến chi phí của cả xã hội nên mức sản lượng tối ưu theo quan điểm xã hội phải đặt tại A, khi MB = MSC. Như vậy, Vedan gây ngoại ứng tiêu cực đã sản xuất quá nhiều so với mức tối ưu xã hội.
Nếu chính phủ không có biện pháp buộc Vedan cắt giảm sản lượng thì thiệt hại gây ra cho xã hội sẽ là bao nhiêu? Có thể thấy ngay tổng tốn thất phúc lợi ròng của xã hôi là tam giác ABC. Điều này có thể được giải thích rằng:
Vì lơi ích ròng (hay lợi nhuận) mà Vedan thu được khi sản xuất thêm một đơn vị sản lượng là khoảng cách dọc giữa đường MB và MPC nên tổng lợi nhuận tăng thêm khi nhà áy duy trì mức sản lượng từ Qo đến Q1 là tam giác ABE. Trong khi đó, người dân khu vực sông Thị Vải sẽ bị thiệt hại do ô nhiễm nhà máy thải ra. Với mỗi đơn vị sản lượng do nhà máy sản xuất, người dân sẽ chịu thiệt môt khoản bằng MEC. Vì thế, khi sản lượng tăng từ Qo đến Q1 thì tổng thiệt hại gây ra cho người dân sẽ là hình thang abQ1Qo. Vì hình thang này có diện tích đúng bằng hình thang ACBE nên sau khi bù đắp phần lợi nhuận tăng thêm của nhà máy Vedan, xã hội vẫn bị thiệt tam giác ABC. Nếu xã hội có thể buộc nhà mãy cắt giảm sản lượng từ Q1 xuống Qo thì sẽ tiết kiệm được khoản tổn thất phúc lợi xã hội nói trên.
Như vậy, có thể thấy rằng, mức sản lượng hiệu quả xã hội không có nghĩa là một mưc sản lương không gây ô nhiễm bởi lẽ yêu cầu là phải tìm một mức ô nhiễm chấp nhận được, theo nghĩa lợi ích của sản xuất mang lại phải bù đắp những chi phí mà xã hội phải gánh chịu khi tiến hành sản xuất, trong đó tính cả chi phí ô nhiễm.
2. Thực trạng ngoại ứng tiêu cực mà công ty Vedan gây ra
Xét về mặt lý thuyết, tổn thất về phúc lợi xã hôi do những ngoại ứng mà công ty Vedan gây ra là vô cùng lớn. Theo kết quả quan trắc từ nhiều chương trình quan trắc khác nhau của Tổng cục Môi trường và của các địa phương giai đoạn 1999 - 2008 cho thấy: Toàn bộ chiều dài dòng chính sông Thị Vải khoảng 31,5 km đều bị ô nhiễm với các mức độ khác nhau, trong đó có khoảng 12 - 15 km đoạn ngang qua khu vực Công ty Vedan bị ô nhiễm đặc biệt nghiêm trọng; Phạm vi ảnh hưởng ô nhiễm còn lan rộng sang phía sông Gò Gia, sông Bà Giỏi và các chi lưu khác của sông Thị Vải. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là không chỉ gây ô nhiễm về nguồn nước mà ngoại ứng tiêu cực do công ty Vedan gây ra còn mang lại thiệt hại về kinh tế, y tế và môi trường.
Thiệt hại về môi trường
Đầu tiên, ngoại ứng tiêu cực đo công ty Vedan gây ra thể hiện rõ nhất ở khía cạnh môi trường. Để đánh giá mức độ ô nhiêm nguồn nước sông Thị Vải, các nhà khoa học đã sử dụng nhiều tiêu chuẩn, có thể kể tên như nồng độ DO, nhu cầu ôxy sinh hóa BOD, nhu cầu ôxy hóa học COD. Theo một số nguồn tài liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, DO là lượng oxy hoà tan trong nước cần thiết cho sự hô hấp của các sinh vật nước (cá, lưỡng tê, thuỷ sinh, côn trùng v.v...) thường được tạo ra do sự hoà tan từ khí quyển hoặc do quang hợp của tảo. Nồng độ oxy tự do trong nước nằm trong khoảng 8 - 10 ppm, và dao động mạnh phụ thuộc vào nhiệt độ, sự phân huỷ hoá chất, sự quang hợp của tảo và v.v... Khi nồng độ DO thấp, các loài sinh vật nước giảm hoạt động hoặc bị chết. Trong khi đó, BOD là lượng ôxy cần thiết để vi khuẩn sử dụng phân hủy chất hữu cơ dưới điều kiện hiếu khí. Chỉ tiêu này để đánh giá khả năng tự làm sạch của nguồn nước. BOD càng cao chứng tỏ mức độ ô nhiễm càng nặng. Và COD là lượng ôxy cần thiết để ôxy hóa hết các hợp chất hữu cơ có trong nước. Nước nhiễm bẩn sẽ có độ ôxy hóa cao phải tốn nhiều hóa chất cho công tác khử trùng. Bởi vậy, đây là các tiêu chuẩn để đánh giá về ô nhiễm nguồn nước. Điều này cũng giải thích rằng, ngoài các chương trình lấy mẫu và quan trắc điểm cố định trên lưu vực sông Thị Vải, còn có các đợt khảo sát đo nhanh liên tục diễn biến chất lượng nước dọc theo sông Thị Vải do Tổng cục Môi trường phối hợp với Viện Hóa học và Viện Môi trường và Tài nguyên thực hiện. Đến nay đã có 8 đợt đo nhanh vào các thời điểm: tháng 8/1996; 3/1997; 12/1997; 10/1998; 5/2006; 8/2008; 3/2009 và tháng 11/2009. Dưới đây là kết quả đo nhanh thông số DO dọc sông Thị Vải từ thượng nguồn ra đến hợp lưu sông Thị Vải - Gò Gia - Cái Mép từ năm 1996 đến nay.
Sơ đồ 1: Kết quả tính toán lan truyền ô nhiễm bằng mô hình MIKE 21
Sơ đồ 2: Sự biến thiên của DO theo quãng đường đo trên sông Thị Vải tương ứng với các lần đo tháng 8/1996, 3/1997, 10/1998, 5/2006, 8/2008, 3/2009 và 11/2009
Nguồn: Viện Môi trường và Tài nguyên – Đại học Quốc gia TP HCM
Tạp chí môi trường số 7 năm 2010
Từ kết quả đo nhanh như sơ đồ 2 cho thấy, ngay từ năm 1996 (sau 3 năm kể từ khi Công ty Vedan đi vào hoạt động), sông Thị Vải đã bị ô nhiễm đáng kể (Có khoảng 8km tuyến sông này có DO 4,5 mg/l).
Nguồn: Viện Môi trường và Tài nguyên – Đại học Quốc gia TP HCM
Tạp chí môi trường số 7 năm 2010
Sông Thị Vải còn bị ô nhiễm nghiêm trọng do chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, chất lơ lửng, mùi hôi, vi khuẩn và đáng lo hơn là các chất độc hại kim loại nặng.
Trước đây, yêu cầu phân tích mẫu nước theo dõi diễn biến "sức khỏe" của sông Thị Vải do tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thực hiện vào thời điểm năm 2005, trong tất cả sáu vị trí có lấy mẫu nước trên sông Thị Vải để phân tích đều phát hiện có sự hiện diện của chì, cadimi và đều vượt tiêu chuẩn cho phép.
Đến cuối năm 2006, cơ quan chuyên môn của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đưa ra kết luận rất đáng lo ngại trên sông Thị Vải "ô nhiễm chì nặng và rất nặng (tùy vào từng khúc sông)". Theo số liệu cập nhật gần đây nhất, tháng 5-2007, sự hiện diện của chì và cadimi vẫn ở mức báo động "ô nhiễm nặng", vượt tiêu chuẩn cho phép 4-5 lần. Chưa hết, cơ quan chức năng còn phát hiện có cơ sở sản xuất công nghiệp thải cả chất xyanua - một loại chất độc hại với môi trường và sức khỏe cộng đồng - vào sông Thị Vải với hàm lượng vượt chuẩn cho phép hàng chục lần.
Cửa nước xả công khai sau xử lý của nhà máy VEDAN, nhưng tại đây nhà máy đã bí mật lắp một hệ thống cống xả nước thải không qua xử lý nắm sau dưới lòng đất. Và tại đây chính là nơi gây ô nhiểm nặng cho dòng sông Thị Vải trong suốt 14 năm qua. Hiện cuộc sống bên miệng cống xả nước thải đã trở lại bình thường sau khi Cảnh sát môi trường phát hiện và bịt miệng cống ngầm.
Nguồn: Báo tuổi trẻ (
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn, là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm cho con người. Nhưng với hành vi xả nước thải ra sông Thị Vải đã làm cho môi trường đất bị ô nhiễm nặng nề, chất lượng đất ngày càng suy thoái. Thực tế đã chứng minh rằng, trong quá trình thẩm thấu vào đất, nguồn nước ô nhiễm của sông Thị Vải đã làm cho nguồn đất nơi đây bị ô nhiễm. Không chỉ vậy, với lượng khí thải do Vedan gây ra cũng đặt dấu hỏi cho sự ô nhiễm môi trường không khí? Tóm lại, chính những tác động ngoại ứng tiêu cực mà Vedan gây ra đã và đang đe dọa nghiêm trọng hệ sinh thái trên khu vực của dòng sông Thị Vải.
Cho đến nay, sau gần 1 năm bịt ống xả nước thải bí mật của VEDAN, nhiều khu đất ở xã Phước Thái (huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai) vẫn còn rỉ ra những chất độc ô nhiểm và không thể sản xuất được.
Hiện nay từ sông Thị Vải nhìn vào vẫn nhìn thấy nhà máy bột ngọt VEDAN hàng ngày thải khói đậm đặc lên bầu trời. Liệu có không việc ô nhiểm không khí ?
(Nguồn: tuổi trẻ online)
Thiệt hại về vấn đề sức khỏe con người
Hậu quả thứ hai do ngoại ứng tiêu cực của công ty Vedan gây ra đó chính là vấn đề về sức khỏe con người. Có lẽ bất cứ ai cũng phải kinh ngạc khi chính người của Vedan đã thừa nhận việc xả nước thải này ra sông Thị Vải đã diễn ra 14 năm nay. Cụ thể hơn, mỗi ngày hệ thống này bơm chất thải ra sông Thị Vải thấp khoảng hai giờ. Vậy trong nước thải đó có những chất độc hại gì? Theo các nhà khoa học thì với sản phẩm là bột ngọt, tinh bột, nước đường, xút (NaOH), axit (HCl), phân bón… thì chất thải độc hại nhất, đáng sợ nhất mà Vedan thải ra chính là CYANURE. Theo các nhà khoa học, Cyanure là một chất kịch độc, gây chết người với liều lượng. Chỉ cần ăn nhầm từ 3 đến 4 mg chất này thì một người khỏe mạnh có thể mất ý thức trong vòng 10 giây đến 1 phút. Sau khoảng 45 phút thì rơi vào trạng thái hôn mê và có thể tử vong sau khoảng 2 giờ nếu không có các biện pháp điều trị kịp thời. Theo phân loại trong hướng dẫn số 67/548/EEC của liên minh châu Âu thì nó là chất cực độc (T+). Giới hạn phơi nhiễm tối đa (PEL) của OSHA là 5 mg/m3. Còn theo quyết định số 3733/2002/QĐ-BYT ngày 10 tháng 10 năm 2002 của Bộ Y tế Việt Nam thì giới hạn này là 3 mg/m3 trong môi trường sản xuất. Tuy nhiên, năm 2006, đoàn kiểm tra của Bộ Tài nguyên - Môi trường từng kiểm tra đột xuất Vedan và có kết luận: Hàm lượng cyanure ở mức vượt tiêu chuẩn cho phép thấp nhất là bảy lần và cao nhất 34 lần, trong khi tiêu chuẩn VN giới hạn hàm lượng loại chất độc hại này có trong nước thải sau xử lý phải nhỏ hơn 0,1 mg/lít.. Chưa hết, tiếp tục kiểm tra nước thải sau xử lý của hệ thống hồ sinh học ở Công ty Vedan, đoàn kiểm tra phát hiện có mẫu nước thải mà hàm lượng chất cyanure trong đó vượt tiêu chuẩn VN đến 5.600 lần ( nguồn: báo tuổi trẻ online). Vậy với hàm lượng chất độc lớn như vậy, sức khỏe người dân vùng Đồng Nai đang đứng trước một nguy cơ đáng sợ.
Hậu quả do Công ty Vedan VN gây ô nhiễm môi trường đến nay vẫn chưa khắc phục được. Đôi cánh tay của cán bộ môi trường bị bám đầy "hóa chất" sau khi thò xuống sông Thị Vải, đoạn sau lưng nhà máy Vedan, để lấy mẫu nước.
Anh Quách Trung Quân (xã Thạnh An, huyện Cần Giờ, TPHCM) lội xuống ao vớt xác tôm, 5 phút sau hai bàn chân anh bị phồng dộp, 10 móng chân đen sạm, có mùi hôi. (Ảnh chụp tháng 3-2006). Ảnh: L.Cường
Thiệt hại về mặt kinh tế
Ngoài gây ra những thiệt hại về môi trường và sức khỏe con người, ngoại ứng tiêu cực do Vedan gây ra còn mang lại một thiệt hại vô cùng lớn về mặt kinh tế. Kết quả mô phỏng của Viện MT-TN xác định khu vực ô nhiễm khiến hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy sản bị ảnh hưởng nặng có diện tích gần 2.000ha thuộc địa bàn các xã Phước An, Long Thọ (huyện Nhơn Trạch), Long Phước, Phước Thái (huyện Long Thành) của tỉnh Đồng Nai cùng các xã Mỹ Xuân, Phước Hòa và thị trấn Phú Mỹ của huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Vùng ô nhiễm gây ảnh hưởng nhẹ đến nuôi trồng, đánh bắt thủy sản có diện tích gần 700ha thuộc các xã Phước An, Vĩnh Thanh (huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai), Phước Hòa (huyện Tân Thành, Bà Rịa - Vũng Tàu) và xã Thạnh An, huyện Cần Giờ, TP.HCM. Trong đó, theo ông Nguyễn Văn Phụng, Chủ tịch Hội Nông dân TP.HCM, qua kiểm tra đã xác định được 839 hộ với 2.123 ha diện tích nuôi trồng thủy hải sản ở xã Thạnh An (huyện Cần Giờ) bị ảnh hưởng. Tổng thiệt hại ước tính 107 tỉ đồng.
Gia đình ông Nguyễn Văn Thìn có 5.000m2 nuôi tôm đều bị mất trắng hoặc con tôm bị đỏ thân, đốm trắng trong thời gian dòng Thị Vải hứng chịu chất thải.
Các đầm cá cũng phải hứng chịu một thảm cảnh tương tự
Nguồn:
Ngoài những thiệt hại về diện tích nuôi hải sản, diện tích đất trồng lúa ở tỉnh Đồng Nai cũng phải gánh chịu một hậu quả tương tự. Hàng trăm ha lúa của tỉnh bị thối rễ, cây lúa không thể thu hoạch được. Một số khảo sát tại “vùng” ô nhiễm của Công ty Vedan, bà Nguyễn Thị Ba (58 tuổi) ngụ tại tổ 7, ấp 1, xã Phước Thái cho biết: Hơn 7.000m2 đất ruộng ở cách đồng Cây Gõ của gia đình bà vẫn chưa thể cải tạo để canh tác…Theo bà Ba, kể từ năm 2005, do ảnh hưởng bởi nguồn nước và không khí Vedan thải ra đất ruộng, hoa màu của gia đình bà có năng suất, chất lượng rất kém (lúa bị lép hạt, hoa kiểng, cây trái bị cháy xém)… Nhà bà có 7 người, thì 6 người phải bỏ nghề nông đi phụ việc ở TP.HCM hoặc làm công nhân khu công nghiệp. Thiệt hại do thất bát mùa màng, bỏ hoang đất và mất nghề nông… chưa tìm ra phép tính, nhưng hậu quả để lại rất nặng nề. Không chỉ vậy, nhiều sào ruộng ở cánh đồng Cây Gõ của nhiều hộ gia đình cũng không thể canh tác vì thiếu nước và ô nhiễm (Vedan chặn dòng thủy lợi vào cánh đồng Cây Gõ để lấy nước phục vụ sản xuất)… nhiều gia đình đã khó khăn, nay càng khó hơn.
Do ảnh hưởng bởi nguồn nước và không khí Vedan thải ra đất ruộng, hoa màu của các hộ gia đình có năng suất, chất lượng rất kém (lúa bị lép hạt, hoa kiểng, cây trái bị cháy xém, thối rễ…)
Một con mương cạnh hàng rào Nhà máy Vedan (huyện Long Thành, Đồng Nai) luôn ồ ạt tuôn nước ra cánh đồng và chảy ra sông Thị Vải.
Cánh đồng Cây Gõ giáp ranh với Công ty Vedan thành cánh đồng "chết" do bị ô nhiễm, lúa và hoa màu phát triển chậm, năng suất kém. Ảnh: Đoàn Quý
Nguồn:
Nói một cách khác, những thiệt hại mà Vedan gây ra cho những ngươi dân rất to lớn. Mặc dù Vedan đã cam kết bồi thường thiêt hại nhưng vấn đề giải quyết khắc phục hậu quả vẫn vô cùng khó khăn và tốn nhiều chi phí cũng như nỗ lực.
IV. NGUYÊN NHÂN VÀ CHIÊU THỨC HÀNH ĐỘNG
Nguyên nhân chủ quan
Trong nền kinh tế hiện nay, với sức ép kinh tế thiếu bền vững, nhu cầu phát triển kinh tế nóng, cực đoan, thấy lợi trước mắt và không hình dung được họa lâu dài. Có lẽ vì thế mà một số doanh nghiệp bất chấp thương hiệu sẵn sàng làm mọi việc miễn là có lợi nhuận. Vẫn biết đối với doanh nghiệp lợi nhuận là quan trọng nhất nhưng không thể chỉ vì lợi nhuận cá nhân mà làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hơn 10.000 hộ nông dân và làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Một khúc sông Thị Vải bị ô nhiễm nghiêm trọng
“Vedan” là một trong những doanh nghiệp điển hình cho những hành động vô nhân đạo trên. Chỉ vì trốn khoản phí môi trường 127 tỷ đồng (theo nguồn: mà công ty Vedan sẵn sàng đổ hàng trăm nghìn mét khối nước thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải làm ô nhiễm môi trường hết sức nghiêm trọng, ảnh hưởng đến cuộc sông của người nông dân. Chất thải của bột ngọt là một loại chất thải vô cùng độc hại mà ai cũng biết và khâu xử lý chất thải thì rất tốn kém. Vì siêu lợi nhuận mà công ty này đã thẳng tay gây nên "thảm họa" cho môi trường nước ta đây là điều không thể chấp nhận. Tác hại của hành vi này là vô cùng lớn, ngoài những tác hại hữu hình chúng ta có thể dễ dàng nhận ra như làm chết tôm cá, tan hoang cánh đồng lúa, ô nhiêm nguồn nước… Bên cạnh đó còn những tác hại vô hình mà nó để lại bệnh, ảnh hưởng của nó đến cuộc sống của thế hệ sau này.
Vụ viêc này khiến dư luận băn khoan: “tại sao sau 14 năm sai phạm của Vedan mới được phát hiện?”
Lý giải cho câu hỏi trên theo Đại ta Lương Minh Thảo, cục phó cảnh sát môi trường đã mô tả hệ thống xử lý nước thải của công ty Vedan như “trận đồ bát quái”.
Hệ thống xử lý chất thải, ống xả của Vedan rất tinh vi, phức tạp, việc xả trộm tiến hành vào ban đêm. Trong khi đó, các đoàn kiểm tra môi trường theo nguyên tắc phải báo với công ty trước một tuần nên họ có thời gian chuẩn bị phương án đối phó. Các điều tra viên của chúng tôi cũng phải mất hàng thàng trời mật phục mới hình dung quá trình vận hành của hệ thống này.
Những thủ đoạn mà công ty Vedan áp dụng để thực hiện hành vi của mình
Vedan ngay từ đầu đã chủ động xây dựng hệ thống xả trộm chất thải lỏng. Hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn được xây dựng song song với hệ thống này nhưng chủ yếu hoạt động cầm chừng để ngụy trang và đối phó với đoàn kiểm tra. Hệ thống ống dẫn được bố trí chằng chịt, nhìn vào như một "trận đồ bát quái".
Hệ thống bơm cao áp đẩy chất thải qua các đường ống chạy vòng tròn, chỗ nổi chỗ chìm. Chất thải được xả ra vào ban đêm, thường 8 -12h tối, qua các cống ngầm sâu 7-8 m dưới lòng sông. Thậm chí, họ còn dùng một chiếc tàu cũ, neo ở cầu cảng để ngụy trang cho miệng cống xả nước thải đang sủi bạt.
Hệ thống ống xả thải được chôn sâu dưới lòng đất
Hệ thống đổ nước thải ra sông Thị Vải được vận hành thế nào ?
Bài viết do Đại tá Lương Minh Thảo đăng trên trang:
- Có 8 người của Vedan được phân công vận hành nhưng bằng biện pháp nghiệp vụ chúng tôi biết chỉ có 2 người Đài Loan là Lâm Mậu Phủ và Vương Kim Điền nắm rõ việc vận hành của hệ thống xử lý cũng như xả trộm. Nhiều đoàn kiểm tra vào chỉ tiếp xúc với những công nhân người Việt không hiểu rõ hệ thống, nên không phát hiện được gì.
Tại cơ quan điều tra, Phủ thừa nhận vận hành việc xả trộm nước thải của Vedan. Tóm lại, Vedan đã tính toán rất kỹ từ khâu thiết kế đến việc sử dụng, điều hành hệ thống xả trộm nước thải để trốn chi phí môi trường. Hiện chúng tôi chưa xác định được số tiền mà Vedan lợi hưởng
Ông Lâm Mạo Phủ, một trong hai người Đài Loan hiểu rõ toàn bộ vận hành của hệ thống xả trộm nước thải. Ảnh: Cục CSMT
Nguyên nhân khách quan:
2. Nguyên nhân khách quan:
a. Do cơ quan chức năng
-Dung túng và thiếu trách nhiệm
Trả lời câu hỏi về trách nhiệm của các cơ quan chức năng từ địa phương đến Cục Bảo vệ môi trường và Bộ TN-MT khi để sai phạm của Vedan kéo dài hơn 10 năm (giấy phép xả thải trên 5.000m3/ngày đêm do bộ cấp), Thứ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng, ở thời điểm cấp phép, các thủ tục thẩm duyệt đã được thực hiện đúng.
Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ TN-MT) Lê Bắc Huỳnh giải thích thêm, việc Vedan sai phạm là “do họ tự vượt quá điều kiện cấp phép, tương tự như xin xây nhà 2 tầng nhưng lại làm đến 5 tầng”. Để doanh nghiệp không sai phạm thì phải giám sát, kiểm tra thường xuyên, sát sao.
Tuy nhiên, lãnh đạo Bộ TN-MT cũng thừa nhận năng lực kiểm tra, giám sát môi trường của VN hiện còn rất yếu do thiếu nhân lực, công nghệ, thiết bị và kinh nghiệm… nên doanh nghiệp đã dễ dàng “qua mặt”. Cũng phải thừa nhận một thực tế là việc đấu tranh bảo vệ môi trường có thể gây khó khăn cho công tác thu hút đầu tư nên nhiều khi không được chính quyền địa phương ủng hộ, phối hợp đúng mức.
“Thậm chí, có địa phương còn yêu cầu giảm bớt các chỉ tiêu môi trường để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Đó là đi ngược với chủ trương chung và sai lầm nghiêm trọng. Chúng ta sẽ phải trả giá đắt khi môi trường bị phá huỷ và thiệt hại về kinh tế để phục hồi môi trường là vô cùng lớn”, Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên kết luận.
-Do nóng lòng mở của phát triển đất nước: Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên đã nói:
“Những năm 93, 94, khi đất nước đang đứng trước yêu cầu phát triển, chúng ta gần như trải thảm đỏ mời các nhà đầu tư nước ngoài vào mà chưa chú ý nhiều tới yếu tố môi trường. Nhưng tới nay khó có thể vì phát triển bằng mọi giá mà quên đi những thảm hoạ về môi trường. Với hiện trạng đang xảy ra hiện nay, thế giới họ đang mang chiếc áo bẩn nhất của họ tới giặt ở Việt Nam".
b) Về phía người dân: Người dân Việt Nam có thói quen sống cam chịu, không muôn dính lít đến kiện cáo. Hơn thế nữa người dân cũng không am tường về luật pháp về bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, dù biết Ve-dan vi phạm nhưng không dám đứng lên khởi tố.
c) Do hệ thống pháp luật nước ta quá nhân đạo
Có nhiều người cho rằng: Luật môi trường nước ta còn quá nhân đạo. Cụ thể trong vụ Ve-dan, rất nhiều ý kiến cho rằng việc Ve-dan chỉ phải chịu khoản phí bảo vệ môi trường là 127 tỷ đồng là quá nhẹ. Trong khi hậu quả do Ve-dan gây ra cho môi trường là vô cùng to lớn vầ trong thời gian rất dài: hơn 10 năm. Vậy số tiền 127 tỷ đồng này có đủ sức răn đe đến các doanh nghiệp?
V. GIẢI PHÁP
Giải pháp đối với riêng công ty Ve-dan
Việc công ty Ve-dan gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là sông Thị Vải (Đồng Nai) là không thể chối cãi. Cả Ve-dan cũng đã thừa nhận hành vi trái pháp luật của mình. Nhưng bây giờ việc cấp bách của chúng ta là làm sao khắc phục hậu quả ô nhiễm môi trường, cứu lại “dòng sông chết”
Từ chính phủ:
Các biện pháp tình thế:
a.1) Buộc công ty Ve-dan phải bồi thường thiệt hại.
Đây là biện pháp đầu tiên mà chính phủ làm khi phát hiện ra công ty Ve-dan xả thải trái phép ra sông Thị Vải.
Tuy ban đầu công ty Ve-dan không chấp nhận mức đền bù do người dân đưa ra. Nhưng cuối cùng cũng phải chấp nhận mức đến bù 100%.
Theo báo cáo của Bộ TNMT, tính đến hết ngày 31.12.2009, Cty Vedan mới nộp tiền phạt vi phạm hành chính 267.500.000đ; nộp 127.268.067.520đ phí bảo vệ môi trường truy thu theo Quyết định số 131/QĐ-XPHC, ngày 6.10.2008 của Chánh Thanh tra Bộ TNMT về xử phạt vi phạm hành chính.
Đồng thời Ve-dan cũng đã chịu bồi thường thiệt hại cho các tỉnh chịu hậu quả ô nhiễm môi trường: Đây là con số do Viện Môi trường Tài nguyên thuộc đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đưa ra Theo đó, Công ty Vedan sẽ bồi thường cho nông dân TP. Hồ Chí Minh hơn 45,7 tỷ đồng và nông dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là hơn 53,6 tỷ đồng. Khoản đền bù sẽ chuyển tiền làm 2 lần: Lần thứ nhất 50% trong vòng 7 ngày khi có văn bản chấp thuận của UBND 3 địa phương; Lần thứ 2 là quý 1/2011.
(Số liệu từ nguồn: )
a.2) Buộc Ve-dan xây dựng hệ thống xử lý nước thải đúng quy định:
Sau khi chính phủ kiểm tra phát hiện vi phạm của công ty Ve-dan, bộ tài nguyên Môi trường đã ra quyết định buộc Ve-dan phải cải tạo hệ thống xử lý nước thải.
Thực hiện việc đó, Ve-dan đã tháo bỏ toàn bộ các tuyến ống ngầm dài trên 2.200m, 4 máy bơm và 3 họng xả chất thải ngầm cắm sâu 10m xuống sông Thị Vải; dừng việc thải nước thải vào hệ thống 21 hồ sinh học và bơm nước thải từ 21 hồ này vào hệ thống xử lý, đảm bảo chất lượng nước tại các hồ đã được làm sạch; lắp đặt công tơ điện riêng biệt và đồng hồ đo lưu lượng của hệ thống xuất khẩu CMS ra tàu thủy; lập nhật ký vận hành của các hệ thống xử lý nước thải.
Cty Vedan VN cũng đã hoàn thành việc cải tạo, nâng cấp 3 hệ thống xử lý nước thải hiện hữu (4.000m3/ngày); xây dựng mới 2 hệ thống xử lý nước thải sản xuất (5.000m3/ngày) và 1 hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt (300m3/ngày), với tổng công suất thiết kế hiện nay là 9.300m3/ngày; lắp đặt 3 hệ thống quan trắc tự động, đảm bảo nước thải sau xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN). Xây dựng và lắp đặt mới 4 dây chuyền sản xuất phân bón (nâng tổng số lên 8 dây chuyền), 1 máy cô đặc dịch thải sau lên men TVR (nâng tổng số lên 2 máy) và các tồn tại về môi trường khác theo đúng cam kết.
(Số liệu được cung cấp bởi: )
Các biện pháp lâu dài:
a.3) Đánh thuế công ty Ve-dan:
Việc công ty Ve-dan xả thải ra gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã gây ra nhiều ngoại ứng tiêu cực. Do đó nhà nước cần phải đánh thuế Ve-dan, buộc công ty này phải giảm sản lượng về mức sản lượng tối ưu mà xã hội mong muốn. Một khi Ve-dan giảm sản lượng thì đồng nghĩa với việc lượng xả thải của công ty này sẽ giảm đi.
Tuy nhiên việc Ve-dan có khai báo đúng sản lượng hay không thì không ai có thể dám chắc được. Do đó việc đánh thuế vào sản lượng của công ty Ve-dan nhằm buộc công ty này giảm sản lượng cũng chỉ là một cách mà thôi. Thêm vào đó việc xác định mức thuế cũng rất khó khăn.
a.4)Trợ cấp cho Ve-dan
Trên cơ sở lý thuyết, chính phủ còn có thêm một cách nữa là trợ cấp cho Ve-dan. Khi trợ cấp, Ve-dan sẽ tự nguyện giảm sản lượng theo yêu cầu của chính phủ mà không ảnh hưởng đến doanh thu của công ty. Từ đó giảm thải ra môi trường. Tuy nhiên đây chỉ là lý thuyết. Nếu Ve-dan tìm được cách khai báo giả sản lượng thì biện pháp này lại không hiệu quả. Hơn nữa, hành vi gây ô nhiễm môi trường của Ve-dan là quá rõ ràng, nhà nước trợ cấp cho Ve-dan khác gì: “mỡ treo miệng mèo”? Mặt khác, Ngân sách nhà nước eo hẹp, việc trợ cấp cho các doanh nghiệp trong nước đã khó nay lại trợ cấp cho một công ty nước ngoài như Ve-dan xem ra không hợp lý.
Dù sao đây cũng là một biện pháp mang tính lý thuyết. Để thực hiện tốt chính sách này cần có một hệ thống cơ quan chức năng giám sát chặt chẽ hoạt động của Ve-dan.
Các biện pháp từ phía Ve-dan
Ngay từ chưa bị phát giác, Ve-dan đã bồi thường thiệt hại cho nhân dân dưới hình thức trợ cấp phát triển kinh tế. Năm 1993 Ve-dan đi vào hoạt động đã xả thải ra môi trường, gây chết thuỷ sản của bà con. Vì thế phía Ve-dan đã bồi thường cho các hộ dân 4,7 tỷ đồng vào hai năm 1995-1996, với danh nghĩa hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp. Ngoài ra những năm sau đó, Ve-dan cũng có nhiều chương trình hỗ trợ các hộ nghèo, gia đình chính sách, hỗ trợ khuyến nông, khuyến học, phát triển cơ sở hạ tâng nông thôn vào những năm từ 2000 đến 2005. (nguồn www.tin247.com )
Khi bị phát giác hành vi xả thải trái phép của mình, Ve-dan đã thực hiện đền bù đúng như quy định, đồng thời xây dựng hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn.
Tuy nhiên hậu quả ô nhiễm vẫn còn ở đó, Ve-dan phải cùng người dân vào cuộc cải tạo lại môi trường. Đồng thời tiếp tục hỗ trợ dài hạn người dân, tạo công ăn việc làm và thu mua nguyên liệu đúng như hợp đồng đã kí kết với người dân.
Đây là mục tiêu mới của công ty Ve-dan, bài viết được đăng trên trang chủ của Ve-dan, :“Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là hai yếu tố không thể tách rời nhau đối với quá trình phát triển của một nền kinh tế - xã hội tiên tiến hiện đại, vì vậy, trong quá trình kinh doanh lâu dài, đòi hỏi doanh nghiệp phải có những cam kết và nỗ lực duy trì thực hiện liên tục. Sự phấn đấu xây dựng thành một doanh nghiệp phát triển bền vững gắn liền với bảo vệ môi trường trong thời gian tới là mục tiêu nỗ lực và lâu dài của Công ty cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam. Để đạt được mục tiêu đó, công ty chúng tôi đã thiết lập chính sách môi trường nhằm định hướng cho mọi nhân viên trong công ty phải luôn đề cao quan niệm về yêu quý môi trường, tuân thủ các quy định của pháp luật, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, yêu quý tài nguyên thiên nhiên, đồng thời duy trì các hoạt động cải thiện và bảo vệ môi trường.”
Ngoài ra Ve-dan đã tổ chức nhiều hoạt động cho các cán bộ công nhân viên trong công ty tìm hiểu, tham gia các hoạt động vì môi trường để tăng hiểu biết:
Hội đồng an toàn sức khỏe môi trường - Công ty Vedan Việt Nam đang đánh giá chấm điểm báo tường của các đơn vị để chọn ra 05 đơn vị xuất sắc nhất.
b.Về phía người dân:
Giải pháp tình thế của người dân:
+Nhân dân vùng ô nhiễm: Tìm chứng cứ cụ thể để kiện Ve-dan.
+Nhân dân cả nước:Tẩy chay hàng hóa của Ve-dan cho đến khi nào công ty này hoàn thành việc cải tạo môi trường và có hệ thống xử lý nước xả thải đạt tiêu chuẩn.
Ngay sau khi có công bố của báo chí về vụ việc vi phạm của công ty Ve-dan, hàng loạt các siêu thị lớn đã tuyên bố ngừng nhập và bán sản phẩm của Ve-dan: siêu thị Co.op Mart, Big C, Citimart…
Về lâu dài
+Tích cực tham gia cải tạo môi trường, tái sản xuất: Sau khi nhận được đền bù của công ty Ve-dan, người dân nên trích một phần để cải tạo lại môi trường sống.
+tăng cường hơn nữa vai trò giám sát của người dân đối với công ty Ve-dan trong việc khắc phục hậu quả môi trường.
+Tuy nhiên, nếu công ty này đã đảm bảo các quy định về môi trường thì mọi người cũng nên ủng hộ sản phẩm của Ve-dan như trước kia. Tục ngữ nước ta có câu: “đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại”…
Về phía các cơ quan ngôn luận:
Không chỉ phản ánh lại, các cơ quan ngôn luận đã giúp các cơ quan chức năng rất nhiều trong việc điều tra làm rõ hành vi vi phạm của công ty Ve-dan, từ đó làm cho vụ việc sớm được đưa ra ánh sáng. Nhà báo Ngô Sơn, phóng viên báo Lao Động tâm sự:
“Nhiều năm đi công tác ở miền Đông Nam Bộ, chỉ cần đến gần bờ sông Thị Vải, nghe mùi hôi thối bốc lên ngột ngạt, thấy tình cảnh dân, với những vuông tôm trơ trụi hoang tàn vì ô nhiễm, cũng ấm ức nhưng tìm chứng cứ quả khó khăn.
Đoàn phóng viên báo Lao Động thị sát sông Thị Vải
Đêm đó tôi thức đến 2h sáng để lật giở lại tất cả các hồ sơ tài liệu về Vedan từ trước đến nay. Mặt khác tôi cũng trăn trở, liều sẽ "làm rõ" đến đâu, khi từ nhiều năm trước, qua nhiều báo, thậm chí cả báo địa phương (báo Đồng Nai) cũng phản ánh việc Vedan gây ô nhiễm. Vậy mà 14 năm trời đã xử lý được đến đâu?
[…]
Các phóng viên lăn xả nhiều chỗ, thậm chí thuê cả ghe thuyền giá có lúc cả 400.000 đồng để chở đi chụp các cống xả thải của Vedan, hỏi han tìm hiểu nhân dân, nhưng quá nhiều câu hỏi dân không thể trả lời được: Cơ quan chức năng còn phát hiện những gì? Vì sao Vedan bây giờ mới lộ diện? Trách nhiệm chính quyền địa phương đến đâu? Vedan nói gì?... Trách nhiệm thông tin đến công luận lúc đó thực sự đè nặng lên vai các nhà báo”
Bài tâm sự được đăng trên báo Lao Động, đã cho thấy được sự vất vả của các nhà báo khi bám sát tính hình của Ve-dan. Từ đó chúng ta không thể phủ nhận được vai trò của các nhà báo trong việc điều tra làm rõ tình hình của Ve-dan.
Cạnh đó, thái độ của truyền thông với vụ Vedan cũng cực kỳ quan trọng, tất cả đều bày tỏ phản ứng trước hành vi sai trái và thái độ cù cưa của Vedan. Không những thế giới truyền thông còn giúp cho người tiêu dùng có một góc nhìn đúng đắn đối với những gì mà Ve-dan đã gây ra. Đó cũng là sức mạnh khiến Vedan phải suy nghĩ lại về hành vi mà mình đã làm.
Ngoài ra các cơ quan ngôn luận sẽ tham gia cùng với người dân để giám sát hoạt động của công ty Ve-dan. Nhanh chóng phát hiện sai phạm để kịp thời xử lý.
2. Giải pháp để tránh các trường hợp tương tự như Ve-dan
a) Về phía cơ quan chức năng.
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng các cơ quan chức năng có vai trò vô cùng to lớn trong việc điều tra, phát hiện cũng như xử lý các vi phạm của các doanh nghiệp. Vì thế giải pháp từ các cơ quan chức năng là rất quan trọng. Sau đây chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp về phía các cơ quan chức năng nhằm tránh việc lặp lại sai lầm như vụ công ty Ve-dan:
Chúng ta đã đề ra được một số giải pháp dựa trên lý thuyết đã học để bù lại phần mất không xã hội do ngoại ứng gây ra:
a.1) đánh thuế:
Biểu đồ: Đánh thuế đối với ngoại ứng tiêu cực
Lập luận trên cơ sở lý thuyết thì: Khi chịu thuế này đường MPC của nhà máy sẽ dịch chuyển song song lên thành MPC + t. Để tối đa hóa lợi nhuận nhà máy sẽ đặt MB = MPC + t, tức là giảm sản lượng sản xuất. MEC tại mức sản lượng tối ưu xã hội chính là đoạn aQ0, hay cũng là đoạn AE. Để không có tổn thất xã hội thì thuế đánh tối đa là t = MEC. Khi đó chính phủ sẽ thu thêm được một khoản thuế là t.Q0, khoản thuế này sẽ được chính phủ sử dụng để đền bù cho người nông dân.
Ưu điểm của biện pháp này là:
+Doanh nghiệp khi chịu thuế này sẽ buộc phải giảm sản lượng xuống Q0. Điều này sẽ triệt tiêu được mất không xã hội hội do ngoại ứng gây ra. Đồng thời khi doanh nghiệp cắt giảm sản lượng thì khối lượng xả thải các chất gây ô nhiễm cho môi trường sẽ giảm xuống.
+Số tiền đền bù được chuyển đến tay người dân, có nghĩa được chuyển đến đối tượng chịu hậu quả sẽ giúp cho họ sớm có thể ổn định cuộc sống.
Tuy nhiên biện pháp này có nhược điểm rất lớn đó là:
+Các yếu tố để xác định mức thuế sao cho phù hợp rất khó. Bởi vì việc xác định MB, MEC, MPC, MSC rất khó khăn. Từ đó việc xác định Q0 và Q* là vô cùng khó khăn. Mặt khác chúng ta không có đủ điều kiện, nhân lực, vật lực để xác định chính xác được. Vì lẽ đó thuế t nhà nước đánh vào doanh nghiệp khó có thể làm hài lòng cả hai phía: doanh nghiệp và nhà nước.
a.2)trợ cấp:
Trợ cấp cho doanh nghiệp là biện pháp thứ hai mà nhà nước hướng tới:
Giả sử với mỗi đơn vị sản lượng nhà máy ngừng sản xuất chính phủ sẽ trợ cấp cho họ một khoản bằng AE. Khi đó nhà nước sẽ cân nhắc xem mức trợ cấp với lợi ích biên ròng khi sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Trên lý thuyết thì nhà nước sẽ trợ cấp cho doanh nghiệp trên từng đơn vị sản phẩm. Vậy phần trợ cấp của nhà nước sẽ là diện tích hình ABE.
Ưu điểm của biện pháp này là các doanh nghiệp được nhà nước trợ cấp sẽ tự nguyện giảm sản lượng về mức Q0.
Tuy nhiên một số khó khăn nảy sinh trong quá trình trợ cấp như sau:
+Cũng giống như biện pháp trước thì các yếu tố như MB, MEC, MSC… đều không thể tính chính xác hoàn toàn được, do đó khoản trợ cấp là bao nhiêu là rất khó. Để giải quyết điều này nhà nước ta đã rất hào phóng là trợ cấp bằng đoạn AE trên 1 đơn vị sản phẩm. Như vậy phần doanh nghiệp được trợ cấp sẽ thực tế lại là diện tích hình tô màu đen trên hình phía dưới.
Theo hình vẽ, với tất cả các đơn vị sản phẩm từ Q1 đến Q0, ta có thể thấy mức lợi ích biên ròng của nhà máy luôn thấp hơn mức trợ cấp nên nhà máy sẽ không sản xuất những đơn vị sản phẩm này nữa.
+Tuy nhiên ta đặt ra vấn đề là các doanh nghiệp đã được lợi như vậy nhưng họ có giảm mức sản lượng xuống Qo hay họ vẫn sản xuất ở Q1. Vậy ai sẽ quản lý sản lượng các doanh nghiệp sản xuất? Các bạn đừng nghĩ những báo cáo của các doanh nghiệp về sản lượng của họ là đúng 100%.
Biểu đồ: Trợ cấp đối với
ngoại ứng tiêu cực
*Nhận xét chung về hai biện pháp đánh thuế và trợ cấp: Hai biện pháp này đếu dựa trên cơ sở lý thuyết để nhằm buộc doanh nghiệp phải cắt giảm sản lượng sao cho về đúng mức xã hôi mong muốn, điều này sẽ tránh được mất không xã hội do ngoại ứng gây ra tuy nhiên nó lại không giải quyết được vấn đề cốt lõi đó là kể cả các doanh nghiệp cắt giảm sản lượng nhưng họ vẫn xả thải bừa bãi, vẫn cứ gây ô nhiễm môi trường thì các biện pháp này lại chưa giải quyết được.
Vì vậy chúng ta xem xét đến một giải pháp đánh chính vào việc xả thải của các doanh nghiệp:
a.3) Kiểm soát trực tiếp bằng mức chuẩn thải:
Theo cách này, mỗi hãng sản xuất sẽ bị yêu cầu chỉ được gây ô nhiễm ở một mức nhất định, gọi là mức chuẩn thải, nếu không sẽ bị đóng cửa.
Biểu đồ: Kiểm soát ngoại ứng tiêu cực bằng quy định chuẩn thải
Trục hoành thể hiện mức khỉ thải mà các nhà máy thải ra môi trường. Đường MB là lợi ích biên của mỗi hãng khi gây ô nhiễm.
Nếu chính phủ áp đặt một mức chuẩn thải, chỉ cho phép các hãng được xả thải đến mức Z*, hãng X phải giảm mức xả thải từ Qx xuống Z*, còn hãng Y lại được tăng mức thải từ Qy* lên đến Z*.
Khi này đối với hãng X chúng ta đã kiểm soát được mức xả thải của hãng này. Còn đối với hãng Y, điểm sản xuất tối ưu của hãng này là QY* vì đó là giao điểm của MC với MSB. Tuy nhiên sẽ có tổn thất phúc lợi xã hội đó là diện tích tam giác ABC (với trường hợp hãng X) hoặc tam giác FGH (đối với trường hợp hãng Y)
Đây có thể được coi là một giải pháp khá toàn vẹn nhưng nếu không có một hệ thống cơ quan chức năng cũng như một bộ luật thật nghiêm thì chúng ta cũng không thể quản lý được. Chính bởi vậy sau đây chúng ta sẽ nghiên tiếp các biện pháp nhằm tăng cường lực lượng quản lý môi trường và xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
a.4)Xây dựng lực lượng thanh tra quản lý môi trường:
Có nhiều người thắc mắc sau vụ của công ty Ve-dan: thanh tra môi trường ở đâu khi Ve-dan xả thải hơn 10 năm mà không bị phát hiện. Đây là nỗi bức xúc rất lớn của nhân dân mà trách nhiệm có phải do các cơ quan quản lý môi trường yếu kém.
Bởi vậy một giải pháp vô cùng cần thiết là phải xây dựng được một lực lượng thanh tra môi trường liêm chính, có trách nhiệm cao trong công việc. Như chủ tích Hồ Chí Minh đã nói: “Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức thì vô dụng”. Chính những con người có đủ tài và đức mới có thể hết lòng vì dân, hoàn thành tốt trách nhiệm.
Hơn nữa chúng ta thấy rằng trên địa bàn cả nước có vô số các công ty xí nghiệp mọc lên như nấm. Vậy lực lượng thanh tra môi trường liệu có quá ít? Điều đó đã quá rõ ràng. Số thanh tra môi trường của chúng ta chỉ là một con số quá nhỏ nhoi, như thế thì làm sao có thể giám sát được các doanh nghiệp. Điều cấp bách hiện nay đó là phải tăng cường hơn nữa lực lượng này để có thể quản lý chặt chẽ hơn các xí nghiệp.
Cuối cùng chúng ta phải nhấn mạnh đến việc phối hợp đồng bộ của các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Thứ trưởng Bộ Tài nguyên, Môi trường, kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tài nguyên môi trường Bùi Cách Tuyến đã nhấn mạnh như sau: “phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với thái độ nhất quán, cương quyết của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương về vấn đề quản lý môi trường”
Hoạt động BVMT ngày càng được xã hội hóa, nhưng một tồn tại đang đặt ra là nguồn nhân lực, nhất là nhân lực có trình độ và kiến thức về BVMT luôn thiếu và yếu đã cản trở hiệu quả hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng. Bên cạnh đó là kinh phí dành cho công tác BVMT chưa tưng xứng với vai trò của ngành trong phát triển kinh tế xã hội. Trong khi, ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, đầu tư cho môi trường trung bình năm chiếm 1% GDP hay ở một số nước phát triển từ khoảng 3 - 4% GDP, thì nguồn tài chính cho sự nghiệp môi trường ở Việt Nam chỉ chiếm 1% tổng chi ngân sách Nhà nước. “ở Trung ương, việc sử dụng kinh phí của một số bộ, ngành còn dàn trải, chưa tập trung vào những vấn đề bức xúc về môi trường. Không ít địa phương còn chưa bố trí đủ 1% chi ngân sách hay nội dung chi không đúng theo hướng dẫn khiến công tác BVMT gặp nhiều khó khăn và trì trệ” - ông Lê Kế Sơn, Phó tổng cục trưởng, Tổng cục Môi trường cho biết.
(Số liêu trên được lấy từ nguồn: )
Tóm lại các cơ quan chức năng đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc quản lý môi trường. Vì vậy việc tăng cường cả về chất lượng và số lượng cũng như cách thức phối hợp là nhiệm vụ hàng đầu trong thời kì đổi mới đất nước hiện nay.
a.5) xây dựng bộ luật môi trường hoàn chỉnh.
Qua bài học của công ty Ve-dan đã cho chúng ta thấy rằng nước ta đã chưa có những bộ luật đầy đủ về bảo vệ và xử lý các hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường.
-Mở rộng hình thức khởi kiện tập thể
Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về chủ thể được khởi kiện vì lợi ích công nhưng lại không hề đề cập đến những trường hợp cụ thể như vụ Vedan. Cạnh đó, các quy phạm pháp luật về quyền khởi kiện do thiệt hại bởi ô nhiễm môi trường, vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm… cũng rất sơ sài. Trong khi các vụ việc có tính chất tương đồng nhau, thiệt hại do cùng một chủ thể gây ra hoàn toàn có thể gộp lại để xem xét nhằm giảm bớt gánh nặng cho hệ thống tòa, giảm bớt tốn kém cho các bên tham gia tố tụng.
Trong thời gian tới, các dạng tranh chấp kiểu này sẽ không còn là chuyện cá biệt. Để giải quyết triệt để, các nhà làm luật cần phải có sự sửa đổi, bổ sung luật. Đó là mở rộng quy định thêm hình thức khởi kiện tập thể trong một số trường hợp đặc biệt như kiểu Vedan. Chỉ có như vậy thì quyền lợi người dân mới được đảm bảo, đúng như mục tiêu và bản chất của một hệ thống luật nói chung mà chúng ta đang hướng tới.
+Bổ xung luật xử lý vi phạm môi trường của các công ty nước ngoài:
Đã có nhiều ý kiên tranh luận giữa các cơ quan chức năng rằng luật Việt Nam có thể xử lý được Ve-dan – một công ty nước ngoài hay phải nhờ đến luật pháp quốc tế. Không chỉ người dân mà các cơ quan chức năng cũng lúng túng không biết phải xử lý như thế nào. Trọng tài kinh tế đã được nhắc đến như một giải pháp cuối cùng nếu xảy ra việc kiện Ve-dan. Một khi trọng tài kinh tế thế giới vào cuộc thì sẽ gây bất lợi rất lớn cho người dân nước ta vì kinh phí kiện tụng rất lớn, đồng thời cách thức tố tụng rất phức tạp. Điều đó lại càng cho thấy những bất cập trong luật pháp nước ta.
Vậy đây chính là một bài học rất lơn cho chúng ta phải xây dựng được một bộ luận chi tiết, cụ thể để linh họa giải quyết các tình huống cụ thể.
b)Về phía các công ty
Để giải quyết tận gốc vấn đề môi trường thì vấn đề tinh thần trách nhiệm cũng như đạo đức kinh doanh là yếu tố quyết định. Nếu tất cả các doanh nghiệp cùng đồng lòng góp sức chung tay bảo vệ môi trường thì sẽ chẳng bao giờ có một Ve-dan như ngày hôm nay.
Tôi thiết nghĩ chúng ta cần thiết phải mở ra các buổi tọa đàm, hội thảo bàn về môi trường . Trong những buổi hội đàm đó sẽ có đại diện của các công ty cũng như các cơ quan bảo vệ môi trường, cùng nhau nói về những tác hại do việc ô nhiễm môi trường gây nên. Tư đó hình thành ý thức tự giác bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp.
Hội thảo 100 giải thưởng Thương hiệu Xanh đã được trao với 3 mức là “Thương hiệu xanh bền vững”,Thương hiệu Xanh phát triển” và “Thương hiệu Xanh thân thiện”, Nguồn:
Đồng thời các doanh nghiệp cũng nên thành lập tổ chức các công ty có ”sản phẩm vì môi trường”. Dưới sự công nhận của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp này sẽ được công nhận sản phẩm vì môi trường. Khi đó người dân sẽ ủng hộ nhiệt tình các sản phẩm của các công ty này. Doanh thu của các công ty sẽ tăng lên mà đi kèm với môi trường được bảo vệ.
c) Về phía xã hội
+Với những người dân:
Nhân dân là một lực lượng rất dông đảo, đồng thời một khi xảy ra ô nhiễm môi trường sống cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của họ. Vì vậy những người dân sống cạnh các công ty, doanh nghiệp sẽ đóng vai trò là người giám sát hoạt động của doanh nghiệp, có những phản hồi nhanh nhạy về tình hình xả thải ra môi trường của các công ty đến các cơ quan chức năng. Qua đó hỗ trợ rất lớn các cơ quan chức năng giám sát cũng như thu thập tài liệu nếu xảy ra vi phạm.
Tuy nhiên người dân nước ta thường sống cam chịu. Chỉ đến khi bức quá họ mới lên tiếng. Điều này một phần do cách sống từ xưa nay của người dân Việt Nam là nhẫn nhịn, ôn hòa, không muốn dính dáng đến kiện cáo. Vậy đối với người dân, đặc biệt là những người sống gần các xí nghiệp cần phải mạnh mẽ, đứng lên tố cáo nếu phát hiện những sai phạm.
Mặt khác, việc giúp người dân nắm được luật bảo vệ môi trường cũng rất cần thiết. Một khi nhà nhà hiểu luật, người người hiểu luật thì họ sẽ không ngần ngại mà đứng ra kiện các xí nghiệp khi có các hành động sai phạm. Tránh trường hợp như của công ty Ve-dan, chỉ khi các cơ quan chức năng vào cuộc thì người dân mới dục dịch làm đơn đi kiện, thu thập thiệt hại… một các rất bị động.
Một giải pháp nữa đó là khi phát giác ra các hành động sai phạm của các công ty gây ô nhiễm môi trường thì, toàn xã hội nên đồng lòng tảy chay hàng hóa của công ty đó. Từ đó buộc những công ty này phải ngưng sản xuất và xả thải ra môi trường và chỉ tiếp tục tiêu thụ nếu như đã có biện pháp cụ thể để bảo vệ môi trường. Qua vụ việc của công ty Ve-dan chúng ta có thể thấy được rằng đây là một cách rất có hiệu quả.
Ảnh: Cộng đồng chung tay bảo vệ môi trường.
Cộng đồng cùng chung tay bảo vệ môi trường là hết sức cần thiết. Không chỉ các doanh nghiệp mà về phía người dân cũng cần thiết phải tích cực bảo vệ môi trường sống của mình. Bảo vệ môi trường chính là bảo vệ bản thân mình. Đồng thời chung tay góp sức khắc phục hậu quả một khi đã xảy ô nhiễm mối trường.
+các cơ quan ngôn luận, báo đài:
Các cơ quan báo trí, truyền thông cũng có một vai trò rất lớn trong việc chung tay bảo vệ môi trường. Chính sức mạng của ngôn luận sẽ gây áp lực cho các công ty buộc phải hoạt động nghiêm túc hơn. Đồng thời độ lan truyền mạnh mẽ của các thông tin do báo đài cung cấp sẽ đưa tới người dân được những thông tin mới nhất, nóng hổi nhất về các vụ việc vi phạm. Mặt khác ý kiến phản ánh của người dân sẽ được đưa đến các cơ quan chức năng nhanh nhất qua các cơ quan ngôn luận này.
Qua những phân tích trên ta có thể thấy rằng việc toàn xã hôi cùng chung tay góp sức bảo vệ môi trường là một biện pháp rất toàn vẹn.
Lời kết cho các giải pháp: các giải pháp nêu trên đều có ưu nhược điểm riêng. Nếu chỉ áp dụng đơn thuần một giải pháp sẽ không có hiệu quả. Bởi vậy nhất thiết là phải thực hiện đồng bộ các giải pháp để đạt được hiệu quả tối ưu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_hoan_chinh_2_522.doc