Kết luận và kiến nghị
Thứ nhất, người thứ ba ngay tình theo
cách tiếp cận của BLDS 2015 chỉ bao gồm
người thứ ba ngay tình tiếp theo. Người thứ
ba ngay tình theo cách tiếp cận của Luật
HN&GĐ 2014 là người ngay tình đầu tiên -
loại người mà BLDS 2015 không gọi là
người thứ ba ngay tình mà là người chiếm
hữu ngay tình. Hai văn bản luật tiếp cận một
thuật ngữ theo hai hướng khác nhau nên
thiếu thống nhất.
Thứ hai, sự thiếu thống nhất đó có thể
dẫn tới những vướng mắc nhất định trong
triển khai áp dụng. Vướng mắc đó có thể là
sẽ đồng nhất người chiếm hữu ngay tình
(người thứ ba ngay tình đầu tiên) với người
thứ ba ngay tình (người ngay tình tiếp theo),
cũng như có thể vô hiệu hóa quy định về
bảo vệ người chiếm hữu ngay tình trong
BLDS 2015.
Để khắc phục hạn chế này, khi có dịp
sửa đổi Luật HN&GĐ 2014, cần phải sửa lại
những quy phạm này theo hướng thay thuật
ngữ “người thứ ba ngay tình” tại Điều 26,
Điều 32 của Luật này bằng thuật ngữ “người
chiếm hữu ngay tình”. Đây mới là biện pháp
căn cơ, giải quyết tận gốc vướng mắc đã
phát hiện.
Trước mắt, khi chưa có điều kiện sửa
đổi, chúng tôi cho rằng, cơ quan có thẩm
quyền cần có án lệ để giải thích cách hiểu
về thuật ngữ người thứ ba ngay tình trong
Luật HN&GĐ 2014. Trong trường hợp
không có án lệ thích hợp, cần có văn bản
hướng dẫn quy định tại Điều 26 và Điều 32
Luật HN&GĐ 2014 theo hướng sau: Người
thứ ba ngay tình quy định tại Điều 26 và
Điều 32 của Luật này là người thứ ba ngay
tình đầu tiên vì đã trực tiếp giao kết giao
dịch với vợ hoặc chồng. Do đó, nếu việc xác
lập của người đó có tính ngay tình thì hiệu
lực của giao dịch đó được xác định theo
Luật này và các quy định về người chiếm
hữu ngay tình trong BLDS 2015. Trường
hợp tài sản đó đã được chuyển giao cho một
người ngay tình tiếp theo bằng một giao dịch
khác thì hiệu lực của giao dịch tiếp theo
được xác định theo quy định về bảo vệ
người thứ ba ngay tình của BLDS 2015
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Người thứ ba ngay tình theo bộ luật dân sự năm 2015 và luật hôn nhân và gia đình năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Luật dân sự Việt Nam, bao gồm cả
BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015, đều
quy định hoàn cảnh để xuất hiện người thứ
ba ngay tình là khi một tài sản phải được
chuyển giao bằng hai giao dịch liên tiếp,
người thứ ba là người nhận tài sản thông qua
giao dịch thứ hai. Thế nhưng, theo Luật
HN&GĐ năm 2014 thì người giao dịch với
chỉ người vợ hoặc người chồng vẫn được
gọi là người thứ ba ngay tình. Trong khi đó,
một cách tất nhiên, một thuật ngữ dùng cho
hai văn bản luật phải có nội hàm giống nhau.
Luật HN&GĐ năm 2014 là một luật chuyên
ngành, không có điều kiện và cũng không
NGÛÚÂI THÛÁ BA NGAY TÒNH THEO BÖÅ LUÊÅT DÊN SÛÅ
NÙM 2015 VAÂ LUÊÅT HÖN NHÊN VAÂ GIA ÀÒNH NÙM 2014
Thân Văn Tài*
Nguyễn Thị Phi Yến**
* Giảng viên Trường Đại học Luật - Đại học Huế
** Giảng viên Trường Đại học Luật - Đại học Huế
Thông tin bài viết:
Từ khoá:
người thứ ba ngay tình, giao
dịch với người thứ ba, hiệu
lực của giao dịch tiếp theo.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 16/01/2017
Biên tập: 09/02/2017
Duyệt bài: 14/02/2017
Article Infomation:
Keywords:
bona fide third party, the
transaction with bona fide
third party, effect of the next
transaction
Article History:
Received: 16 Jan. 2017
Edited: 09 Feb. 2017
Approved: 14 Feb. 2017
Tóm tắt:
Trên cơ sở phân tích Điều 26, Điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ)
năm 2014, bài viết chỉ rõ người giao dịch với vợ hoặc chồng theo quy định
tại các điều luật này không phải là người thứ ba ngay tình theo quy định tại
Điều 133 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 nhưng vẫn được Luật HN&GĐ
năm 2014 gọi là người thứ ba ngay tình. Đồng thời, bài viết nêu tác động
tiêu cực của việc thiếu thống nhất trong xây dựng khái niệm này, từ đó đề
xuất biện pháp triển khai áp dụng nhằm bảo đảm tính thống nhất.
Abstract:
Basing on the analysis of the Article 26 and Article 32 of the Marriage and
Family Law of 2014, this article states that the individual who is in a civil
transaction with spouse hereby is not bona fide third party according to the
Article 133 of Civil Code of 2015. Yet, the Marriage and Family Law of 2014
has dedicated that is a bona fide third party. In addition, this article shows a
number of negative impacts by this inconsistent definition of the bona fide
third party, and then suggests several ways to perform the unified
understanding.
47
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
thể mô tả các dấu hiệu nhận diện người thứ
ba ngay tình như BLDS năm 2015, nên khi
viện dẫn áp dụng quy định về bảo vệ người
thứ ba ngay tình trong BLDS năm 2015,
khái niệm này cần phải được xây dựng nhất
quán với nhau về cách tiếp cận.
Như vậy, có ba vấn đề đặt ra theo một
hệ thống logic, đó là: (i) người giao dịch với
vợ hoặc chồng trong Luật HN&GĐ năm
2014 có thực sự là người thứ ba ngay tình
theo cách tiếp cận của BLDS năm 2015 hay
không; (ii) trường hợp không là người thứ
ba ngay tình thì họ là loại người nào trong
BLDS năm 2015 và được bảo vệ như thế
nào, và (iii) cần có hướng triển khai áp dụng
như thế nào đối với quy định có liên quan
vừa nêu ở trên.
1. Hai loại “người thứ ba ngay tình” và
tầm quan trọng của việc phân định hai
loại người này
Khoa học pháp lý đã có nhiều nghiên
cứu, đánh giá về các biện pháp mà các hệ
thống pháp luật thường sử dụng để bảo vệ
người ngay tình nói chung và bảo vệ người
thứ ba ngay tình nói riêng. Để quy định cho
phù hợp với từng hoàn cảnh và với thực tế,
người ta đã phân định “người thứ ba ngay
tình” thành “người thứ ba ngay tình đầu
tiên” và “người thứ ba ngay tình tiếp theo”1.
Người thứ ba ngay tình đầu tiên là
người thứ ba trong mối quan hệ với hai
người nào đó có liên quan đến tài sản.
Thường hai người có liên quan đến tài sản
đó là chủ sở hữu đích thực của tài sản và
người trực tiếp giao dịch với người thứ ba
đó. Chẳng hạn, A và B là vợ chồng nhưng
ngôi nhà chung của họ chỉ đứng tên chồng
là A. Sau đó, A bán nhà cho C nhưng không
cho vợ là B biết điều đó. C trong trường hợp
này được gọi là người thứ ba trong mối quan
hệ với hai người có liên quan đến tài sản, đó
là A, với tư cách là người trực tiếp giao dịch
và B với tư cách là đồng sở hữu tài sản.
Hoặc: Ông Q cho ông P mượn 200 mét
vuông đất sử dụng. Ông P đã tự ý đăng ký
và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Sau đó, ông P chuyển nhượng cho ông
K. Ở trường hợp này, người ta gọi ông K là
người thứ ba là trong mối quan hệ với ông
Q và ông P.
Khi người thứ ba này nhận chuyển
giao tài sản mà hoàn cảnh giao kết giao dịch
đó hội đủ các dấu hiệu được cho là ngay tình
thì họ được coi là người thứ ba ngay tình đầu
tiên.
Điều kiện để xuất hiện người thứ ba
ngay tình đầu tiên khá đơn giản, đó là chỉ
cần một giao dịch được thiết lập và người
nhận tài sản thông qua giao dịch đó có tính
chất ngay tình. Chính vì điều kiện xuất hiện
có tính chất đơn giản cho nên cho phép mỗi
hệ thống pháp luật thiết lập quy tắc ưu tiên
bảo vệ quyền lợi cho người có quyền định
đoạt đích thực. Tức là, chủ sở hữu đích thực
của tài sản sẽ được ưu tiên bảo vệ quyền
trong trường hợp này. Do vậy, pháp luật
nhiều nước vẫn cho phép chủ sở hữu đòi lại
tài sản từ người thứ ba ngay tình đầu tiên2.
1 Pamela O’Connor, Registration of Invalid Dispositions: Who gets the Property? trong Elizabeth Cooke, Modern Stud-
ies in Property Law Vol III, Hart Publishing (2005). Dẫn theo: Đỗ Thành Công, “Đòi lại bất động sản từ người thứ
ba ngay tình”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Pháp luật đất đai và nhà ở với vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam” do Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - quyền công dân và Khoa luật Dân sự Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh tổ chức tháng 9/2011, tr. 120.
2 Xu hướng này được thể hiện điển hình trong hệ thống pháp luật Anh (và một số nước khác), theo: Pamela O’Connor,
Registration of Invalid Dispositions: Who gets the Property? trong Elizabeth Cooke, Modern Studies in Property Law
Vol III, Hart Publishing (2005), p. 50. Dẫn theo Đỗ Thành Công, “Đòi lại bất động sản từ người thứ ba ngay tình”,
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Pháp luật đất đai và nhà ở với vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt Nam”, tlđd, tr. 122.
48
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Theo chúng tôi, điều này xuất phát từ quan
niệm cho rằng, việc đòi lại tài sản từ người
thứ ba ngay tình đầu tiên không làm xáo trộn
quá lớn đến quan hệ sở hữu, vì như trên đã
nói, nó chỉ liên quan đến một giao dịch, liên
quan đến quyền lợi của ít người.
Người thứ ba ngay tình tiếp theo là
người nhận chính tài sản đó thông qua một
giao dịch thứ hai. Gọi họ là người thứ ba
ngay tình tiếp theo vì tính chất ngay tình đã
xuất hiện ngay ở người nhận chuyển giao tài
sản ở giao dịch thứ nhất. Mặt khác, với giao
dịch thứ nhất đó thì họ là người thứ ba, tức
không phải chủ thể của giao dịch này.
Nhưng họ lại nhận tài sản đó bằng việc xác
lập một giao dịch tiếp theo. Chẳng hạn như
ở hai ví dụ vừa nêu, sau khi C mua nhà của
B và được cấp giấy thì lại tiếp tục bán ngôi
nhà đó cho D. Tương tự, ông K nhận chuyển
nhượng đất của ông P và đã được cấp giấy
và tiếp tục chuyển nhượng nó cho N. Trong
trường hợp này, D và N được coi là người
thứ ba ngay tình tiếp theo.
Như vậy, điều kiện để xuất hiện người
thứ ba ngay tình tiếp theo là phải tồn tại ít
nhất hai giao dịch nối tiếp nhau và một tài
sản nhất định đồng thời là đối tượng của các
giao dịch đó. Có nghĩa là điều kiện xuất hiện
của người này sẽ phức tạp hơn nhiều so với
người thứ ba ngay tình đầu tiên. Chính vì
vậy, pháp luật các nước thường ưu tiên bảo
vệ quyền lợi cho người thứ ba tiếp theo bằng
những biện pháp khác nhau, trong đó chủ
yếu là biện pháp coi giao dịch tiếp theo sẽ
có hiệu lực trong những trường hợp nhất
định kể cả khi giao dịch thứ nhất đã bị xác
định là vô hiệu. Bởi lẽ, việc cho phép chủ sở
hữu đích thực đòi lại tài sản từ người này
làm cho quan hệ tài sản không ổn định, an
toàn giao dịch không bảo đảm được. Hơn
nữa, tính ngay tình của người này - theo
chúng tôi - là cao hơn rất nhiều so với người
thứ ba ngay tình đầu tiên, vì khi tài sản được
chuyển giao qua nhiều giao dịch liên tiếp
nhau thì khó có thể yêu cầu người nhận tài
sản phải biết người có quyền định đoạt thực
sự là ai. Về phương diện khả năng, họ thực
sự không thể biết được kể cả khi áp dụng
nhiều biện pháp; về phương diện nhận thức,
họ không biết mình đang giao dịch với
người không có quyền định đoạt tài sản.
Quyền lợi của người thứ ba ngay tình
và người có quyền định đoạt tài sản đích
thực luôn có xu hướng xung đột với nhau.
Để giải quyết xung đột này, pháp luật chỉ có
thể lựa chọn một trong hai hướng điều
chỉnh. Đó là, ưu tiên bảo vệ người có quyền
đích thực đối với tài sản, được gọi là mục
đích an toàn tĩnh (static security)3, hoặc bảo
vệ người nhận chuyển giao tài sản đó, tức là
mục đích an toàn động (dynamic security)4.
Phép phân loại người thứ ba ngay tình thành
người thứ ba ngay tình đầu tiên và người thứ
ba ngay tình tiếp theo dựa trên cơ sở hoàn
cảnh, điều kiện xuất hiện có giá trị quan
trọng trong việc dung hòa, cân bằng giữa an
3 Pamela O’Connor, Registration of Invalid Dispositions: Who gets the Property? in: Elizabeth Cooke, Modern Studies
in Property Law Vol III, Hart Publishing (2005), p. 47. Dẫn theo: “Đỗ Thành Công, Đòi lại bất động sản từ người thứ
ba ngay tình”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Pháp luật đất đai và nhà ở với vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt
Nam” tlđd, tr. 121.
4 Pamela O’Connor, Registration of title in England and Australia: A theoretical and comparative analysis in: Elizabeth
Cooke, Modern Studies in Property Law Vol II, Hart Publishing (2003), p. 86. Dẫn theo: Đỗ Thành Công, Đòi lại bất
động sản từ người thứ ba ngay tình, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Pháp luật đất đai và nhà ở với vấn đề bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam” tlđd, trang 121.
49
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
toàn tĩnh và an toàn động5. Điều đó có nghĩa
là, nếu vì một lý do nào đó, sự phân định
người thứ ba ngay tình đầu tiên và người thứ
ba ngay tình tiếp theo không được thể hiện
rõ trong luật thực định, cũng như trong quá
trình áp dụng pháp luật thì đó là một hạn chế
cần phải được hoàn thiện. Hạn chế này sẽ
tạo ra những tác động tiêu cực trong việc cân
bằng giữa lợi ích của các bên liên quan.
2. “Người thứ ba ngay tình” theo Bộ luật
Dân sự năm 2015
Nếu BLDS 2005 đã ba lần nhắc đến
người thứ ba ngay tình (tại Điều 138) thì
BLDS 2015 cũng bốn lần nhắc đến thuật
ngữ này (tại Điều 133), cụ thể:
“Điều 133. Bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự
vô hiệu
1. Trường hợp giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản
không phải đăng ký đã được chuyển giao
cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch
được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn
có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều
167 của Bộ luật này.
2. Trường hợp giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được
chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác
cho người thứ ba ngay tình và người này căn
cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực
hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô
hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà
chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người
thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ
ba ngay tình nhận được tài sản này thông
qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền
hoặc giao dịch với người mà theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó
chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản
do bản án, quyết định bị hủy, sửa ()”6.
Cả hai bộ luật trên đều không khái
quát hóa các dấu hiệu của người thứ ba ngay
tình thông qua một định nghĩa riêng, điều
mà chúng tôi đã có ý kiến trong dịp sửa đổi
gần đây và theo chúng tôi, đây là một điều
đáng tiếc7. Việc đề cập đến người thứ ba
ngay tình trong luật dân sự Việt Nam chỉ
nằm trong khuôn khổ của một điều luật quy
định về “bảo vệ người thứ ba ngay tình khi
giao dịch dân sự vô hiệu”. Tức là, luật dân
sự thay vì trước đó trả lời câu hỏi “người thứ
ba ngay tình là người như thế nào” rồi sau
đó trả lời câu hỏi “người thứ ba ngay tình
khi nào thì được bảo vệ, khi nào không được
5 Pamela O’Connor, Registration of Invalid Dispositions: Who gets the Property? in: Elizabeth Cooke, Modern Studies
in Property Law Vol III, Hart Publishing (2005). Dẫn theo: Đỗ Thành Công, Đòi lại bất động sản từ người thứ ba
ngay tình, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Pháp luật đất đai và nhà ở với vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt Nam”
tlđd, tr. 122.
6 Điều 138 BLDS 2005 quy định:
“1. Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu
đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu
lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 257 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển
giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp
người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài
sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa”.
7 Xem thêm: Thân Văn Tài (2015), Hoàn thiện quy định về bảo vệ người thứ ba ngay tình trong dự thảo BLDS sửa đổi,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/2015, tr. 43.
50
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
bảo vệ” mà trả lời luôn câu hỏi thứ hai.
Nhận thức đúng điều này sẽ giúp chúng ta
thấy rõ, người thứ ba ngay tình không chỉ là
những người được liệt kê tại Điều 133
BLDS 2015 (hay Điều 138 BLDS 2005), mà
đó chỉ là những người thứ ba ngay tình mà
nhà làm luật nhận thấy cần được điều chỉnh.
Cũng chính vì luật dân sự Việt Nam chỉ trả
lời câu hỏi thứ hai, cho nên rất khó để khái
quát một cách toàn diện các dấu hiệu của
người thứ ba ngay tình. Mặc dù vậy, theo
chúng tôi, khi phân tích Điều 133 của BLDS
2015 cũng như quy phạm tương ứng trong
BLDS 2005 thì người thứ ba ngay tình là
người có những dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất, người thứ ba ngay tình
trước hết phải là người thứ ba trong mối
quan hệ với giao dịch thứ nhất (đã bị coi là
vô hiệu) nhưng lại là chủ thể của giao dịch
dân sự thứ hai. Tài sản mà người thứ ba này
nhận thông qua giao dịch thứ hai cũng đồng
thời là đối tượng của giao dịch thứ nhất. Nói
cách khác, người thứ ba ngay tình xuất hiện
phải gắn với tiền đề là hai giao dịch chứ
không thể xuất hiện với hoàn cảnh chỉ có
một giao dịch. Điều này được thể hiện một
cách minh thị ngay ở câu chữ trong điều luật
vừa nêu. Ở góc độ nghiên cứu, các tác giả
Đỗ Văn Đại, Hoàng Thế Liên cũng từng
nhấn mạnh đến tiền đề cho việc xuất hiện
người thứ ba ngay tình đó là phải có hai giao
dịch dân sự8. Qua rà soát thực tiễn áp dụng
Điều 138 BLDS 2005 (với việc mô tả hoàn
cảnh người thứ ba ngay tình tương tự với
Điều 133 BLDS 2015), chúng tôi thấy đây
cũng là cách hiểu trong thực tế và sẽ cho
thấy cách vận dụng sắp tới, đối với Điều 133
BLDS 20159.
Thứ hai, việc xác lập giao dịch thứ hai
của người thứ ba là có tính chất “ngay tình”.
Luật dân sự Việt Nam cũng không định
nghĩa tính chất ngay tình của người thứ ba
là như thế nào mà chỉ định nghĩa về tính
ngay tình của việc chiếm hữu. Và ở đây,
BLDS 2015 không cho biết tính ngay tình
của người thứ ba có giống với tính ngay tình
của người chiếm hữu hay không10. Từ đó,
cũng rất khó khái quát hóa về dấu hiệu ngay
tình của người thứ ba theo quy định của luật
dân sự Việt Nam.
8 Xem thêm:
(i) Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, tập 2, tái bản lần thứ tư, sách chuyên khảo,
Nxb. Chính trị quốc gia, tập 2, H., tr. 77;
(ii) Hoàng Thế Liên (2008), Bình luận khoa học BLDS 2005, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 310.
9 Chẳng hạn, ông Nhơn được công nhận quyền sử dụng đất năm 1986 (quyết định bằng văn bản). Năm 1990 ông về
Đồng Tháp sinh sống nên nhờ chị vợ là bà Ngẫu quản lý. Sau đó, dù không có ý kiến của ông Nhơn nhưng bà Ngẫu
cùng hai người nữa đã sang nhượng thửa đất đó cho ông Long. Sau khi được cấp giấy chứng nhận, ông Long lại
chuyển nhượng cho Doanh nghiệp tư nhân Tấn Hưng. Vụ án được giám đốc thẩm vào năm 2011 và Hội đồng thẩm
phán cho rằng: “Tòa phúc thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Ngẫu với ông Long vô
hiệu nhưng do ông Long đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển nhượng toàn bộ diện tích cho
doanh nghiệp Tấn Hưng nên tòa phúc thẩm buộc những người xâm phạm quyền lợi của ông Nhơn phải trả giá trị cho
ông Nhơn là có căn cứ và phù hợp”. Như vậy, tòa án đã theo hướng coi doanh nghiệp Tấn Hưng là người thứ ba ngay
tình khi doanh nghiệp này giao dịch nhận tài sản thông qua giao dịch thứ hai. Xem Quyết định số 58/2011/DS-GĐT
ngày 21/01/2011 của Tòa án nhân dân tối cao.
10 Tác giả Đỗ Văn Đại cũng từng có nhận định tương tự như vậy khi bình luận về điều luật tương ứng trong BLDS 2005
và chúng tôi đồng ý quan điểm này: “Thực ra, BLDS có đề cập đến ngay tình nhưng chỉ dừng lại ở định nghĩa chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình tại Điều 189”, “Điều 189 nói về người chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình, còn Điều 138 đề cập đến người thứ ba ngay tình và chúng tôi không chắc chắn là hai khái
niệm này có nội hàm ngay tình là giống nhau”. Xem thêm: Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình
luận bản án, tlđd, tr. 77.
51
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 133 BLDS
2015 có loại trừ trường hợp người chiếm
hữu ngay tình mà việc nhận tài sản thông
qua giao dịch không có đền bù (quy định tại
Điều 167) ra khỏi các trường hợp người thứ
ba ngay tình được bảo vệ. Có nghĩa là, nhà
làm luật đang thừa nhận trường hợp một
người nhận chuyển giao tài sản thông qua
giao dịch không có đền bù với người khác
có thể là người thứ ba ngay tình. Cho dù
được thừa nhận tư cách là người thứ ba ngay
tình nhưng không được bảo vệ vì việc nhận
chuyển giao tài sản đó không gắn liền với
việc đầu tư công sức, của cải nên không
được hưởng quyền tại Điều 133. Như vậy,
có thể thấy, theo cách diễn đạt của Điều 133,
tính ngay tình của người thứ ba có nội hàm
hẹp hơn so với tính ngay tình của người
chiếm hữu. Bởi lẽ, chiếm hữu thì có thể là
kết quả của việc thực hiện giao dịch hoặc
cũng có thể không là kết quả của một giao
dịch. Nhưng tính ngay tình của người thứ ba
phải gắn liền với hoàn cảnh xác lập giao
dịch. Cho nên, nếu BLDS 2015 đã định
nghĩa chiếm hữu ngay tình là việc người
chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có
quyền đối với tài sản chiếm hữu11, cho phép
chúng ta có thể suy luận rằng, tính ngay tình
của người thứ ba được hiểu là, người thứ ba
khi xác lập giao dịch, có căn cứ để tin rằng
người giao dịch với mình là người có quyền
định đoạt tài sản đó. Bởi lẽ, nếu tiền đề này
không bảo đảm thì việc chiếm hữu sau đó
(kết quả của giao dịch) cũng không được coi
là ngay tình. Như vậy, một người thứ ba
ngay tình (theo Điều 133) được coi là người
chiếm hữu ngay tình (theo Điều 180) nhưng
ở chiều ngược lại, không phải người chiếm
hữu ngay tình nào cũng là người thứ ba ngay
tình tại Điều 133.
Như vậy, mặc dù sử dụng tên gọi
“người thứ ba ngay tình”, song Điều 133
BLDS 2015 chỉ nói đến người thứ ba ngay
tình tiếp theo tại Điều luật này mà không
bao gồm người thứ ba ngay tình đầu tiên.
Đối với người thứ ba đầu tiên, BLDS
2015 cũng như BLDS 2005 gọi họ bằng một
tên khác, đó là người chiếm hữu ngay tình.
Việc xây dựng khái niệm chiếm hữu ngay
tình trong pháp luật Việt Nam không dựa
trên hoàn cảnh xuất hiện của họ là phải có
bao nhiêu giao dịch làm tiền đề. Thế cho
nên, tên gọi này sẽ bao gồm người thứ ba
ngay tình đầu tiên, người thứ ba ngay tình
tiếp theo, một số khác nữa mà việc chiếm
hữu của họ không phải là kết quả của một
giao dịch dân sự. Nói khác đi, quan hệ giữa
khái niệm “người thứ ba ngay tình đầu tiên”
với “người chiếm hữu ngay tình” là quan hệ
giữa cái riêng và cái chung mà không đồng
nhất, cũng không độc lập. Do vậy, khi người
chiếm hữu ngay tình là người thứ ba ngay
tình đầu tiên thì phải áp dụng các quy định
của pháp luật về người chiếm hữu ngay tình
để xác định quyền lợi của họ được hưởng.
Khi người chiếm hữu ngay tình nhưng tiền
đề của việc chiếm hữu đó là hai giao dịch
dân sự (tức là người thứ ba ngay tình tiếp
theo) thì mới được bảo vệ quyền lợi theo
Điều 133.
Tóm lại, trong luật dân sự Việt Nam,
khái niệm “người thứ ba ngay tình” chỉ phản
ánh đến loại “người thứ ba ngay tình tiếp
theo”, mà không đề cập tới “người thứ ba
ngay tình đầu tiên”.
11 Điều 180 BLDS 2015.
52
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
3. Người thứ ba ngay tình theo quy định
của luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
và một số đánh giá
Là một đạo luật điều chỉnh một lĩnh
vực quan hệ đặc thù, đương nhiên Luật
HN&GĐ 2014 không thể đưa ra một định
nghĩa về người thứ ba ngay tình bằng một
quy phạm nào đó. Thế nhưng, người thứ ba
ngay tình cũng được đạo luật này nhắc đến
bốn lần, 1 lần ở Điều 26 và 3 lần ở Điều 32,
cụ thể:
Điều 26. Đại diện giữa vợ và chồng
trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở
hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với
tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc
chồng
“() 2. Trong trường hợp vợ hoặc
chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở
hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản
tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao
dịch với người thứ ba trái với quy định về
đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì
giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo
quy định của pháp luật mà người thứ ba
ngay tình được bảo vệ quyền lợi”.
Điều 32. Giao dịch với người thứ ba
ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng,
tài khoản chứng khoán và động sản khác mà
theo quy định của pháp luật không phải đăng
ký quyền sở hữu, quyền sử dụng
“1. Trong giao dịch với người thứ ba
ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài
khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán
được coi là người có quyền xác lập, thực
hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó.
2. Trong giao dịch với người thứ ba
ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu
động sản mà theo quy định của pháp luật
không phải đăng ký quyền sở hữu được coi
là người có quyền xác lập, thực hiện giao
dịch liên quan đến tài sản đó trong trường
hợp BLDS có quy định về việc bảo vệ người
thứ ba ngay tình”.
Với những mô tả trong các quy định
vừa trích dẫn ở trên, người thứ ba ngay tình
theo Luật HN&GĐ 2014 không nhất thiết là
người thứ ba trong mối quan hệ với một giao
dịch mà là người thứ ba đối với một quan hệ
vợ chồng. Chẳng hạn: A và B là vợ chồng.
C là người thứ ba trong mối quan hệ với hôn
nhân giữa A và B. Nói khác đi, người thứ ba
ngay tình theo Luật HN&GĐ 2014 không
yêu cầu phải có 2 giao dịch, tức là không
yêu cầu tài sản phải chuyển giao 2 lần. Vì
những trường hợp được mô tả trong các quy
phạm trên không hề tồn tại giao dịch nào
giữa hai vợ chồng, để nói rằng giao dịch
giữa vợ hoặc chồng với người khác là giao
dịch thứ hai. Kết luận vừa nêu được rút ra
khi phân tích các điều luật quy định về vấn
đề này. Các mệnh đề như: “vợ hoặc chồng
() giao dịch với người thứ ba” ở Điều 26,
“trong giao dịch với người thứ ba thì vợ
hoặc chồng” ở Điều 32, cho thấy nhà làm
luật đang coi người giao dịch với vợ hoặc
với chồng là người thứ ba trong quan hệ hôn
nhân giữa vợ và chồng.
Giả thuyết đặt ra là, có phải điều luật
trên đang nói đến những tài sản chung của
vợ chồng đã tạo lập được do nhận chuyển
giao từ một người khác bằng một giao dịch
trước đó hay không để cho rằng giao dịch
đang nói đến ở đây là giao dịch thứ hai nhằm
chuyển giao tài sản đó cho người khác. Kể
cả với góc độ nhìn nhận cởi mở như thế thì
cũng không có logic hệ thống trong chính
bản thân Luật HN&GĐ 2014. Bởi lẽ, vấn đề
bảo vệ người thứ ba ngay tình chỉ đặt ra khi
mà giao dịch trước đó vô hiệu dẫn đến người
chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay
53
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
tình ở giao dịch thứ 2 là người không có
quyền định đoạt. Cho nên về nguyên tắc là
giao dịch thứ 2 sẽ thiếu điều kiện có hiệu lực
nhưng do họ ngay tình nên cần bảo vệ họ.
Còn Luật HN&GĐ 2014 đang điều chỉnh
đến quyền định đoạt tài sản chung của vợ
chồng nên phải tiếp cận ở phương diện coi
vợ và chồng là chủ sở hữu đích thực của tài
sản đó. Nói khác đi, kể cả khi tài sản đó
được tạo lập do nhận chuyển giao từ người
khác thông qua một giao dịch trước đó thì
theo cách tiếp cận của các điều luật này, giao
dịch đó phải có và đã có hiệu lực. Vậy vấn
đề bảo vệ người thứ ba ngay tình có nên đặt
ra, và nếu đã đặt ra vấn đề này thì tại sao
giao dịch thứ nhất đã được mặc định là có
hiệu lực? Chính sự mâu thuẫn này cho thấy
kể cả với cách tiếp cận cởi mở nhất thì cũng
không thể thấy được người thứ ba ngay tình
ở Luật HN&GĐ là loại người được quy
định tại Điều 133 BLDS 2015.
Thực ra, với hoàn cảnh mà điều luật
đang mô tả, người giao dịch với vợ, hoặc với
chồng chỉ có thể là người thứ ba ngay tình
đầu tiên mà không thể là người thứ ba ngay
tình tiếp theo để có thể được gọi là người
thứ ba ngay tình. Nói khác đi, người thứ ba
ngay tình theo quy định của Luật HN&GĐ
2014 là người chiếm hữu ngay tình theo
BLDS 2015.
Sự khác biệt về cách tiếp cận khi xây
dựng khái niệm “người thứ ba ngay tình”
trong hai đạo luật này sẽ dẫn tới những tác
động “tiêu cực” trong triển khai áp dụng. Có
thể nói, Luật HN&GĐ 2014 mới được triển
khai áp dụng, còn BLDS 2015 chưa được
triển khai áp dụng, cho nên việc minh họa
những tác động tiêu cực đó bằng những vụ
việc thực tế là không thể được. Tuy nhiên, ở
góc độ lý thuyết, những vướng mắc có thể
gặp phải trong tương lai sẽ là:
Một là, do điều luật đồng nhất người
chiếm hữu ngay tình với người thứ ba ngay
tình cho nên thực tiễn áp dụng sẽ đồng nhất
người thứ ba ngay tình đầu tiên và người thứ
ba ngay tình tiếp theo. Điều này tức là đã đi
ngược lại với tinh thần của BLDS 2015,
cũng như không phù hợp với lý luận như đã
nêu ở trên. BLDS 2015 tuy không có một
khái niệm riêng cho người thứ ba đầu tiên
nhưng đã sử dụng tên gọi người chiếm hữu
ngay tình để chỉ người này (cùng với những
loại người khác). Điều này có nghĩa là đã cố
gắng phân định người thứ ba ngay tình đầu
tiên và người thứ ba ngay tình tiếp theo để
điều chỉnh phù hợp. Ở góc độ lý luận đã nêu,
mức độ ngay tình và nhu cầu bảo vệ của
người thứ ba ngay tình đầu tiên và người thứ
ba ngay tình tiếp theo là hoàn toàn khác
nhau. Do vậy, đồng nhất hai loại người này
là một hạn chế không nhỏ.
Hai là, quyền được bảo vệ của người
chiếm hữu ngay tình khi họ giao dịch với vợ
hoặc với chồng có thể bị vô hiệu hóa trong
thực tế. Do hoàn cảnh được mô tả trong điều
luật không thể xuất hiện người thứ ba ngay
tình theo Điều 133 BLDS 2015, mà chỉ có
thể xuất hiện người chiếm hữu ngay tình.
Cho nên, khi Luật HN&GĐ 2014 viện dẫn
đến người thứ ba ngay tình được bảo vệ, có
nghĩa là chỉ những người nào được bảo vệ
theo Điều 133 BLDS 2015 thì mới được loại
trừ ra khỏi trường hợp vô hiệu. Theo cách
viện dẫn đó, thì sẽ không có người thứ ba
ngay tình nào được coi là bảo vệ. Mặc dù,
người được nói đến ở đây là người chiếm
hữu ngay tình, đáng ra được hưởng quyền
bảo vệ nhưng do không được liệt kê là ngoại
lệ, nên quyền của họ sẽ bị vô hiệu hóa.
54
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
4. Kết luận và kiến nghị
Thứ nhất, người thứ ba ngay tình theo
cách tiếp cận của BLDS 2015 chỉ bao gồm
người thứ ba ngay tình tiếp theo. Người thứ
ba ngay tình theo cách tiếp cận của Luật
HN&GĐ 2014 là người ngay tình đầu tiên -
loại người mà BLDS 2015 không gọi là
người thứ ba ngay tình mà là người chiếm
hữu ngay tình. Hai văn bản luật tiếp cận một
thuật ngữ theo hai hướng khác nhau nên
thiếu thống nhất.
Thứ hai, sự thiếu thống nhất đó có thể
dẫn tới những vướng mắc nhất định trong
triển khai áp dụng. Vướng mắc đó có thể là
sẽ đồng nhất người chiếm hữu ngay tình
(người thứ ba ngay tình đầu tiên) với người
thứ ba ngay tình (người ngay tình tiếp theo),
cũng như có thể vô hiệu hóa quy định về
bảo vệ người chiếm hữu ngay tình trong
BLDS 2015.
Để khắc phục hạn chế này, khi có dịp
sửa đổi Luật HN&GĐ 2014, cần phải sửa lại
những quy phạm này theo hướng thay thuật
ngữ “người thứ ba ngay tình” tại Điều 26,
Điều 32 của Luật này bằng thuật ngữ “người
chiếm hữu ngay tình”. Đây mới là biện pháp
căn cơ, giải quyết tận gốc vướng mắc đã
phát hiện.
Trước mắt, khi chưa có điều kiện sửa
đổi, chúng tôi cho rằng, cơ quan có thẩm
quyền cần có án lệ để giải thích cách hiểu
về thuật ngữ người thứ ba ngay tình trong
Luật HN&GĐ 2014. Trong trường hợp
không có án lệ thích hợp, cần có văn bản
hướng dẫn quy định tại Điều 26 và Điều 32
Luật HN&GĐ 2014 theo hướng sau: Người
thứ ba ngay tình quy định tại Điều 26 và
Điều 32 của Luật này là người thứ ba ngay
tình đầu tiên vì đã trực tiếp giao kết giao
dịch với vợ hoặc chồng. Do đó, nếu việc xác
lập của người đó có tính ngay tình thì hiệu
lực của giao dịch đó được xác định theo
Luật này và các quy định về người chiếm
hữu ngay tình trong BLDS 2015. Trường
hợp tài sản đó đã được chuyển giao cho một
người ngay tình tiếp theo bằng một giao dịch
khác thì hiệu lực của giao dịch tiếp theo
được xác định theo quy định về bảo vệ
người thứ ba ngay tình của BLDS 2015 n
TÀI lIỆu THAM KHẢo
1. Đỗ Thành Công (2011), “Đòi lại bất động sản từ người thứ ba ngay tình”, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Pháp luật đất
đai và nhà ở với vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt Nam” do Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - quyền
công dân và Khoa luật Dân sự Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh tổ chức tháng 9/2011.
2. Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, tập 2, tái bản lần thứ tư, sách chuyên khảo, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 77.
3. Hoàng Thế Liên (2008), Bình luận khoa học BLDS 2005, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 310.
4. Pamela O’Connor, Registration of Invalid Dispositions: Who gets the Property? in: Elizabeth Cooke, Modern Studies
in Property Law Vol III, Hart Publishing (2005).
5. Thân Văn Tài (2015), Hoàn thiện quy định về bảo vệ người thứ ba ngay tình trong dự thảo BLDS sửa đổi, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 8/2015.
9. Tòa án nhân dân tối cao (2011), Quyết định số 58/2011/DS-GĐT ngày 21/01/2011 về giám đốc thẩm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguoi_thu_ba_ngay_tinh_theo_bo_luat_dan_su_nam_2015_va_luat.pdf