There is a bed rock containing a lot of coarses with elliptical and rugby shape on the highest part of the moutain
ridges within BaVi range (Vua and Tan Vien ridge). This formation covers igneous rocks of the Vien Nam formation.
Currently, there are some opinions about origin of the formation. Some opinions suggest that it was formed by
sedimentary process while others suggest that it was formed by volcanic eruption. Results from optical microscopy
analysis show that almost samples from both coarses and cements occur as intermediate volcanic rocks including
trachyte, dacite and trachydacite. In addition, shape of many coarses shows that they had undergone a plastic
deformation process when they were still hot and not cool completely. From these studies, it can be concluded that the
coarses are mainly volcanic bombs formed by volcanic eruption. Therefore, this bedrock is an aglomerate formation and
it was formed in the eruption forming the Vien Nam formation (P3 vn)
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 619 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn gốc và tên gọi của tầng “cuội kết” tại khu vực đỉnh núi Ba Vì, Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
204
35(2), 204-210 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 9-2013
NGUỒN GỐC VÀ TÊN GỌI CỦA TẦNG “CUỘI KẾT”
TẠI KHU VỰC ĐỈNH NÚI BA VÌ, HÀ NỘI
BÙI VĂN ĐÔNG, TẠ HÒA PHƯƠNG, NGUYỄN THÙY DƯƠNG
Email: dongbv.102@gmail.com
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày nhận bài: 8 - 5 - 2013
1. Mở đầu
Trên phần cao nhất của các đỉnh núi vùng Ba
Vì (đỉnh Vua, đỉnh Tản Viên) có tầng đá “cuội kết”
chứa nhiều tảng, cuội với độ “mài tròn” khác nhau,
rất đặc biệt. Hiện còn nhiều ý kiến chưa thống nhất
về nguồn gốc thành tạo của tầng đá này. Có ý kiến
cho rằng đó là tầng cuội kết núi lửa (Nguyễn Ngọc
Khôi, 2006 trong tài liệu “Chuẩn hóa vùng thực tập
địa chất đại cương vùng Ba Vì - Đồ Sơn, Trường
Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà
Nội”) và cũng có ý kiến cho rằng nó được hình
thành do sự phun nổ của núi lửa [3, 5]. Việc xác
định chính xác tên gọi của tầng đá này có ý nghĩa
quan trọng bởi vì Ba Vì không chỉ là một khu du
lịch mà còn là địa bàn thực tập hàng năm của sinh
viên khối các khoa học về Trái Đất của Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Phân tích các tài liệu khoa học đã công bố,
đồng thời tiến hành các nghiên cứu bổ sung, các
tác giả muốn góp phần giải quyết vấn đề nguồn gốc
của tầng đá “cuội kết” kể trên.
2. Vùng nghiên cứu
Vùng nghiên cứu thuộc phạm vi huyện Ba Vì
và Tx. Sơn Tây, cách trung tâm thành phố Hà Nội
khoảng 50 km về phía tây bắc.
Trong vùng nghiên cứu phổ biến các thành tạo
phun trào, trầm tích và biến chất, phát triển không
liên tục từ Paleoproterozoi đến Đệ tứ, trong đó diện
lộ của hệ tầng Viên Nam (P3 vn) [5] chiếm phần
lớn diện tích phía nam vùng. Đá của hệ tầng này
nhiều nơi bị ép phiến mạnh hoặc bị phong hóa ở
các mức độ khác nhau [1, 2, 5, 7].
3. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu đặt ra, bài báo sử dụng
các phương pháp nghiên cứu thạch học, nhiễu xạ
rơn ghen XRD nhằm xác định thành phần khoáng
vật của cuội và xi măng gắn kết, từ đó có kết quả
đối sánh để tìm ra nguồn gốc hình thành tầng đá.
Số lượng lát mỏng phân tích gồm có 30 mẫu tại
khu vực đỉnh Ba Vì, 10 mẫu tại khu vực Đền
Trung, 10 mẫu tại khu vực mỏ pyrit Minh Quang
và 5 mẫu đá nằm dưới ranh giới với tầng “cuội”.
Mẫu được gia công lát mỏng thạch học và phân
tích bằng kính hiển vi Axiokop 40 tại Khoa Địa
chất, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên. Ngoài
ra, nhằm xác định thành phần khoáng vật sét có
trong các thành tạo “cuội” và xi măng gắn kết bài
báo sử dụng phương pháp XRD. Mẫu được nghiền
nhỏ tới kích thước < 64µm, phân tích dạng bột với
máy Siemens D5005 tại khoa Vật lý, Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên. Các thông số đo bao gồm
bước nhảy 0,03°, thời gian ngưng 1,0s, dải đo 5-
60° 2θ, ống Cu.
4. Đặc điểm của tầng “cuội kết” trên đỉnh Ba Vì
Tập đá chứa nhiều “cuội” lộ chủ yếu ở phần
cao nhất dãy Ba Vì, thuộc đỉnh Vua và đỉnh Tản
Viên. Các tảng lăn lớn của tầng đá này gặp tại khu
vực đền Trung và mỏ pyrit Minh Quang.
Tại khu vực đỉnh Tản Viên và đỉnh Vua đá gốc
lộ ra có bề dày dao động trong khoảng vài chục
mét. Tại đây tầng đá chứa nhiều “cuội” có ranh
giới rõ ràng với các đá phun trào nằm dưới. Các
hạt vụn (phần hạt thô) của tầng đá có kích thước từ
0,5cm đến 25cm × 60cm, các “cuội” lớn thường
có dạng bầu dục, kéo dài, sắp xếp định hướng rõ
rệt, trong khi đó các loại “cuội” kích thước nhỏ
205
hơn thường có dạng đẳng thước và không định
hướng rõ.
4.1. Thành phần “cuội”
Căn cứ theo quan sát thực tế tại nhiều điểm lộ
khác nhau, hợp phần “cuội” chiếm khoảng 80% thể
tích đá, có thành phần rất khác nhau, bao gồm các loại
đá: trachyt, trachydacit, dacit, trachyandesit, [3].
- “Cuội” dacit đặc trưng bởi khoáng vật
plagioclas. Đá có màu xám nhạt sắc tím, kiến trúc
porphyr với ban tinh plagioclas bị biến đổi, gặm
mòn, hình trụ và tha hình, kích thước từ (0,3 × 0,9)
mm, (0,7 × 1,2) mm đến (1,2 × 3,5) mm, bị biến
đổi mạnh, nền fenzit (hình 1, 2). Ngoài ra, đá còn
chứa các hạt khoáng vật quặng, dưới kính hiển vi
thạch học các hạt đó có màu đen méo mó, phân bố
rải rác. Bằng mắt thường có thể quan sát thấy các
hạt hydroxit (hình 4) màu nâu đỏ dạng keo tạo
thành ổ hoặc lấp đầy khe nứt.
- “Cuội” trachyt đặc trưng bởi các khoáng
vật feldspar kali, plagioclas. Đá có màu xám sáng,
xám, kiến trúc porphyr. Ban tinh phân bố rải rác
hoặc tạo đám (tụ ban tinh), kích thước thay đổi từ
(0,15 × 0,2), (1,5 × 2,5) đến (2,3 × 3,5) mm. Thành
phần ban tinh gồm feldspar kali dạng tấm ngắn có
song tinh rất thanh nét, mặt bị sét hóa. Feldspar
kali bị sét hóa khá mạnh, tàn dư có kiến trúc song
tinh mạng lưới (microclin). Plagioclas bị sericit
hóa, sét hóa. Nền có kiến trúc trachyt gồm tập hợp
các vi tinh feldspar kéo dài sắp xếp lộn xộn, có
nhiều mạch thạch anh xuyên cắt (hình 3, 4). Ngoài
ra, đá còn chứa các hạt khoáng vật quặng, dưới
kính hiển vi thạch học, quặng có màu đen méo mó,
phân bố rải rác.
Hình 1. Mảnh “cuội” dacit khu vực đỉnh Vua, ban tinh plagioclas
bị gặm mòn, có nhiều ổ hydroxit lấp đầy. Nicol (+), d = 1,2mm
Hình 2. Mảnh “cuội” dacit khu vực đỉnh Vua, ban tinh plagioclas
bị gặm mòn. Nicol (+), d = 1,2mm
Hình 3. Mảnh “cuội” trachyt khu vực đỉnh Vua, ban tinh microclin,
plagioclas dạng tấm; nền là các tinh thể feldspar sắp xếp lộn xộn.
Nicol (+),d = 1,2mm
Hình 4. Mảnh “cuội” trachyt khu vực đỉnh Vua
với ban tinh microclin lớn. Nicol (+), d = 1,2mm
plg plg
mcr
plg
mcr
plg
206
Kết quả phân tích XRD đá trachyt (hình 5) cho
thấy thành phần khoáng vật bao gồm feldspar
(microclin, plagioclas), thạch anh và sericit. Kết
quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu lát mỏng
thạch học dưới kính hiển vi quang học. Mẫu có
thành phần các khoáng vật nhóm feldspar chiếm
chủ yếu.
Qua nghiên cứu lát mỏng thạch học dưới kính
hiển vi quang học và bằng phương pháp nhiễu xạ
rơnghen, thành phần của “cuội” trong tầng đá
nghiên cứu được xác định là trachyt, trachydacit,
dacit với các khoáng vật đặc trưng là feldspar
(microclin, plagioclas), thạch anh và một phần nhỏ
feldspar bị biến đổi tạo thành sericit.
Mẫu CH09
5 13 21 29 37 45 53
2-theta
3.
43
Å
Th
ạc
h
an
h
6.
47
Å
M
ic
ro
lin
10
.0
Å
Se
ric
it
4.
24
Å
Th
ạc
h
an
h
4.
02
Å
Al
bi
t
3.
69
Å
Fe
ld
sp
at
3.
83
Å
M
ic
ro
lin
3.
48
Å
M
ic
ro
lin
3.
24
Å
M
ic
ro
lin
3.
19
Å
A
lb
it
2.
96
Å
M
ic
ro
lin
2.
89
Å
M
ic
ro
lin
2.
16
Å
M
ic
ro
lin
1.
81
Å
Th
ạc
h
an
h
1.
80
Å
A
lb
it
2.
12
Å
Al
bi
t
3.
43
Å
Th
ạc
h
an
h
6.
47
Å
M
ic
ro
lin
10
.0
Å
Se
ric
it
4.
24
Å
Th
ạc
h
an
h
4.
02
Å
Al
bi
t
3.
69
Å
Fe
ld
sp
at
3.
83
Å
M
ic
ro
lin
3.
48
Å
M
ic
ro
lin
3.
24
Å
M
ic
ro
lin
3.
19
Å
A
lb
it
2.
96
Å
M
ic
ro
lin
2.
89
Å
M
ic
ro
lin
2.
16
Å
M
ic
ro
lin
1.
81
Å
Th
ạc
h
an
h
1.
80
Å
A
lb
it
2.
12
Å
Al
bi
t
Hình 5. Kết quả phân tích XRD cho thấy đá trachyt có thành phần khoáng vật chính gồm có
feldspar (microclin, plagioclas), thạch anh và sericit
4.2. Thành phần xi măng gắn kết
Gắn kết các mảnh “cuội” là tuf hạt vụn (cát kết
tuf, bột kết tuf, sạn kết tuf) chiếm khoảng 20% thể
tích đá. Tuf có màu xám phớt xanh, phong hoá
chuyển thành màu nâu - đỏ, xám nâu, thành phần
hạt vụn chủ yếu là vụn đá, vụn tinh thể, đôi khi có
thủy tinh núi lửa. Vụn đá gồm các loại trachyt,
dacit, thường có dạng tương đối đẳng thước, góc
cạnh, rìa méo mó, hoặc dạng kéo dài (0,8÷1,5
mm), có xu thế sắp xếp định hướng. Các mảnh vụn
tinh thể gồm plagioclas, feldspar kali, thạch anh, có
kích thước thay đổi, từ 0,2 đến 0,8mm và góc cạnh.
Mảnh vụn feldspar còn bảo tồn dạng tinh thể
không hoàn chỉnh. Nền xi măng gắn kết chủ yếu là
vật liệu núi lửa bị sericit hóa và calcit hoá mạnh
(hình 6, 7).
Hình 6. Mảnh vụn đá trachyt trong xi măng gắn kết khu vực mỏ pyrit
Minh Quang, các mảnh vụn méo mó, sắp xếp có định hướng, nền là
vật liệu núi lửa bị sericit, calcit hóa mạnh. Nicol (+), d = 1,2mm
Hình 7. Mảnh đá và mảnh khoáng vật dạng tấm kéo dài, nền bị
sericit, calcit hóa mạnh tại khu vực đỉnh Vua. Nicol (+), d = 1,2mm
mảnh đá
mảnh đá
plg
207
Kết quả phân tích XRD thành phần xi măng
gắn kết (hình 8) cho thấy thành phần khoáng vật
gồm có feldspar (microclin, plagioclas), thạch anh,
sericit và calcit. Các khoáng vật này cũng là các
khoáng vật đã được tìm thấy trong lát mỏng thạch
học. Mẫu có thành phần các khoáng vật nhóm
feldspar chiếm chủ yếu. Khoáng vật calcit không
thấy ở mẫu mảnh “cuội” đã được tìm thấy trong kết
quả phân tích XRD mẫu xi măng gắn kết. Điều này
cho thấy thành phần khoáng vật của xi măng gắn
kết có khác biệt chút ít so với thành phần khoáng
vật mảnh “cuội”, do bị biến đổi thứ sinh về sau.
5 13 21 29 37 45 53
2-theta
3.
43
Å
Th
ạc
h
an
h
10
.0
Å
Se
ric
it
4.
24
Å
Th
ạc
h
an
h
3.
69
Å
Fe
ld
sp
at
3.
48
Å
M
ic
ro
lin
3.
24
Å
M
ic
ro
lin
3.
19
Å
A
lb
it
2.
96
Å
M
ic
ro
lin
2.
89
Å
M
ic
ro
lin
2.
19
Å
C
al
ci
t
1.
81
Å
Th
ạc
h
an
h
2.
78
Å
Se
ric
it
2.
02
Å
C
al
ci
t
1.
99
Å
Se
ric
it
1.
79
Å
C
al
ci
t
Mẫu XH06
3.
43
Å
Th
ạc
h
an
h
10
.0
Å
Se
ric
it
4.
24
Å
Th
ạc
h
an
h
3.
69
Å
Fe
ld
sp
at
3.
48
Å
M
ic
ro
lin
3.
24
Å
M
ic
ro
lin
3.
19
Å
A
lb
it
2.
96
Å
M
ic
ro
lin
2.
89
Å
M
ic
ro
lin
2.
19
Å
C
al
ci
t
1.
81
Å
Th
ạc
h
an
h
2.
78
Å
Se
ric
it
2.
02
Å
C
al
ci
t
1.
99
Å
Se
ric
it
1.
79
Å
C
al
ci
t
Hình 8. Kết quả phân tích XRD (mẫu XH06), thành phần khoáng vật chính gồm feldspar (microclin, plagioclas),
thạch anh, sericit, và calcit
Qua nghiên cứu lát mỏng thạch học dưới kính
hiển vi quang học và bằng phương pháp nhiễu xạ
rơnghen, thành phần của xi măng gắn kết là tuf hạt
vụn với các khoáng vật đặc trưng bao gồm feldspar
(microclin, plagioclas) và thạch anh. Ngoài ra, còn
có khoáng vật sericit và calcit do bị biến đổi thứ
sinh về sau.
Từ kết quả phân tích lát mỏng thạch học và tài
liệu tham khảo, có thể thấy thành phần thạch học
của các “cuội” và xi măng gắn kết tương đồng với
nhau và tuyệt đại đa số có nguồn gốc magma.
“Cuội” cấu tạo chủ yếu từ các đá phun trào trachyt,
trachydacit, dacit, trachyandesit có kiến trúc
porphyr nền fenzit, trachyt. Xi măng gắn kết chủ
yếu là tuf hạt vụn bao gồm cát kết tuf, bột kết tuf,
sạn kết tuf, chiếm khoảng 20% thể tích của đá. Hạt
vụn của xi măng chủ yếu là vụn đá, ít hơn là vụn
tinh thể và đôi khi có thủy tinh núi lửa. Vụn đá là
trachyryolit, trachyt, dacit. Các mảnh vụn tinh thể là
của plagioclas, feldspar kali, thạch anh. Nền chủ yếu
là vật liệu núi lửa bị sericit hóa và calcit hoá mạnh.
5. Thảo luận
Cho đến nay còn có nhiều ý kiến khác nhau về
nguồn gốc và tên gọi của tầng “cuội kết” trên đỉnh
Ba Vì. Có tác giả coi đây là tập tuf aglomerat xuất
hiện ở phần cao nhất của hệ tầng Viên Nam [3, 6].
Bên cạnh đó, có tác giả cho rằng đây là một tập
cuội kết núi lửa (volcanic conglomerate), được
hình thành vào giai đoạn hậu phun trào, xen giữa
các đợt hoạt động của núi lửa.
Theo phân loại của tiểu ban về hệ thống hóa
các đá magma, Liên hiệp Khoa học địa chất Quốc
tế (2002), thì tầng đá sẽ là aglomerat nếu thành
phần vụn núi lửa (pyroclastic) chiếm từ 75 đến
100% [4]. Điểm quan trọng để một thành tạo được
gọi là aglomerat là các phần hạt thô (cuội, tảng)
phải được thành tạo do quá trình phun nổ của núi
lửa. Trong khi đó, một thành tạo được gọi là cuội
kết (conglomerat) nếu thành phần vật liệu biểu sinh
(epiclast) chiếm chủ yếu, hay nói cách khác, cuội
kết là một thành tạo trầm tích, có các viên cuội là
sản phẩm phong hóa các đá ban đầu được tích
đọng và được xi măng gắn kết lại.
Về mặt thạch học, aglomerat và cuội kết đều có
thể có các mảnh cuội có thành phần là các đá
magma phun trào trachyt, dacit, trachydacit,
trachyandesit. Với aglomerat thì các mảnh vụn có
nguồn gốc phụn nổ, dung nham khi được tung lên
không trung gặp lạnh đông cứng rồi rơi xuống dưới
dạng vật thể rắn hoặc gần rắn, được gọi là bom núi
lửa. Chúng rơi xuống quanh khu vực nón núi lửa,
có thể được chuyển trong cự ly ngắn cùng dòng
dung nham trên mặt đất, rồi tích tụ lại, không trải
qua sự biến đổi ngoại sinh đáng kể. Còn với cuội
kết - các viên cuội hình thành do đá phun trào bị vỡ
vụn, bị mài mòn trong quá trình di chuyển đến nơi
tích tụ.
208
Về mặt hình thái, “cuội” của tầng aglomerat và
cuội kết đều có thể có hình dạng cầu, bầu dục. Đối
với aglomerat, do hình thành bằng phương thức
phun nổ, dung nham còn nóng dẻo có thể xoay tròn
trong không khí rồi đông cứng, tạo các khối có dạng
cầu, dạng bầu dục, “dạng quả soài”. Tuy nhiên, tầng
aglomerat thường có các viên “cuội” với kích thước,
độ tròn khác nhau do trong quá trình thành tạo, động
lực phun nổ không giống nhau ở tâm núi lửa và
vùng rìa, nên khó có thể tạo được tầng “cuội” đồng
nhất về hình dạng, kích thước.
Vì thế, nếu chỉ đơn thuần dựa vào thành phần
thạch học và hình thái “cuội”, chưa thể kết luận
tầng “cuội kết” trên đỉnh Ba Vì là aglomerat hay
cuội kết. Tuy nhiên, khi nghiên cứu kĩ hơn về hình
thái và cấu tạo “cuội” trong tầng “cuội kết” trên
đỉnh Ba Vì có thể thấy:
- Trong tầng đá này hợp phần xi măng gắn kết
chủ yếu là đá phun trào hoặc tuf hạt vụn. Do vậy,
tên của tầng đá sẽ được xác định khi xác định được
nguồn gốc các viên “cuội”.
- Thành phần thạch học của “cuội” và xi măng
gắn kết tương đồng nhau, là trachyt, dacit. Đây là
thành tạo magma phun trào tương đương với phun
trào thuộc hệ tầng Viên Nam (P3 vn) trong vùng
nghiên cứu. Các viên “cuội” có kích thước khác
nhau, độ chọn lọc kém (hình 9). Điểm đặc biệt là có
thể tìm thấy các viên “cuội” bị biến dạng do quá
trình nén ép, tạo đá. Điều này chứng tỏ khi đó chúng
vẫn còn chưa đông cứng hoàn toàn (hình 10). Cuội
kết hình thành trong quá trình trầm tích không thể có
đặc điểm này. Trong quá trình nén ép thành đá, nếu
trong tầng cuội kết có các viên cuội kích thước khác
nhau thì trong khoảng trống giữa các viên cuội lớn
thường có các viên cuội nhỏ hơn hoặc xi măng gắn
kết lấp đầy, còn bản thân cuội thì không bị biến đổi
dạng. Trong các tảng lăn của tầng “dạng cuội kết” từ
đỉnh Ba Vì xuống khu vực xã Minh Quang cũng
chứa nhiều viên “cuội” bị biến dạng do nén ép trong
quá trình tạo đá (hình 11).
Hình 9. Tầng “cuội” kết núi lửa trên đỉnh Tản Viên,
“cuội” có kích thước lớn, độ chọn lọc kém
Hình 10. Tầng “cuội kết” ở khu vực đỉnh Vua, nhiều viên “cuội”
bị biến dạng do quá trình nén ép khi vẫn còn nóng dẻo,
có sự sắp xếp định hướng theo dòng chảy
Hình 11. Trong các tảng lăn của tầng “cuội kết” từ đỉnh Ba Vì xuống khu vực xã Minh Quang
cũng chứa nhiều viên “cuội” bị biến dạng trong quá trình tạo đá, bị nén ép
209
Vì những lý do nêu trên có thể kết luận thành
phần “cuội” trong tầng “cuội kết” trên đỉnh Ba Vì
chủ yếu là bom núi lửa, trong quá trình tích tụ
chúng có thể đã bị dịch chuyển trong cự ly ngắn để
có cấu tạo định hướng.
Một số có ý kiến cho rằng tầng “cuội kết” này
là cuội kết (conglomerat) với thành phần cuội chủ
yếu là cuội biểu sinh, tuy nhiên điều đó không có
sức thuyết phục vì:
- Trong đại diện hầu như tất cả các phần của
tầng “cuội kết” này đều tìm thấy những viên “cuội”
bị biến dạng dẻo do nén ép trong quá trình
thành tạo.
- Trong thành phần “cuội” rất hiếm các hạt cuội
đơn khoáng, cuội có thành phần khác biệt với các
đá magma phun trào của hệ tầng Viên Nam.
- Nhiều chỗ thấy cuội sắp xếp định hướng,
giống như định hướng theo dòng chảy nước, nhưng
thực chất là định hướng theo dòng chảy dung
nham. Và ngay bom núi lửa trong quá trình thành
tạo tầng aglomerat cũng có thể bị dịch chuyển
trong cự ly ngắn.
Dựa vào đặc điểm của các mảnh vụn đã được
chứng minh ở trên và theo phân loại của tiểu ban
Phân loại học các đá magma - Liên hiệp Khoa học
Địa chất Quốc tế (2002) [4], có thể kết luận: Tầng
“cuội kết” trên đỉnh Ba Vì là tầng aglomerat. Tầng
aglomerat này hình thành do sự phun nổ của núi
lửa trong quá trình hình thành hệ tầng Viên Nam
(P3 vn).
Tầng aglomerat với các viên “cuội” có hình
dáng tương tự đã được quan sát thấy ở Thổ Nhĩ Kỳ
và ở Mỹ (hình 12).
Hình 12. Tầng aglomerat ở miệng núi lửa Bandera, xứ Cibola
County, phía bắc New Mexico, (Hoa Kỳ)
Tầng aglomerat tương tự ở khu vực đỉnh Ba Vì
còn có thể gặp tại mặt cắt chuẩn của hệ tầng Viên
Nam tại núi Viên Nam, huyện Ba Vì, Hà Nội [5]. Bên
trên tầng aglomerat này tiếp tục còn có các tập đá
phun trào khác của hệ tầng Viên Nam phủ lên.
Về cơ bản tầng aglomerat trên đỉnh Ba Vì khác
biệt với tầng cuội kết tuf gặp ở các mức khác nhau
thuộc phần thấp của hệ tầng Cò Nòi (T1 cn). Vết lộ
gần nhất của tầng cuội kết tuf này nằm cách ngã ba
Hòa Lạc 500m về phía nam. Tại đây, tầng cuối kết
nằm xen trong đá trầm tích lục nguyên của hệ tầng
Cò Nòi, có thành phần chủ yếu cũng là cuội của hệ
tầng Viên Nam, nhưng xi măng gắn kết là đá trầm
tích chứa tuf hoặc không chứa tuf. Đặc biệt, đây là
tầng cuội kết gian tầng, xen lớp với các đá trầm
tích, chứ không phải cuội kết đáy của hệ tầng Cò
Nòi (hình 13). Trong khi đó, tầng cuội kết ở đỉnh
Ba Vì có ranh giới rõ nét với tầng đá phun trào của
chính hệ tầng Viên Nam (hình 14).
Hình 13. Tầng cuội kết tuf ở phần thấp hệ tầng Cò Nòi (T1 cn),
xen lớp với các lớp đá cát-bột kết. Vết lộ BV 6, cách ngã ba Hòa
Lạc 500m về phía nam
Hình 14. Ranh giới rõ nét giữa tầng “cuội kết” ở đỉnh Tản Viên với
tầng đá phun trào không chứa “cuội” của hệ tầng Viên Nam
“cuội”
xi măng
210
6. Kết luận
Kết quả phân tích đặc điểm và thành phần thạch
học, khoáng vật của các viên “cuội” và xi măng
gắn kết cho phép kết luận tầng “cuội kết” trên các
đỉnh núi Ba Vì là thành tạo aglomerat tuf, với các
đặc điểm như sau:
- Bom núi lửa có kích thước từ 0,5 đến 25cm ×
60 cm, chiếm trên 75% hợp phần của đá; các viên
lớn thường có dạng bầu dục, nhiều viên bị nén ép,
kéo dài, sắp xếp định hướng rõ rệt trong quá trình
di chuyển và tạo thành tầng aglomerat tuf này.
- Thành phần thạch học và khoáng vật của bom
núi lửa và xi măng gắn kết tương tự nhau (đều là
các đá phun trào có thành phần trachyt, dacit), rất ít
lẫn các phần tử ngoại lai.
Trong tên gọi “aglomerat tuf” có thêm chữ tuf
vì thành phần xi măng gắn kết cũng có nguồn gốc
núi lửa, là đá của chính hệ tầng Viên Nam.
Lời cảm ơn: Bài báo hoàn thành trong khuôn
khổ các đề tài QGTĐ.11.05, QG-12-05 và TN-12-
41. Các tác giả xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Trần Trọng Hòa, 2001: Phân chia và đối
sánh các tổ hợp bazantoid Permi - Trias đới Sông
Đà. Tạp chí địa chất, A/265, tr.12-19.
[2] Hoàng Ngọc Kỷ (chủ biên), 1973: Bản đồ địa
chất tờ Hà Nội tỷ lệ 1:200.000. Tổng cục Địa chất,
Hà Nội.
[3] Nguyễn Đắc Lư (chủ biên), 2004: Báo cáo
nghiên cứu mối liên quan giữa các đá núi lửa vùng
sông Đà, Viên Nam với khoáng hóa đồng vàng.
Viện thông tin lưu trữ Địa chất, Hà Nội.
[4] Maitre, R. W., 2002: Igneous rocks a
classification and glossary of terms:
recommendations of the International Union of
Geological Sciences, Subcommission on the
Systematics of Igneous Rocks, Cambridge, U.K.
[5] Tống Duy Thanh, Vũ Khúc, 2005: Các phân
vị địa tầng Việt Nam. Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, 504 tr.
[6] Nguyễn Đức Thắng, Phạm Văn Mẫn, Đinh
Công Hùng, 1994: Các thành tạo phun trào tuổi
Trias sớm hệ tầng Viên Nam và khoáng sản liên
quan với chúng. TC Bản đồ địa chất số chào mừng
35 năm chuyên ngành BĐĐC (1989-1994). Liên
Đoàn Bản đồ Địa chất, tr.168-185.
[7] Trần Văn Trị, Vũ Khúc (đồng chủ biên),
2009: Địa chất và tài Nguyên Việt Nam, Nxb.
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội. 592 tr.
SUMMARY
Origin and name of “conglomerate” formation on the top of the Ba Vi moutain
There is a bed rock containing a lot of coarses with elliptical and rugby shape on the highest part of the moutain
ridges within BaVi range (Vua and Tan Vien ridge). This formation covers igneous rocks of the Vien Nam formation.
Currently, there are some opinions about origin of the formation. Some opinions suggest that it was formed by
sedimentary process while others suggest that it was formed by volcanic eruption. Results from optical microscopy
analysis show that almost samples from both coarses and cements occur as intermediate volcanic rocks including
trachyte, dacite and trachydacite. In addition, shape of many coarses shows that they had undergone a plastic
deformation process when they were still hot and not cool completely. From these studies, it can be concluded that the
coarses are mainly volcanic bombs formed by volcanic eruption. Therefore, this bedrock is an aglomerate formation and
it was formed in the eruption forming the Vien Nam formation (P3 vn).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3680_12601_1_pb_2665_2107966.pdf