9 Phỏng vấn chủ doanh nghiệp nhà thùng nƣớc mắm Kim Hoa, chủ doanh nghiệp sản xuất
nhuyễn thể Kim Liên ngày 15/06/2006.
10 Phỏng vấn phó phòng hành chánh, công ty du lịch Sài Gòn – Phú Quốc. Đồi với nhân
viên quản lí cao cấp công ty tuyển dụng về thƣờng đƣợc đi tu nghiệp tại Singapore từ 3
tháng đến một năm.
11 Phỏng vấn chị Mai, trƣởng phòng Xúc tiến Thƣơng mại, Sở Du lịch Tỉnh Kiên Giang,
tháng 6/2006. Chị Mai cùng một nhân viên chuyên trách phát triển du lịch và quảng bá sản
phẩm du lịch đều tốt nghiệp ngành báo chí, bản thân chị Mai cũng đã làm việc trong ngành
báo chí một thời gian. Hai nhân viên còn lại cũng không đƣợc đào tạo chuyên ngành dulịch. Mặc dù các thành viên đều nỗ lực hết mình ttrong công việc nhƣng vẫn ở mức độ
nghiên cứu, vừa học vừa làm.
12 Phỏng vấn ông Khanh, trƣởng phòng Xúc tiến Thƣơng mại, UBND xã An Thới Đông,
Phú Quốc, 6/2006.
13 Phỏng vấn chị Hồ Bạch Điệp - hộ kinh doanh khu du lịch Gió Biển, Gành Dầu ngày
16/06/2006. Theo chị Điệp, thỉnh thoảng anh Khanh mới ghé qua một lần trong năm và
cũng chỉ kiểm tra thuế kinh doanh và các loại phí khác, hoặc chỉ là những đợt kiểm tra
ngắn.
14 Cổng du lịch, 2009. Khách du lịch đến Kiên Giang tăng mạnh. Theo Thông tấn xã Việt
Nam, 3/3/2009.
15 16 Báo cáo sơ kết công tác phát triển du lịch 2 năm ( 2006 – 2007) theo Nghị quyết 02-
NQ/TU của Tỉnh uỷ Kiên Giang. UBND tỉnh Kiên Giang (2007).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 671 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn nhân lực cho việc phát triển du lịch tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 - Thaùng 2/2012 
NGUỒN NHÂN LỰC CHO VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH 
TẠI HUYỆN ĐẢO PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG 
NGUYỄN HỮU SƠN (*) 
TÓM TẮT 
Năm 2004, Phú Quốc được định hướng phát triển thành Trung tâm Du lịch sinh thái 
tiêu chuẩn quốc tế. Vì thế, Phú Quốc cần có đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp phục vụ trong 
lĩnh vực du lịch. Trong khi đó, lực lượng lao động hiện tại còn rất mỏng và yếu, nhân viên 
có trình độ phần lớn được tuyển dụng từ các tỉnh, thành khác. Ngay cả nhân viên nghiệp 
vụ địa phương cũng không đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng. Việc phân tích hiện trạng 
nguồn nhân lực trong phát triển du lịch nơi đây cho thấy những hạn chế về số lượng, năng 
lực, trình độ chuyên môn, trình độ quản lí cũng như những hạn chế trong công tác đào tạo. 
Từ đó, chúng ta có thể khẳng định việc đào tạo một đội ngũ lao động chuyên môn là rất 
quan trọng và cần thiết, đặc biệt, lao động tại chỗ chính là nguồn lao động ổn định và bền 
vững cho địa phương. 
ABSTRACT 
In 2004, Phu Quoc was oriented to be developed into the Eco-tourism Center of 
international standards. Thus, Phu Quoc needs professional human resource to serve in 
the field of tourism. Meanwhile, the current workforce is not sufficient and qualified; most 
of qualified employees have been recruited from other provinces. Even local professionals 
are not qualified for the recruitment needs. An analysis of the current state of human 
resource in tourism development here shows limitations on the quantity, capacity, and 
level of management as well as on training. Therefore, we can affirm that the training of a 
professional workforce is very important and necessary; especially, the local workforce is 
stable and sustainable for the local area. 
ĐẶT VẤN ĐỀ(*) 
Phú Quốc là đảo lớn nhất Việt Nam, 
nằm trong Vịnh Thái Lan, thuộc tỉnh Kiên 
Giang. Huyện đảo Phú Quốc gồm 36 đảo 
lớn nhỏ. Trong đó, đảo Phú Quốc là đảo 
lớn nhất với diện tích 573 km2, dài 50 km, 
nơi rộng nhất (ở phía bắc đảo) 25 km. Phú 
Quốc đƣợc mệnh danh là đảo ngọc bởi sự 
giàu có do thiên nhiên ban tặng một hệ sinh 
thái và tiềm năng du lịch phong phú. 
Quanh đảo có nhiều bãi tắm đẹp với cảnh 
quan thiên nhiên và những khu rừng hoang 
(*)
 CN, Trƣờng Đại học Sài Gòn 
sơ đầy bí ẩn 1. 
Từ tiềm năng này, ngày 5 tháng 10 
năm 2004, Thủ tƣớng Chính phủ đã kí 
Quyết định 178/2004/QĐ-TTg về “Đề án 
phát triển tổng thể đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên 
Giang đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 
2020” 2. Hội nghị triển khai Quyết định 
trên đƣợc tổ chức vào tháng 10 năm 2006. 
Ngày 08 tháng 01 năm 2007, Thủ tƣớng 
Chính phủ kí Quyết định số 01/2007/QĐ- 
TTg về Quy hoạch tổng thể phát triển du 
lịch đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang thời kì 
2006-2020, định hƣớng tiếp tục duy trì tầm 
nhìn chiến lƣợc về phát triển du lịch, ƣu 
NGUỒN NHÂN LỰC CHO VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI HUYỆN ĐẢO PHÚ QUỐC, TỈNH 
KIÊN GIANG 
tiên cho Phú Quốc phát triển kinh tế - xã 
hội bền vững gắn với giữ gìn cảnh quan và 
môi trƣờng sinh thái; tập trung xây dựng 
đảo Phú Quốc thành trung tâm du lịch, 
nghỉ dƣỡng, giao thƣơng quốc tế, hiện đại 
của vùng đồng bằng sông Cửu Long; từng 
bƣớc hình thành một trung tâm du lịch tầm 
cỡ khu vực, quốc tế với chất lƣợng cao 
theo quy hoạch. Phú Quốc đƣợc áp dụng 
các cơ chế, chính sách ƣu đãi cao nhất mà 
Nhà nƣớc ban hành về đầu tƣ nƣớc ngoài, 
đầu tƣ trong nƣớc, khu kinh tế thƣơng mại 
tự do, khu kinh tế mở. 
Trên cơ sở đó, nhiều nhà đầu tƣ đã đến 
Phú Quốc với các dự án phát triển du lịch 
đã đƣợc duyệt 3. Do đó, nhu cầu về nguồn 
nhân lực, đặc biệt là nhân lực có trình độ 
cao hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên 
đảo là vấn đề cấp bách. 
Nhân lực là một trong những nguồn 
lực không thể thiếu trong phát triển kinh tế 
- xã hội. Phát triển du lịch luôn có nhu cầu 
lâu dài và liên tục về lao động có trình độ 
nhất định về kĩ năng nghiệp vụ. Để có một 
Phú Quốc phát triển du lịch bền vững trong 
tƣơng lai, việc dự báo và đƣa ra các giải 
pháp về nguồn lao động này là cần thiết. 
1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÀI 
NGUYÊN THIÊN NHIÊN Ở PHÚ 
QUỐC 
Ngày nay, du lịch đến các vùng biển 
đảo đang là xu thế chung của khách du 
lịch. Phú Quốc nằm cách vùng phát triển 
công nghiệp và du lịch Thái Lan khoảng 
500 km, cách Malaysia khoảng 700 km, 
cách Singapore khoảng 1.000 km và gần 
cửa ngõ Tây Nam của Campuchia. Từ Phú 
Quốc, chỉ hai giờ bay, khách có thể đến thủ 
đô của các quốc gia Đông Nam Á. Phú 
Quốc có khả năng tiếp nhận khối lƣợng lớn 
khách quốc tế. Hàng năm, đảo Phú Quốc 
đã đón trên 150.000 lƣợt khách du lịch, 
trong đó gần 50.000 khách quốc tế4. 
Vì vậy Phú Quốc có nhiều tiềm năng 
cho phát triển du lịch. Với nguồn tài 
nguyên tự nhiên, Phú Quốc có thể phát 
triển các loại hình du lịch nhƣ du lịch sinh 
thái, du lịch thể thao, du lịch biển và các 
hoạt động khám phá thiên nhiên. Phú Quốc 
cũng có thể phát triển các loại hình du lịch 
văn hoá, lễ hội mang đậm nét địa phƣơng. 
Phú Quốc có 24 di tích văn hoá lịch sử, 
trong đó có khu di tích nhà lao Cây Dừa 
đƣợc công nhận là khu di tích cấp Quốc 
gia, và 02 khu di tích đƣợc công nhận là 
di tích cấp Tỉnh gồm Đình Thần Dƣơng 
Đông và Sùng Hƣng Cổ tự. Ngoài ra, Phú 
Quốc còn những khu di tích khác, gắn với 
một sự kiện lịch sử đáng tự hào của ngƣời 
dân đảo5. 
Với đặc điểm tài nguyên thiên nhiên 
đƣợc ƣu đãi nhƣ trên, Phú Quốc hiện có rất 
nhiều doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc 
ngoài quan tâm đầu tƣ. Theo Trung tâm 
xúc tiến thƣơng mại Huyện, hiện có 104 dự 
án tham gia đầu tƣ vào phát triển du lịch 
trong giai đoạn 2006-20106. Trong đó, hầu 
hết là các doanh nghiệp đến từ Thành phố 
Hồ Chí Minh, từ các tỉnh, thành khác và từ 
nƣớc ngoài. Theo Thông tấn xã Việt Nam, 
Phú Quốc có 170 dự án tham gia đầu tƣ, 
trong đó có 60 nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, chủ 
yếu hoạt động du lịch. Hiện đã có 12 dự án 
đƣợc thực hiện7. Bên cạnh đó, các doanh 
nghiệp địa phƣơng với nhiều hình thức sản 
xuất kinh doanh khác nhau cũng tham gia 
kết hợp vào hoạt động du lịch. Phần lớn 
các doanh nghiệp có khả năng đều khởi sự 
từ các loại hình sản xuất truyền thống, các 
nhà thùng nƣớc mắm có khả năng kinh 
doanh trong lĩnh vực du lịch, các doanh 
nghiệp sản xuất rƣợu sim, các nhà vƣờn, 
NGUYỄN HỮU SƠN 
các hộ sản xuất và kinh doanh nhuyễn thể, 
v.v. Một thuận lợi lớn cho các doanh 
nghiệp địa phƣơng là họ có thể kết hợp 
kinh doanh nhà hàng, khách sạn và các loại 
hình du lịch khác cùng với việc giới thiệu 
quy trình sản xuất chế biến và các ngành 
nghề truyền thống, v.v. Đặc thù về vị trí 
địa lí giúp nơi đây tạo ra những sản phẩm 
đặc biệt. Đó cũng là nét riêng biệt để thu 
hút du khách đến với Phú Quốc. 
Với lƣợng khách du lịch và nguồn đầu 
tƣ phát triển du lịch tăng nhƣ trên, trong 
tƣơng lai, Phú Quốc cần nguồn nhân lực 
lớn có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ 
để vận hành nền du lịch địa phƣơng. 
2. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH NGUỒN 
NHÂN LỰC NGÀNH DU LỊCH TẠI 
PHÚ QUỐC 
Vấn đề không thuận lợi cho phát triển 
du lịch tại Phú Quốc là nguồn nhân lực địa 
phƣơng có trình độ và tay nghề về các kĩ 
năng, nghiệp vụ còn yếu và thiếu. Do đó, 
nhiều doanh nghiệp du lịch gặp khó khăn 
về tuyển dụng, đặc biệt là trong sử dụng 
lao động địa phƣơng. Lao động địa phƣơng 
chƣa đủ khả năng tiếp nhận công việc theo 
các yêu cầu về chuẩn nghiệp vụ, kĩ năng 
mà Tổng cục Du lịch đề ra. Trong khi đó, 
mức lƣơng tối thiểu để trả cho một lao 
động địa phƣơng là tƣơng đối cao so với 
năng lực và trình độ thực tế của họ8. Thậm 
chí là sau khi đƣợc tuyển dụng và đƣợc đào 
tạo, nhân viên địa phƣơng cũng không đủ 
năng lực để tiếp nhận kiến thức đƣợc đào 
tạo9. Trƣớc tình hình đó, các doanh nghiệp 
phải tìm kiếm và tuyển dụng nhân viên từ 
các tỉnh, thành phố, đặc biệt là những nhân 
viên quản lí cấp cao. Đôi khi những nhân 
viên này sau khi tuyển dụng vẫn chƣa đủ 
khả năng quản lí theo chuẩn khu vực và 
quốc tế, nên doanh nghiệp phải đƣa đi tu 
nghiệp ở nƣớc ngoài một thời gian (thƣờng 
từ 3 – 6 tháng, hoặc một năm) thì họ mới 
có thể làm việc đƣợc10. Tuy nhiên, một vấn 
đề rất dễ xảy ra và gây khó khăn cho doanh 
nghiệp tuyển dụng tại đây là sau khi đi tu 
nghiệp về, các nhân viên này thƣờng tìm 
kiếm những công việc với mức lƣơng cao 
hơn, thƣờng ở những công ty du lịch có 
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. 
Lực lƣợng quản lí du lịch địa phƣơng 
cũng còn mỏng. Năm 2005, Sở Du lịch tỉnh 
Kiên Giang đƣợc thành lập từ việc tách ra 
từ Sở Thƣơng mại Tỉnh ; Trung tâm Xúc 
tiến Thƣơng mại đƣợc thành lập với 4 cán 
bộ còn thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực 
tiếp thị và quảng bá sản phẩm11. Đến năm 
2007, các đơn vị Sở Du lịch, Sở Văn hóa – 
Thông tin và Sở Thể dục Thể thao đƣợc sát 
nhập thành Sở Văn hóa – Thể thao và Du 
lịch. Trung tâm xúc tiến thƣơng mại vẫn 
giữ nguyên nhƣng dƣới sự quản lí của Sở 
Công thƣơng. Đội ngũ này có tăng lên về 
số lƣợng nhƣng không chỉ phải theo dõi 
hoạt động của du lịch mà còn phải theo dõi 
các hoạt động thƣơng mại, đầu tƣ phát triển 
của Tỉnh. Để thực hiện các chƣơng trình 
xúc tiến du lịch tại Phú Quốc, Trung tâm 
phải thu thập thông tin từ các đơn vị kinh 
doanh du lịch. Do không đủ nhân lực, 
Trung tâm chỉ có thể gửi các phiếu thăm dò 
cho cả doanh nghiệp và khách du lịch. Với 
cách thức này, thông tin sẽ không đầy đủ 
và thiếu chính xác. Tại Phú Quốc, gần nhƣ 
không có nhân viên chuyên trách trong lĩnh 
vực du lịch. Phòng Xúc tiến thƣơng mại tại 
đây chỉ có 2, 3 nhân viên nhƣng phải quản 
lí mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, và 
thƣơng mại của địa phƣơng12. Do đó, việc 
theo dõi tiến độ phát triển du lịch rất lỏng 
lẻo và hạn chế13. Theo thông tin từ Cổng 
du lịch, Thông tấn xã Việt Nam, ngành du 
lịch địa phƣơng đang phải đối mặt với 
nhiều khó khăn. Ngoài cơ sở hạ tầng, 
NGUỒN NHÂN LỰC CHO VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI HUYỆN ĐẢO PHÚ QUỐC, TỈNH 
KIÊN GIANG 
phƣơng tiện đi lại, hệ thống lƣu trú, ẩm 
thực, nơi vui chơi giải trí, còn thiếu và 
chƣa đồng bộ, khó khăn nhất hiện nay vẫn 
là khâu nhân sự ngành du lịch vừa thiếu 
vừa không mang tính chuyên nghiệp14. 
Tỉnh Kiên Giang cũng có các cơ sở 
đào tạo nhân lực cho ngành du lịch nhƣ 
Trung tâm xúc tiến việc làm của tỉnh, 
trƣờng Trung cấp Kinh tế - Kĩ thuật tỉnh. 
Các cơ sở này đã tổ chức những khoá đào 
tạo trung cấp, đào tạo nghiệp vụ, kĩ năng 
cho các ngành bộ phận phục vụ nhà hàng, 
khách sạn. Nhƣng sau khi tốt nghiệp, các 
học viên không phục vụ trong lĩnh vực du 
lịch vì không xin đƣợc việc do cơ sở du 
lịch không nhận hoặc năng lực chuyên môn 
nghiệp vụ không đáp ứng đƣợc yêu cầu 
thực tế chuẩn của doanh nghiệp. Một 
nguyên nhân nữa là các chƣơng trình đào 
tạo còn thiếu định hƣớng dựa trên cơ sở 
yêu cầu chung về phát triển du lịch của 
Tỉnh15, đặc biệt là nhu cầu thực tiễn các 
loại hình nghiệp vụ, kĩ năng từ các đơn vị 
du lịch cần. Từ năm 2006 đến nay, Trung 
tâm Dạy nghề và Trung tâm Xúc tiến 
Thƣơng mại và Du lịch Phú Quốc đã tổ 
chức các lớp lễ tân, hƣớng dẫn viên du 
lịch, phục vụ buồng, phục vụ bàn nhà hàng 
cho lao động địa phƣơng16. Tuy nhiên, đội 
ngũ này còn rất mỏng và chƣa đủ đáp ứng 
cho nhu cầu của tốc độ phát triển du lịch 
địa phƣơng. 
Theo dự báo về sự phát triển cơ sở du 
lịch với nhu cầu về nguồn nhân lực của du 
lịch Phú Quốc là: 
- Về cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch: 
Năm 2010 có khoảng 3.500 buồng lƣu 
trú (trong đó số phòng đạt tiêu chuẩn từ 3 - 
5 sao chiếm khoảng 30 - 35%), năm 2015 
là 8.200 buồng lƣu trú (trong đó số phòng 
đạt tiêu chuẩn từ 3 - 5 sao chiếm khoảng 55 
- 60%) và 18.000 buồng lƣu trú vào năm 
2020 (trong đó số phòng đạt tiêu chuẩn từ 
3 - 5 sao chiếm khoảng 60 - 70% ). 
- Về lao động và việc làm: 
Năm 2010 có khoảng 7.000 lao động 
trực tiếp và 15.400 lao động gián tiếp trong 
ngành du lịch, số lao động tƣơng ứng cho 
năm 2015 là 16.400 và 36.100 và năm 
2020 là 36.000 và 79.200. 
(Nguồn: Quyết định số 01/2007/QĐ- 
TTg ngày 08 tháng 01 năm 2007 của Thủ 
tướng Chính phủ về Quy hoạch tổng thể 
phát triển du lịch đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên 
Giang thời kì 2006-2020) 
3. MỘT SỐ CHỦ TRƢƠNG VÀ GIẢI 
PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN NGUỒN 
NHÂN LỰC CHO NGÀNH DU 
LỊCH HIỆN NAY Ở PHÚ QUỐC 
Đề đào tạo nguồn nhân lực cho tƣơng 
lai, cần có những cơ sở đào tạo chuyên 
nghiệp và đạt chuẩn về du lịch của khu vực 
và thế giới, nhất là khi Phú Quốc đã đƣợc 
định hƣớng trở thành Trung tâm du lịch 
sinh thái đạt tiêu chuẩn quốc tế. Các ngành 
nghề đào tạo, ngoài những nghiệp vụ cơ 
bản trong ngành du lịch, cần cụ thể và phù 
hợp với điều kiện và nhu cầu phát triển của 
địa phƣơng vốn là một vùng du lịch sinh 
thái đảo. Trong tình hình cơ sở đào tạo và 
đội ngũ giảng dạy của Tỉnh và địa phƣơng 
còn mỏng nhƣ hiện nay, việc liên kết hợp 
tác đào tạo với những đơn vị đào tạo 
chuyên nghiệp, có kinh nghiệm là phù hợp: 
- Đối với cấp đào tạo nhân viên phục vụ, 
nghiệp vụ, có thể liên kết với các trƣờng 
dạy nghề, hoặc các trƣờng nghiệp vụ du 
lịch trong nƣớc có uy tín ở các thành phố 
lớn nhƣ Thành phố Hồ Chí Minh. 
- Đối với cấp đào tạo quản lí kinh doanh 
và quản lí hành chính, có thể liên kết với 
các trƣờng đại học, các viện nghiên cứu, 
NGUYỄN HỮU SƠN 
hoặc các sở, ngành liên quan trong và 
ngoài nƣớc. 
- Đặc biệt, là một điểm du lịch sinh thái, 
Phú Quốc cần có một đội ngũ chuyên 
trách về môi trƣờng và bảo vệ sinh thái. 
Trong lĩnh vực đào tạo này, Phú Quốc có 
thể học tập kinh nghiệm từ các quốc gia 
hoặc các địa phƣơng có sự quản lí tốt về 
môi trƣờng trong phát triển du lịch nhƣ 
Singapore, Malaysia. 
Bên cạnh đó cần có những giải pháp 
mạnh mẽ cùng với sự quy hoạch từng bƣớc 
nhằm hƣớng tới phát triển bền vững nguồn 
nhân lực cho du lịch với hƣớng xác định 
trọng tâm trƣớc mắt là hệ thống các kĩ 
năng nghiệp vụ du lịch, quản trị điều hành 
và giao tiếp sử dụng ngoại ngữ (tiếng Anh 
và một số nước như Pháp, Nhật). Điều 
này hoàn toàn không dễ dàng nhƣng cần 
phải tích cực thực hiện: 
- Phối hợp với các trƣờng nghiệp vụ du 
lịch chuyên nghiệp tại thành phố Hồ Chí 
Minh thực hiện việc đào tạo huấn luyện 
đội ngũ nhân viên có kĩ năng nghiệp vụ 
tốt ở tất cả các bộ phận: lễ tân, phục vụ 
phòng, phục vụ nhà hàng, bar, chú 
trọng đến kĩ năng giao tiếp, ứng xử và sử 
dụng ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) 
giao tiếp cơ bản. 
- Để làm đƣợc điều này, không chỉ từ phía 
doanh nghiệp, mà ngay cả cơ quan quản 
lí Nhà nƣớc về du lịch ở địa phƣơng cần 
dựa trên thang chuẩn quy định của Tổng 
cục du lịch để thƣờng xuyên kiểm tra, 
giám sát các mức độ đạt chuẩn của doanh 
nghiệp nhằm tăng tính chuyên nghiệp và 
khả năng cạnh tranh, tạo ra hiệu quả phát 
triển kinh doanh trong du lịch. 
- Từng bƣớc xây dựng, hình thành bộ phận 
chuyên trách về công tác huấn luyện, đào 
tạo và phát triển trong các doanh nghiệp 
du lịch để có thể duy trì, đảm bảo đƣợc 
chuẩn chất lƣợng của nhân viên. Việc 
làm này là vô cùng cần thiết và quan 
trọng nhằm giảm bớt các gánh nặng về 
chi phí cho công tác đào tạo nguồn lực từ 
xa, mà thực hiện việc tự đào tạo và tự bồi 
dƣỡng để khắc phục đƣợc lỗ hổng về 
nguồn lực có kĩ năng. 
- Bên cạnh đó, từng bƣớc giảm dần việc sử 
dụng nhân lực từ các nơi khác, chú trọng 
đến việc sử dụng nhân lực tại địa phƣơng 
để tăng hiệu quả phát triển kinh tế xã hội 
và giải quyết việc làm tại chỗ. Muốn làm 
đƣợc điều này thì giữa doanh nghiệp du 
lịch và cơ quan quản lí Nhà nƣớc cần có 
sự phối hợp chung trong việc quy hoạch 
đào tạo và sử dụng nguồn lực của địa 
phƣơng theo các hƣớng phân luồng sau 
đây: 
 Đào tạo kĩ năng nghề du lịch và ngoại 
ngữ giao tiếp cơ bản cho ngƣời lao động 
ở trình độ phổ thông (tốt nghiệp THCS 
và THPT) phục vụ trực tiếp cho doanh 
nghiệp. 
 Đào tạo nâng cao đối với ngƣời lao động 
đã có quá trình làm việc và gắn bó lâu 
dài với doanh nghiệp về chuyên môn 
(ĐH – CĐ hoặc ngoại ngữ chuyên sâu). 
 Có chính sách về lƣơng bổng đãi ngộ đối 
với ngƣời dân địa phƣơng sau khi đƣợc 
đào tạo nâng cao trở về làm việc. 
- Thƣờng xuyên bồi dƣỡng và nâng cao 
nhận thức về phát triển kinh doanh du 
lịch cho đội ngũ cán bộ quản lí, chủ cơ 
sở, doanh nghiệp dịch vụ du lịch để tăng 
cƣờng năng lực quản trị điều hành. 
Chính điều này sẽ là cơ sở nền tảng cho 
những quyết sách về phát triển du lịch, 
trong đó, không thể thiếu việc quy hoạch 
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu 
cầu của thực tiễn. 
4. KẾT LUẬN 
Với tiềm năng về tài nguyên thiên 
NGUỒN NHÂN LỰC CHO VIỆC PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI HUYỆN ĐẢO PHÚ QUỐC, TỈNH 
KIÊN GIANG 
nhiên và tính đa dạng sinh học, Phú Quốc 
xứng đáng đƣợc chọn làm điểm đến về du 
lịch sinh thái đảo. Lƣợng khách trong và 
ngoài nƣớc ngày càng đến với Phú Quốc 
nhiều hơn chứng tỏ nơi đây còn nhiều tiềm 
năng phát triển. Tính hoang sơ của thiên 
nhiên là một lợi thế để nơi đây đƣợc đầu tƣ 
phát triển thành khu du lịch với tiêu chuẩn 
quốc tế. Do đó, đội ngũ lao động cần đƣợc 
chuẩn hoá và có chuyên môn cao. Với hiện 
trạng nhân lực du lịch hiện nay, Phú Quốc 
sẽ rất khó thu hút đầu tƣ và phát triển. Việc 
liên kết hợp tác trong đào tạo nguồn nhân 
lực sẽ giúp địa phƣơng sớm chuẩn hoá 
đƣợc đội ngũ làm du lịch chuyên nghiệp, 
kịp thời đáp ứng nhu cầu phát triển, đồng 
thời học hỏi và hoàn thiện dần các cơ sở 
đào tạo của mình. Lao động phục vụ tại 
chỗ phải đƣợc chú trọng đào tạo vì sẽ là 
lực lƣợng lao động ổn định và lâu dài, 
đóng góp nhiều cho ngành du lịch và cho 
nền kinh tế Phú Quốc. 
Chú thích: 
1
 Nguồn: Trang thông tin điện tử tỉnh Kiên Giang  
2 Quyết định 178/2004/QĐ-TTg kí ngày 05/10/2004 về việc phê duyệt “Đề án phát triển 
tổng thể đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đến năm 2010 và tẩm nhìn đến năm 2020”; Quyết 
định 1179/QĐ-TTg kí ngày 09/11/2005 về việc duyệt quy hoạch chung xây dựng đảo Phú 
Quốc đến năm 2020; và Quyết định 14/QĐ-TTg kí ngày 04/01/2006 về duyệt quy hoạch 
phát triển giao thông bền vững đảo Phú Quốc đến năm 2010 và định hƣớng đến năm 2020 
của Thủ tƣớng Chính phủ. 
3
 Báo cáo của Trung tâm Xúc tiến Thƣơng mại tỉnh Kiên Giang. 
4
 Báo Kinh tế Việt Nam. 2005. Phát triển du lịch Phú Quốc như thế nào? 
5
 Phỏng vấn anh Nguyễn Thái Khanh, phó phòng VHTT huyện Phú Quốc. 
6Theo báo cáo của Trung tâm xúc tiến thƣơng mại tỉnh Kiên Giang. 
7
 Nguồn tin theo Thông tấn xã Việt Nam đƣợc thu thập trên trang web: 
250658319 
8
 Phỏng vấn Công ty du lịch Sài Gòn – Phú Quốc thuộc tổng công ty du lịch Sài Gòn 
Tourist, chủ doanh nghiệp nhà thùng nƣớc mắm Kim Hoa có kinh doanh khách sạn, chủ 
doanh nghiệp sản xuất nhuyễn thể Kim Liên có tham gia hoạt động du lịch ngày 
15/06/2006 và chị Hồ Bạch Điệp - hộ kinh doanh khu du lịch Gió Biển, Gành Dầu ngày 
16/06/2006. Theo công ty Sài Gòn Tourist và doanh nghiệp Kim Hoa, để có đƣợc nhân 
viên có khả năng làm việc, các doanh nghiệp phải tuyển dụng từ Thành phố Hồ Chí Minh 
và các tỉnh về, phải tổ chức đào tạo các kĩ năng chuyên môn. Riêng Sài Gòn – Phú Quốc 
có chƣơng trình đƣa nhân viên đi đào tạo ngắn và trung hạn ở nƣớc ngoài. Để tính toán đầu 
tƣ sản xuất cho hiệu quả, doanh nghiệp sản xuất nhuyễn thể Kim Liên phải đƣa nguyên vật 
liệu (vỏ các loài nhuyễn thể, ngọc trai, v.v.) vào đất liền, tận dụng nguồn thợ với mức 
lƣơng thấp hơn, cộng với chi phí vận chuyển, v.v. giá thành sản phẩm vẫn rẻ hơn so với 
việc sử dụng nguồn lao động tại chỗ. 
9 Phỏng vấn chủ doanh nghiệp nhà thùng nƣớc mắm Kim Hoa, chủ doanh nghiệp sản xuất 
nhuyễn thể Kim Liên ngày 15/06/2006. 
10 Phỏng vấn phó phòng hành chánh, công ty du lịch Sài Gòn – Phú Quốc. Đồi với nhân 
viên quản lí cao cấp công ty tuyển dụng về thƣờng đƣợc đi tu nghiệp tại Singapore từ 3 
tháng đến một năm. 
11 Phỏng vấn chị Mai, trƣởng phòng Xúc tiến Thƣơng mại, Sở Du lịch Tỉnh Kiên Giang, 
tháng 6/2006. Chị Mai cùng một nhân viên chuyên trách phát triển du lịch và quảng bá sản 
phẩm du lịch đều tốt nghiệp ngành báo chí, bản thân chị Mai cũng đã làm việc trong ngành 
báo chí một thời gian. Hai nhân viên còn lại cũng không đƣợc đào tạo chuyên ngành du 
lịch. Mặc dù các thành viên đều nỗ lực hết mình ttrong công việc nhƣng vẫn ở mức độ 
nghiên cứu, vừa học vừa làm. 
12 Phỏng vấn ông Khanh, trƣởng phòng Xúc tiến Thƣơng mại, UBND xã An Thới Đông, 
Phú Quốc, 6/2006. 
13 Phỏng vấn chị Hồ Bạch Điệp - hộ kinh doanh khu du lịch Gió Biển, Gành Dầu ngày 
16/06/2006. Theo chị Điệp, thỉnh thoảng anh Khanh mới ghé qua một lần trong năm và 
cũng chỉ kiểm tra thuế kinh doanh và các loại phí khác, hoặc chỉ là những đợt kiểm tra 
ngắn. 
14 Cổng du lịch, 2009. Khách du lịch đến Kiên Giang tăng mạnh. Theo Thông tấn xã Việt 
Nam, 3/3/2009. 
15 16 Báo cáo sơ kết công tác phát triển du lịch 2 năm ( 2006 – 2007) theo Nghị quyết 02-
NQ/TU của Tỉnh uỷ Kiên Giang. UBND tỉnh Kiên Giang (2007). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Báo cáo sơ kết công tác phát triển du lịch 2 năm ( 2006-2007 ) theo Nghị quyết 02-
NQ/TU và 08-NQ/TU của tỉnh uỷ Kiên Giang, UBND tỉnh Kiên Giang (2007). 
2. Báo Kinh tế Việt Nam (2005), Phát triển du lịch Phú Quốc như thế nào?. 
3. Cổng du lịch (2009), Khách du lịch đến Kiên Giang tăng mạnh, theo Thông tấn xã Việt 
Nam, 3/3/2009. 
4. Cổng thông tin điện tử tỉnh Kiên Giang (11/2005), Phát triển du lịch Kiên Giang cần 
một cú “hích”. 
5. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Huyện Phú Quốc giai đoạn 2006 – 2010 (2005), 
Uỷ ban Nhân dân Huyện Phú Quốc. 
6. Quy hoạch phát triển du lịch đảo Phú Quốc. Tổ chức Du lịch Thế giới – Trung tâm xúc 
tiến thƣơng mại và du lịch Phú Quốc, Kiên Giang, 2005. 
7. Thủ tƣớng chính phủ (2004), Quyết định 178/2004/QĐ-TTg:“Đề án phát triển tổng thể 
đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020’. 
8. Thủ tƣớng chính phủ (2005), Quyết định 1197/QĐ-TTg:“Phê duyệt quy hoạch chung 
xây dựng đảo Phú Quốc đến năm 2020”. 
9. Thủ tƣớng chính phủ (2006), Quyết định 14/QĐ-TTg:“Phê duyệt quy hoạch phát triển 
giao thông bền vững đảo Phú Quốc đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. 
10. Thủ tƣớng chính phủ (2007), Quyết định 01/QĐ-TTg:“Quy hoạch tổng thể phát triển 
du lịch đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang thời kì 2006-2020”. 
11. Trang thông tin điện tử tỉnh Kiên Giang  
12. Viện nghiên cứu phát triển du lịch (2005), Tóm lược quy hoạch phát triển du lịch Phú 
Quốc, Tổng cục Du lịch, Hà Nội. 
13. Trang thông tin điện tử Cổng Du lịch (3/2009). 
14. Trung tâm Xúc tiến Thƣơng mại tỉnh Kiên Giang (2006), Báo cáo tổng kết năm 2006. 
15. Dự án quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đảo Phú Quốc (2003), Chương trình phát 
triển Liên Hiệp Quốc - Dự án của chính phủ Việt Nam, Hà Nội. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nguon_nhan_luc_cho_viec_phat_trien_du_lich_tai_huyen_dao_phu.pdf