Nguồn nhân lực logistics Việt Nam

LOGISTICS “LẠ” NHƯNG KHÔNG “MỚI” Logistics hoàn toàn không phải là lĩnh vực mới mẻ tuy nhiên để hiểu đúng thuật ngữ này là một vấn đề khó khăn. Ngày xưa Logistics chỉ đơn thuần là một hoạt động chức năng đơn lẻ, là công việc “hậu cần” cho một tổ chức. Ngày nay logistic đã phát triển mở rộng sang nhiều lĩnh vực và phạm vi khác nhau. Những lợi ích to lớn mà nó mang lại thì không phải bàn cải. Trong lĩnh vực kinh tế thuật ngữ logistics được sử dụng như một ngành mang lại nhiều nguồn lợi to lớn. Theo Luật Thương mại Việt Nam, logistics là một hoạt động thương mại do các thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho bãi, làm thủ tục hải quan và các loại giấy tờ, tư vấn khách hàng, đóng gói, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa để hưởng phí thù lao. Hoặc hiểu một cách đơn giản, logistics là việc thực hiện và kiểm soát toàn bộ hàng hóa cùng những thông tin có liên quan từ nơi hình thành nên hàng hóa cho đến điểm tiêu thụ cuối cùng Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có thể hơn 30%.Sự phát triển dịch vụ logistic có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất,kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẻ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. VÀI NÉT VỀ LOGISTICS VIỆT NAM Nếu như những năm đầu thập niên 90, số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận, logistics chỉ đếm được trên đầu ngón tay thì đến nay, như đã nói ở trên, số doanh nghiệp kinh doanh loại hình dịch vụ “béo bở” này đã lên tới hàng ngàn doanh nghiệp. Thời kỳ cao điểm, gần như tuần nào cũng có một công ty giao nhận, logistics được cấp phép hoạt động hoặc bổ sung chức năng logistics. Trong những năm gần đây, ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam đã và đang phát triển rất nhanh chóng, từ một vài doanh nghiệp giao nhận quốc doanh của đầu thập niên 90 đến nay đã có hơn 600 công ty được thành lập và hoạt động từ Nam, Trung, Bắc. Theo thông tin từ Sở kế hoạch đầu tư TP.HCM thì trung bình mỗi tuần có một công ty giao nhận, logistics được cấp phép hoạt động hoặc bổ sung chức năng logistics. Hiện nay, đối với doanh nghiệp làm dịch vụ giao nhận, logistics tại Việt Nam, vốn và trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, ngay cả các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn của ngành cũng không còn là rào cản và lợi nhuận biên (profit margin), lợi nhuận trên vốn tương đối cao (theo các thống kê ở mức trung bình ngành vào khoảng 18-20%). Cứ theo đà này thì trong vài năm nữa Việt Nam sẽ vượt cả Thái Lan (1100 công ty), Singapore (800), Indonesia, Philipin (700-800) về số lượng các công ty logistics đăng ký hoạt động trong nước. Các công ty giao nhận nước ngoài, mặc dù các quy định về pháp luật Việt Nam chưa cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, bằng cách này, cách nọ cũng thành lập chừng vài chục doanh nghiệp, chủ yếu tại TP.HCM. Việc phát triển nóng của ngành logistics theo chúng tôi là điều đáng lo ngại do các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, xét về quy mô (con người, vốn, doanh số ) vẫn rất nhỏ bé, ngoại trừ vài chục doanh nghiệp quốc doanh và cổ phần là tương đối lớn (từ 200-300 nhân viên), số còn lại trung bình từ 10-20 nhân viên, trang thiết bị, phương tiện, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, chủ yếu mua bán cước tàu biển, cước máy bay, đại lý khai quan và dịch vụ xe tải, một số có thực hiện dịch vụ kho vận nhưng không nhiều. Nói chung là hoạt động thiếu đồng bộ, manh mún và quy mô nhỏ, mức độ công nghệ chưa theo kịp các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á. Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng thế giới về chỉ số hiệu quả hoạt động logistics, Việt Nam đứng thứ 53 trên toàn thế giới và thứ 5 trong khu vực ASEAN. Trong một hội thảo về logistics hồi tháng 9 năm nay, các chuyên gia cho biết chi phí logistics của Việt Nam chiếm đến 25% GDP, chứng tỏ dịch vụ này chưa phát triển trong khi chi phí này ở Mỹ chiếm 9,5% GDP, Nhật là 11%, Hàn Quốc 16%, Trung Quốc 21,6%. Theo nghiên cứu và đánh giá của viện Nomura (Nhật Bản), các doanh nghiệp kho vận (logistics) tại Việt Nam hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường logistics. Nguyên nhân và cũng là bài toán nan giải chính là nguồn nhân lực

doc11 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2208 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn nhân lực logistics Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI LUẬN QUẢN TRỊ CUNG ỨNG ĐỀ TÀI: NGUỒN NHÂN LỰC LOGISTICS VIỆT NAM ™&˜ @ DANH SÁCH NHÓM IV QT1.1 Trần Thị Ánh Hồng Nguyễn Thành Long Nguyễn Bảo Trân Trương Thị Định Phan Đình Hảo Đà Nẵng, Tháng 11 Năm 2009 LOGISTICS “LẠ” NHƯNG KHÔNG “MỚI” Logistics hoàn toàn không phải là lĩnh vực mới mẻ tuy nhiên để hiểu đúng thuật ngữ này là một vấn đề khó khăn. Ngày xưa Logistics chỉ đơn thuần là một hoạt động chức năng đơn lẻ, là công việc “hậu cần” cho một tổ chức. Ngày nay logistic đã phát triển mở rộng sang nhiều lĩnh vực và phạm vi khác nhau. Những lợi ích to lớn mà nó mang lại thì không phải bàn cải. Trong lĩnh vực kinh tế thuật ngữ logistics được sử dụng như một ngành mang lại nhiều nguồn lợi to lớn. Theo Luật Thương mại Việt Nam, logistics là một hoạt động thương mại do các thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho bãi, làm thủ tục hải quan và các loại giấy tờ, tư vấn khách hàng, đóng gói, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa để hưởng phí thù lao. Hoặc hiểu một cách đơn giản, logistics là việc thực hiện và kiểm soát toàn bộ hàng hóa cùng những thông tin có liên quan từ nơi hình thành nên hàng hóa cho đến điểm tiêu thụ cuối cùng Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có thể hơn 30%.Sự phát triển dịch vụ logistic có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất,kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẻ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. VÀI NÉT VỀ LOGISTICS VIỆT NAM Nếu như những năm đầu thập niên 90, số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận, logistics chỉ đếm được trên đầu ngón tay thì đến nay, như đã nói ở trên, số doanh nghiệp kinh doanh loại hình dịch vụ “béo bở” này đã lên tới hàng ngàn doanh nghiệp. Thời kỳ cao điểm, gần như tuần nào cũng có một công ty giao nhận, logistics được cấp phép hoạt động hoặc bổ sung chức năng logistics. Trong những năm gần đây, ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam đã và đang phát triển rất nhanh chóng, từ một vài doanh nghiệp giao nhận quốc doanh của đầu thập niên 90 đến nay đã có hơn 600 công ty được thành lập và hoạt động từ Nam, Trung, Bắc. Theo thông tin từ Sở kế hoạch đầu tư TP.HCM thì trung bình mỗi tuần có một công ty giao nhận, logistics được cấp phép hoạt động hoặc bổ sung chức năng logistics. Hiện nay, đối với doanh nghiệp làm dịch vụ giao nhận, logistics tại Việt Nam, vốn và trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, ngay cả các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn của ngành cũng không còn là rào cản và lợi nhuận biên (profit margin), lợi nhuận trên vốn tương đối cao (theo các thống kê ở mức trung bình ngành vào khoảng 18-20%). Cứ theo đà này thì trong vài năm nữa Việt Nam sẽ vượt cả Thái Lan (1100 công ty), Singapore (800), Indonesia, Philipin (700-800) về số lượng các công ty logistics đăng ký hoạt động trong nước. Các công ty giao nhận nước ngoài, mặc dù các quy định về pháp luật Việt Nam chưa cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, bằng cách này, cách nọ cũng thành lập chừng vài chục doanh nghiệp, chủ yếu tại TP.HCM. Việc phát triển nóng của ngành logistics theo chúng tôi là điều đáng lo ngại do các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, xét về quy mô (con người, vốn, doanh số…) vẫn rất nhỏ bé, ngoại trừ vài chục doanh nghiệp quốc doanh và cổ phần là tương đối lớn (từ 200-300 nhân viên), số còn lại trung bình từ 10-20 nhân viên, trang thiết bị, phương tiện, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, chủ yếu mua bán cước tàu biển, cước máy bay, đại lý khai quan và dịch vụ xe tải, một số có thực hiện dịch vụ kho vận nhưng không nhiều. Nói chung là hoạt động thiếu đồng bộ, manh mún và quy mô nhỏ, mức độ công nghệ chưa theo kịp các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á. Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng thế giới về chỉ số hiệu quả hoạt động logistics, Việt Nam đứng thứ 53 trên toàn thế giới và thứ 5 trong khu vực ASEAN. Trong một hội thảo về logistics hồi tháng 9 năm nay, các chuyên gia cho biết chi phí logistics của Việt Nam chiếm đến 25% GDP, chứng tỏ dịch vụ này chưa phát triển trong khi chi phí này ở Mỹ chiếm 9,5% GDP, Nhật là 11%, Hàn Quốc 16%, Trung Quốc 21,6%. Theo nghiên cứu và đánh giá của viện Nomura (Nhật Bản), các doanh nghiệp kho vận (logistics) tại Việt Nam hiện chỉ đáp ứng được 1/4 nhu cầu thị trường logistics. Nguyên nhân và cũng là bài toán nan giải chính là nguồn nhân lực. NGUỒN NHÂN LỰC LOGISTICS VIỆT NAM THIẾU CẢ VỀ “CHẤT” VÀ “LƯỢNG” Do phát triển nóng nên nguồn nhân lực cung cấp cho thị trường logistics tại Việt Nam hiện nay trở nên thiếu hụt trầm trọng. Theo thông tin chúng tôi có được từ các công ty săn đầu người như KPMG về việc tuyển chọn nhân viên kinh doanh (sales), các doanh nghiệp tư nhân tại TP.HCM đăng báo tìm người… trong 3, 4 tháng vẫn không tìm ra người theo yêu cầu. Nhân lực cho hoạt động logistics hiện đang thiếu trầm trọng.Theo VIFFAS (Hiệp hội giao nhận kho vận VN), hiện chưa có thống kê chính xác về nguồn nhân lực phục vụ. Nếu chỉ tính riêng các công ty thành viên Hiệp hội (có đăng ký chính thức), tổng số nhân viên vào khoảng 5000 người. Đây là lực lượng được coi là chuyên nghiệp. Ngoài ra ước tính có khoảng 4000–5000 người thực hiện dịch vụ giao nhận vận tải bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp khác nhưng chưa tham gia hiệp hội. Số lượng nhân viên chính thức của doanh nghiệp thường không nhiều. Ví dụ như Công ty TNHH mạng lưới vận tải Quốc tế Trân Châu hoặc Công ty cổ phần tiếp vận Quốc tế Safway-Safway logistics tham gia trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ thương mại, kho bãi và nhà xưỡng, vận tải container, vận tải logistics, vận chuyển hàng không, vận tải đường biển nhưng cũng chỉ có 30 nhân viên, Công ty TNHH vận chuyển Quốc tế Marilink chỉ có 10 nhân viên. Các nguồn nhân lực nói trên được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Ở trình độ cấp đại học, được đào tạo chủ yếu từ trường đại học Kinh Tế và đại học Ngoại Thương. Ngoài ra, nguồn nhân lực còn được bổ sung từ những ngành đào tạo khác như hàng hải, giao thông, vận tải, ngoại ngữ…Đội ngũ công nhân lao động trực tiếp thì phần đông trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo tác phong làm việc chuyên nghiệp. Trong khi đó, chúng ta vẫn chưa có một trường chuyên ngành về logistics, sinh viên chỉ được học 15-20 tiết trong môn vận tải và bảo hiểm ngoại thương và nội dung chủ yếu nghiêng về vận tải biển và giao nhận đường biển. Đánh giá về nguồn nhân lực phục vụ trong ngành logistics hiện nay, trước hết là đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành. Trong các doanh nghiệp quốc doanh và cổ phần hóa thì cán bộ chủ chốt được Bộ, ngành chủ quản điều động về điều hành các công ty, đơn vị trực thuộc ở miền Nam là thời gian sau ngày giải phóng. Đội ngũ này hiện nay đang điều hành chủ yếu các doanh nghiệp tương đối lớn về quy mô và có thâm niên trong ngành, chẳng hạn trong lĩnh vực dịch vụ hàng hải, kho vận, đa số đạt trình độ đại học. Hiện thành phần này đang được đào tạo và tái đào tạo để đáp ứng nhu cầu quản lý. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại phong cách quản lý cũ, chưa chuyển biến kịp để thích ứng với môi trường mới, thích sử dụng kinh nghiệm hơn là áp dụng khoa học quản trị hiện đại, chưa theo kịp sự thay đổi của thời đại. Đôi lúc gây cản trở sự phát triển của nghành. Sẽ dần được thay thế bởi một đội ngũ cán bộ quản lý trẻ, năng động hơn, có trình độ đại học được đào tạo đúng chuyên nghành và nhiều tham vọng. Đây sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Về đội ngũ nhân viên phục vụ: là đội ngũ nhân viên chăm lo các tác nghiệp hàng ngày, phần lớn tốt nghiệp đại học nhưng không chuyên, phải tự nâng cao trình độ nghiệp vụ, tay nghề trong quá trình làm việc. Lực lượng trẻ chưa tham gia nhiều vào hoạch định đường lối, chính sách, ít tham gia đóng góp ý kiến để xây dựng và phát triển ngành nghề. Về đội ngũ nhân công lao động trực tiếp: chủ yếu là lao động phổ thông nên trình độ học vấn thấp, công việc chủ yếu là bốc xếp, kiểm đếm ở các kho bãi, lái xe vận tải, chưa được đào tại tác phong công nghiệp, sử dụng sức lực nhiều hơn là bằng phương tiện máy móc. Sự yếu kém này một mặt là do phương tiện lao động còn lạc hậu, chưa đòi hỏi lao động chuyên môn, mặt khác là do doanh nghiệp chưa chú trọng đào tạo nguồn nhân lực. Về chương trình đào tạo, nâng cao tay nghề trong ngành logistics hiện nay, theo chúng tôi, được thực hiện ở 3 cấp độ sau: Tại các cơ sở đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng: Theo đánh giá của VIFFAS chương trình đào tạo về logistics còn yếu và nhỏ lẻ (khoảng 15-20 tiết học trong môn vận tải và bảo hiểm ngoại thương), chủ yếu đào tạo nghiên về vận tải biển và giao nhận đường biển. Tại các trường đại học Kinh tế, trong chương trình quản trị sản xuất (operation management-OM) có trình bày sơ lược về quản trị dây chuyền cung ứng (supply chain management-SCM) và quản trị vật tư, như một phần của môn vận trù học. Nghiệp vụ logistics trong giao nhận hàng không chưa được xây dựng thành môn học, chưa có trường đại học nào đào tạo hay mở những lớp bồi dưỡng ngắn hạn. Với thời lượng môn học như vậy, bài giảng chỉ tập trung giới thiệu những công việc trong giao nhận, quy trình và các thao tác thực hiện qua các công đoạn. Chương trình tương đối lạc hậu, giảng dạy theo nghiệp vụ giao nhận truyền thống là chủ yếu. Các kỹ thuật giao nhận hiện đại ít được cập nhật hóa như vận tải đa phương thức, kỹ năng quản trị dây chuyền chuỗi cung ứng, các khái niệm mới như “one stop shopping”, Just in time (JIT-Kanban)… Tính thực tiễn của chương trình giảng dạy không cao, làm cho người học chưa thấy hết vai trò và sự đóng góp của logistics, giao nhận vận tải trong nền kinh tế. Về phía Hiệp hội: Trong thời gian qua VIFFAS đã và đang kết hợp với các hiệp hội giao nhận các nước ASEAN (AFFA), các chương trình của Bộ Giao thông vận tải, tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ giao nhận, gom hàng đường biển, liên kết với trường Cao đẳng Hải quan mở lớp đào tạo về đại lý khai quan, cấp bằng, chứng chỉ cho các hội viên tại TP.HCM, Đà Nẵng và Hà Nội. Về giao nhận hàng không, trước kia, hiệp hội vận tải hàng không quốc tế - IATA thông qua Vietnam Airlines đã tổ chức được một số lớp học nghiệp vụ và tổ chức thi cấp bằng IATA có giá trị quốc tế. Hiện nay, chương trình này vẫn không tiến triển do tính không chính thức, số lượng người tham gia hạn chế, chỉ mang tính nội bộ và chưa có tổ chức bài bản trong chương trình đào tạo của hiệp hội. Hiện nay, mỗi năm VIFFAS tổ chức được 1-2 khóa nghiệp vụ, quy mô này là chưa tương xứng với nhu cầu hiện tại và tương lai của các hội viên và ngoài hội viên. VIFFAS hiện chưa thực hiện được chương trình đào tạo và tái đào tạo khởi xướng bởi FIATA và AFFA hàng năm. Theo chúng tôi, đây là chương trình rất phù hợp với ngành nghề logistics và có phần tài trợ của FIATA theo đề nghị của từng quốc gia và hiệp hội của quốc gia đó. Về mãng đào tạo nội bộ tại các công ty: Do nguồn đào tạo chính quy thiếu hụt nên các công ty sau khi tuyển dụng nhân viên đều phải tự trang bị kiến thức nghề nghiệp bằng các khóa tự mở trong nội bộ công ty cho các nhân viên mới với lực lượng giảng dạy là những cán bộ đang tại chức. Lực lượng này là những người đang kinh doanh nên có nhiều kinh nghiệm thực tế, tuy nhiên khả năng sư phạm và phương pháp truyền đạt chưa đảm bảo. Điều này dẫn đến sự khập khễnh, chênh lệch về nghiệp vụ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ của nhân viên giữa các công ty. Chất lượng đào tạo chưa cao, dễ gây lúng túng khi gặp sự cố bất thường. Sự thiếu hụt này cần được ngành và các doanh nghiệp giải quyết nhanh chóng vì xu thế chung trong giao nhận vận tải quốc tế nhất là thời kỳ hội nhập như hiện nay đòi hỏi bắt buộc nhân viên phải có trình độ cao về ngoại ngữ, chuyên môn sâu, có kiến thức rộng về địa lý, am tường luật lệ liên quan đến xuất nhập khẩu, các quy định và luật Hải quan trong nước và quốc tế, thông thạo và hiểu biết về pháp luật quốc gia và luật quốc tế, có kiến thức về cả ngân hàng, bảo hiểm và hàng không, máy bay, tàu biển… Cần phải nói rằng, giao nhận kho vận và điều hành logistics là một công nghệ mang tính chuyên nghiệp cao nên nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này cần được đào tạo một cách có hệ thống và được trang bị đầy đủ kiến thức như những nhà giao nhận quốc tế. Bên cạnh những thuận lợi và cơ hội hội nhập kinh tế thì tực tế nguồn nhân lực Logistic Việt Nam đang gặp những khó khăn và thách thức không nhỏ. KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI CỦA NGUỒN NHÂN LỰC LOGISTICS VIỆT NAM Khó khăn: Vấn đề đáng quan tâm là nghiệp vụ logistics chưa được xây dựng thành môn học, chưa có trường đại học nào đào tạo hay mở những lớp bồi dưỡng ngắn hạn. Các bài giảng trong nhà trường mới chỉ tập trung giới thiệu những công việc trong giao nhận, quy trình và các thao tác thực hiện qua các công đoạn. Chương trình tương đối lạc hậu, giảng dạy theo nghiệp vụ giao nhận truyền thống là chủ yếu. Các kỹ thuật giao nhận hiện đại ít được cập nhật hóa như vận tải đa phương thức, kỹ năng quản trị dây chuyền chuỗi cung ứng… Tính thực tiễn của chương trình giảng dạy không cao, làm cho người học chưa thấy hết vai trò và sự đóng góp của logistics, giao nhận vận tải trong nền kinh tế. Có thể khẳng định rằng các chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp về lĩnh vực này quá ít so với yêu cầu phát triển dịch vụ. Phần lớn kiến thức mà cán bộ công nhân viên trong ngành có được là từ thực tiễn khi làm đại lý hoặc đối tác cho các công ty nước ngoài chuyên làm dịch vụ này. Kiến thức và kỹ năng liên quan đến vận tải đa phương thức, liên vận chuyển, thiếu và mờ nhạt. Hiện tại, nhân lực của ta trong lĩnh vực này, ngoài một số rất ít được đào tạo bài bản ở nước ngoài, số còn lại chủ yếu làm theo kiểu “tay quen”, làm theo kinh nghiệm. Được biết, cả nước ta vẫn chưa có một trường chuyên ngành giảng dạy về vận tải và điều hành Logistic, về giao nhận kho vận. Ở một số trường có tổ chức giảng dạy chuyên nghành logistics nhưng gặp rất nhiều khó khăn. Vì logistics là một ngành còn mới mẻ ở Việt Nam và do điều kiện thực tế của các nhà trường, nên khi triển khai ngành học mới này ít nhận sự hưởng ứng. Mặt khác, đội ngũ giảng viên của ngành hiện nay còn rất ít chủ yếu là giảng viên của khoa kinh tế vận tải biển. Những giảng viên này chỉ được tham gia một số lớp tập huấn ngắn hạn ở nước ngoài, trong đó có bộ môn logistic. Đồng thời, nguồn tư liệu phục vụ giảng dạy cũng còn rất thiếu, ngoài một số ít cuốn giáo trình logistics tiếng Việt, còn lại phải tham khảo tư liệu nước ngoài, các sinh viên học ngành này luôn là đích ngắm của các doanh nghiệp FDI vì tính thực tiễn của nó đối với xã hội. Việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành này mới chỉ dừng ở mức vài cuộc hội thảo, vài khóa đào tạo ngắn hạn (chủ yếu là do Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam tổ chức hoặc tranh thủ các nguồn tài trợ nước ngoài để mở các khoá đào tạo ngắn hạn). Chừng đó chưa thấm tháp vào đâu so với tầm quan trọng và vị thế của nghành. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động liên quan đến logistics, đều khiếm khuyết, nếu không nói là chưa có đội ngũ nhân lực chuyên về logictics hoặc hiểu về logictics còn chung chung”. Tác phong làm việc chưa hiện đại chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm. Chưa co nhiều kiến thức về logistics và luật pháp quốc tế, đặc biệt là kiến thức ngoại ngữ còn yếu kém nên gặp nhiều khó khăn khi làm việc với các đối tác nước ngoài. Để khắc phục tình trạng này Logistics Việt Nam cần chú trọng phát triển các khoá đào tạo dài hạn tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Đây không phải là việc dễ, cũng không thể làm trong một sớm một chiều song cũng không thể không làm. Thuận lợi: Việt Nam với mức dân số đang ở trong giai đoạn trẻ nên nguồn nhân lực khá dồi dào với giá tương đối rẻ. Đây là một thuận lợi mà các DN hoạt động trong lĩnh vực logistics đang thiếu nguồn nhân lực cần phải chú trọng khai thác triêt để và phát huy với khả năng có thể. Khi các DN biết tận dụng những thuận lợi đó thì có thể giảm bớt được chi phí nhân công, góp phần tăng lợi nhuận kinh doanh. Dựa trên nguồn nhân lực dồi dào đó để có những biện pháp và chính sách lựa chọn những người tài và có kỹ năng nghề nghiệp tốt. Người lao động Việt Nam vốn có bản chất thông minh, nhanh nhẹn, tiếp thu nhanh và có truyền thống chăm chỉ, cần cù, ham học hỏi, đoàn kết và giúp đỡ nhau. Chính vì vậy những lao động trong nghành cũng mang trong mình những bản chất vốn có sẵn, truyền thống đó của đất nước. Ngày nay, trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với xu thế toàn cầu hóa thì người lao động có những bản chất này là rất tốt cho các DN. Biết học hỏi và tiếp thu những cái mới là điều quan trọng để có một nguồn nhân lực vững mạnh về chất cho DN mình. NGUỒN NHÂN LỰC LOGISTICS VIỆT NAM! CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG GIAI ĐOẠN MỚI. 1. Cơ hội: Logistics tại Việt Nam đang được coi là nghành dịch vụ khá mới mẻ vì vậy các DN nước ngoài và chính phủ đang có những chính sách quan tâm, ưu đãi khá đặc biệt với lao động nghành này. Nếu như các DN Việt Nam biết tận dụng những chính sách đó thì sẽ tạo thêm được nhiều động lực cho người lao động….Khi thực hiện cam kết mở cửa áp lực cạnh tranh sẽ càng lớn các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại buộc phải có sự thay đổi cả về tư duy và nhận thức. Khi các doanh nghiệp nước ngoài vào nước ta sẽ là cơ hội đễ các doanh nghiệp trong nước làm quen và học hỏi tác phong công nghiệp, làm việc khoa học, được tiếp cận với nền logistics hiện đại của thế giới cũng như luật pháp quốc tế. Đây cũng sẽ trở thành những cơ sỡ đào tạo có hiệu quả cho nguồn nhân lực nước nhà. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt sẽ loại bỏ những nhân tố chưa hoàn hảo tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp còn trụ lại có thể phát triển hơn. Trên con đường hội nhập chúng ta sẽ tranh thủ được sự giúp đỡ của các tổ chức thế giới: Tổ chức thương mại thế giới, Ủy ban Kinh tê và Xã hội Châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP), Hiệp hội Giao nhận Châu Á (AFFA), Liên đoàn các Hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA)…để có nguồn kinh phí cũng như tài liệu để tổ chức thêm nhiều lớp bồi dưỡng kiến thức logistics trong và ngoài nước. 2. Thách thức: Trong thời đại hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập WTO cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, nền kinh tế thế giới nói chung và ngành logistics nói riêng buộc các doanh nghiệp trong ngành của nước nhà phải có sự thay đổi cả trong tư duy và nhận thức nếu không muốn bị lép vế trên thị trường. Theo cam kết gia nhập WTO của VN, 5 năm kể từ ngày gia nhập, các công ty vận tải biển nước ngoài có thể thành lập DN 100% vốn đầu tư nước ngoài tại VN. Với một nguồn nhân lực chắp vá, vừa thiếu lại vừa yếu, Logistics Việt Nam sẽ không có nổi một cơ hội để cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ đến từ những hãng vận tải lớn và danh tiếng của nước ngoài đang xuất hiện ngày càng nhiều ở nước ta. Đối mặt với áp lực cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp ngành dịch vụ logistics VN sẽ phải tự “chèo chống” để tồn tại. Trước tiên phải hoàn thiện hệ thống nguồn nhân lực cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sức hút từ các doanh nghiệp logistics nổi tiếng của nước ngoài sẽ đặt bộ phận nguồn nhân lực có chất lượng của nước nhà trước sự lựa chọn có phần thiên về xu hướng hướng ngoại. Nếu không muốn tình trạng “chảy máu chất xám” tiếp tục xảy ra, sẽ mất đi nguồn nhân lực có chất lượng hiện tại khi mà chưa có người để thay thế thì các DN trong nước cần có chính sách bồi dưỡng, đãi ngộ hợp lý đối với những người có tài và có anh hưỡng lớn đến sự phát triển của DN để giữ chân họ. Logistics trên thế giới phát triển với một nguồn nhân lực vững mạnh về chất và lượng. Nếu như chúng ta không biết chú trọng đào tạo và bổ sung nguồn nhân lực kịp thời thì sẽ tạo vô vàn khó khăn và thách thức cho ngành trong tương lai không xa. Gia nhập WTO là bước vào một sân chơi mới vừa có những cơ hội lại vừa có những thách thức. Tuy nhiên, cơ hội không tự nhiên sẵn có và khó khăn thử thách luôn ở phía trước. Vì vậy, để nguồn nhân lực của các DN logistics tại Việt Nam có thể đáp ứng kịp tốc độ phát triển của logistics, tận dụng mọi cơ hội, vượt qua các thử thách, trong thời gian tới cần chú ý một số giải pháp phát triển triển theo hướng chính quy, chuyên nghiệp có kế hoạch phát triển cả dài hạn và ngắn hạn. GIẢI PHÁP Định hướng phát triển nguồn nhân lực logistics theo quan điểm của VIFFAS là phát triển theo hướng chính quy, chuyên nghiệp, kế hoạch cả về ngắn hạn và dài hạn. Trong chiến lược dài hạn, hiệp hội đề nghị Chính phủ và các cơ quan chức năng tài trợ, hỗ trợ, quan tâm trong xây dựng và hoạch định chính sách có định hướng, liên quan đến ngành logistics. Thực hiện các văn bản dưới luật nhằm hiện thực hóa Bộ luật thương mại, chương về logistics. Đề nghị mở các bộ môn và khoa logistics trong các trường đại học, cao đẳng kinh tế ngoại thương. Tìm kiếm các nguồn tài trợ trong nước và quốc tế cho các chương trình đào tạo ngắn hạn trong và ngoài nước. Phối hợp và tranh thủ hợp tác với các tổ chức FIATA, IATA và các tổ chức phi chính phủ khác để có nguồn kinh phí đào tạo thường xuyên hơn. Về tổ chức tuyên truyền, VIFFAS nên tổ chức xuất bản một tờ tạp chí riêng (như tờ Việt Nam Logistics chẳng hạn) cho mình để làm diễn đàn cho các hội viên tham gia đóng góp ý kiến về các vấn đề thuộc về ngành nghề của mình, có tiếng nói với chính phủ, các cơ quan quản lý và hoạch định chính sách cũng như xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành logistics Việt Nam. Các chương trình đào tạo sẽ được thông báo rộng rãi đến các hội viên để tích cực tham gia và tổ chức đào tạo. VIFFAS sẽ cung cấp các sách báo, tài liệu nghiệp vụ cho các hội viên để tham khảo. Về ngắn hạn các công ty, doanh nghiệp có thể thông báo cho Hiệp hội về nhu cầu đào tạo, các lĩnh vực quan tâm cũng như mời các chuyên gia kinh nghiệm đào tạo nội bộ doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hiện nay đang có kế hoạch đầu tư con người để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi và cung cấp dịch vụ có hàm lượng chất xám cao hơn. Đào tạo và chuyên môn hóa lực lượng lo thủ tục Hải quan trong các công ty giao nhận quốc tế. Xây dựng kế hoạch, cử người đi tham quan, học hỏi ở nước ngoài, có chính sách đãi ngộ tốt và xứng đáng với các nhân viên giỏi chuyên môn, kỹ thuật. Đào tạo và tái đào tạo nguồn lực hiện có, thu hút lao động từ xã hội có trình độ đại học, cao đẳng chuyên ngành liên quan, am tường ngoại ngữ, có kiến thức địa lý, ngoại thương, cập nhật thường xuyên kỹ thuật mới trong nghiệp vụ giao nhận vận tải quốc tế. Các công ty cần có chương trình hỗ trợ sinh viên thực tập, thuyết trình về thực tiễn hoạt động ngành hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới cho sinh viên. Các công ty phải có đóng góp vật chất cụ thể cho đào tạo, hỗ trợ chuyên môn cho các trường nếu muốn sử dụng sinh viên tốt nghiệp từ những trường này. Việc có đúng người với đúng kỹ năng là bước đầu tiên tiến tới sự hoàn hảo trong chuỗi cung ứng. Để tiếp cận với đúng kỹ năng cần thiết sẽ đòi hỏi một chiến lược nhân sự vững chắc bao gồm cả việc phát triển những nhân viên tài năng từ mảng chuỗi cung ứng, từ những phòng ban và thậm chí là từ các công ty khác, tuyển chọn những sinh viên ưu tú từ các trường đại học. Ngoài ra cần có chương trình đánh giá chi tiết kiến thức và kỹ năng nhân viên thường xuyên để có những chương trình đào tạo và huấn luyện phù hợp. Những nỗ lực này sẽ giúp DN đạt tới mục tiêu chung. Có thể khẳng định tính cấp thiết của việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cung cấp cho dịch vụ logistics. Theo nhiều chuyên gia, nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của chúng ta là phải cập nhật những kiến thức luật pháp trong nước và quốc tế về vận tải đa phương thức, các hoạt động chính của logistics và kỹ năng vận hành dịch vụ logistics cho nguồn nhân lực hiện có. Song song với việc đào tạo nghiệp vụ chuyên môn là đào tạo nâng cao trình độ tiếng Anh, đảm bảo được việc giao dịch, thủ tục và lập chứng từ nghiệp vụ. Việc đào tạo cần được tiến hành ở cả ba cấp độ cán bộ hoạch định chính sách, quản lý và nghiệp vụ cụ thể. Một nguồn nhân lực được đào tạo bài bản sẽ là chìa khoá thành công cho các doanh nghiệp kinh doanhlogistics của chúng ta vốn còn đang rất nhỏ lẻ và thiếu kinh nghiệm “chiến trường”. Với bài toán về nhân lực, trước mắt cần tổ chức thêm nhiều lớp bồi dưỡng kiến thức logistic trong nước và nước ngoài thông qua các tổ chức như Uỷ ban Kinh tế và Xã hội Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP), Hiệp hội Giao nhận Châu Á (AFFA), Liên đoàn các Hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA)... Về lâu dài, cần chú trọng phát triển các khóa đào tạo dài hạn tại các trường đại học, cao đẳng. “Một trong các chiến lược dài hạn phát triển nguồn nhân lực cho ngành logistics là mở các bộ môn và khoa logistics trong các trường đại học, cao đẳng kinh tế, ngoại thương... Thực hiện tốt các giải pháp có tính định hướng nói trên sẽ góp phần tăng cường xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics ở nước ta. Một nguồn nhân lực tốt, chất lượng sẽ là tiền đề cho sự phát triển và tăng cường mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập trước và sau WTO. Các giải pháp về nguồn nhân lực nói trên sẽ góp phần thúc đẩy kinh doanh giao nhận vận tải Việt Nam vượt qua những khó khăn hiện tại để có thể vững bước vào thế kỷ 21 bằng chính đôi chân của mình, lạc quan và thắng lợi. KẾT LUẬN Hòa cùng nhịp đập phát triển kinh tế của cả nước, thị trường logisitics trong nước cũng đang được coi là phát triển “nóng”, là một mảng thị trường khá mới mẻ mặc dù đã rất phổ biến trên thế giới. Dịch vụ được xem là tâm điểm của sự phát triển kinh tế thương mại này tuy đã xuất hiện nhiều năm tại nước ta nhưng vẫn còn manh mún, phân tán và hoạt động kém hiệu quả. Logistics Việt Nam đang trên đà phát triển tuy nhiên nguồn nhân lực vừa “thiếu” lại vừa “yếu”,cộng thêm những lý do: Trình độ công nghệ logistics (mang tính chất thủ công giấy tờ), khả năng ứng dụng công nghệ thông tin kém, phương tiện vận tải còn lạc hậu, củ kỹ, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng không đáp ứng yêu cầu, tổ chức quản lý không đồng bộ, nên thực tế, hầu hết DN VN chỉ như những nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh, làm thuê cho các công ty logistics nước ngoài, chỉ cung cấp những dịch vụ cơ bản như khai quan, vận tải, chưa có doanh nghiệp nào đủ sức tổ chức, điều hành toàn bộ quy trình hoạt động logistics. Để logistics nước ta thật sự phát triển thì ngay từ bây giờ cần phải có nhiều sự thay đổi đăc biệt là việc phát triển nguồn nhân lực logistic. Một tín hiệu đáng mừng cho nguồn nhân lực logistic Việt Nam là sự chuyển biến tích cực trong công tác đào tạo. Trong những năm trở lại đây một số trường đại học đã nhận thức được tầm quan trọng trong công tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành đã mở thêm những chuyên ngành đào tạo nguồn nhân lực thật sự có hiệu quả bổ sung nguồn nhân lực kịp thời để nhanh chóng khắc phục được tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực trầm trọng cả về chất và lượng như hiện nay. Đơn cử như việc khẩn trương đào tạo trong năm 2008, Khoa kinh tế vận tải biển (Đại học Giao thông vận tải Tp.HCM) đã lần đầu tiên trong cả nước mở chuyên ngành Quản trị logistics và vận tải đa phương thức. Chuyên ngành nhằm đào tạo những nhân sự có kiến thức chuyên sâu về việc tổ chức khai thác, kinh doanh, và quản lý trong lĩnh vực logistics ở mức độ quốc gia và quốc tế; có kiến thức về kinh doanh và quản lý vận tải đa phương thức, sử dụng hiệu quả hệ thống công nghệ thông tin vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp; có kiến thức về việc thiết kế mạng lưới logistics và xây dựng chuỗi cung ứng hiệu quả, dự báo nhu cầu khách hàng, phân tích và lập kế hoạch logistics cho các doanh nghiệp kinh doanh và sản xuất. Đó chỉ là một trong số những đơn vị điển hình cho việc phát triển nguồn nhân lực nước. Nguồn nhân lực logistics Việt Nam nói riêng và logistic Việt Nam nói chung hứa hẹn sẽ có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian tới, sẽ đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nươc ngoài. Nguồn nhân lực Logistics Việt Nam là đề tài tương đối rộng, khó và cần có nhiều điều tra khảo sát thực tế. Vì vậy, với trình độ lý luận về logistics của chúng tôi như hiện nay cùng với những kinh nghiệm thực tế chưa có nên bài viết sẽ khó tránh khỏi những sai sót. Nhóm chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy và các bạn để chúng tôi có thể hoàn thiện bài viết tốt hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctl9_9159.doc
Tài liệu liên quan