Tình trạng sâu răng của học sinh
Tỷ lệ sâu răng rất cao, 86,4%, smt-r và SMTR lần lượt là 3,08±2,6 và 0,97±1,31. Chỉ số SiC là
7,71. Có sự chênh lệch rất lớn giữa SiC và SMTR, smt-r, cho thấy sự phân cực về tình trạng sâu
răng giữa các cá thể trong cộng đồng (tỷ lệ % sâu
răng thấp là 18,34%, tỷ lệ % sâu răng cao là
26,92%).
So sánh đặc điểm nước bọt giữa hai nhóm
học sinh sâu răng thấp và sâu răng cao
- Trung bình pH nước bọt không kích thích
và pH nước bọt kích thích.
Đa số pH nước bọt không kích thích lẫn
nước bọt kích thích của mẫu nghiên cứu đều
>6,8, chỉ có 7,2% (11 trẻ) có pH<6. Trung bình pH
nước bọt không kích thích ở nhóm sâu răng thấp
là 7,31±0,476, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm sâu răng cao là 6,86± 0,65; tương tự, pH
nước bọt có kích thích ở nhóm sâu răng thấp là
7,62±0,337, nhóm sâu răng cao là 7,21±0,609.
- Trung bình lưu lương nước bọt kích thích
Trung bình lưu lượng nước bọt kích thích
của nhóm sâu răng thấp và sâu răng cao là 1,07 ±
0,45 và 0,94 ± 0,42. Không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê.
- Phân tích hồi quy chung về ảnh hưởng của
các yếu tố nước bọt lên tình trạng sâu răng cao
của học sinh 9-10 tuổi.
Trong nghiên cứu này, yếu tố pH nước bọt
không kích thích thấp, trung bình và yếu tố lưu
lượng nước bọt thấp là 2 yếu tố nguy cơ có liên
quan đến tình trạng sâu răng nhiều nhất. Học
sinh có pH nước bọt không kích thích thấp và
trung bình (pH<6,8) có nguy cơ sâu răng cao cao
gấp 3,83 lần so với trẻ có pH nước bọt cao
(p<0,05). Học sinh có lưu lượng nước bọt thấp
(<0,7ml/phút) có nguy cơ sâu răng cao cao gấp
3,45 lần so với trẻ có lưu lượng nước bọt trung
bình và cao (p<0,05).
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguy cơ sâu răng của trẻ 9-10 tuổi có sâu răng cao tại quận Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 146
NGUY CƠ SÂU RĂNG CỦA TRẺ 9-10 TUỔI CÓ SÂU RĂNG CAO
TẠI QUẬN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Ngọc Diệp*, Ngô Thị Quỳnh Lan**
TÓM TẮT
Việc khảo sát ảnh hưởng của nước bọt lên sự phân cực sâu răng ở trẻ em tại Việt Nam vẫn còn khá hiếm.
Mục tiêu: So sánh đặc điểm yếu tố nước bọt giữa 2 nhóm học sinh 9-10 tuổi sâu răng thấp và sâu răng cao tại
Bình Chánh.
Phương pháp nghiên cứu: Chọn mẫu thuận tiện gồm toàn bộ 338 học sinh 9, 10 tuổi tại trường Nguyễn
Văn Trân để đánh giá tình trạng sâu răng, sau đó lọc ra 153 học sinh vào hai nhóm (nhóm SR thấp: 62 học sinh
có SMT-R=0 hoặc smt-r ≤1; Nhóm SR cao có 91 học sinh có SMT-R và smt-r ≥SiC). Ghi nhận tình trạng xoang
sâu (theo tiêu chí của WHO, 1997); thu thập nước bọt của học sinh ở cả 2 nhóm SR thấp và SR cao, sử dụng bộ
Saliva check -GC Nhật Bản để đo lường các đặc điểm gồm: lưu lượng nước bọt không kích thích và kích thích;
pH, khả năng đệm và độ nhớt nước bọt.
Kết quả: Tỷ lệ sâu răng rất cao, 86,4%, smt-r và SMT-R lần lượt là 3,08±2,6 và 0,97±1,31. Chỉ số SiC là
7,71; Trung bình pH nước bọt không kích thích ở nhóm sâu răng thấp là 7,31±0,476, cao hơn có ý nghĩa thống kê
so với nhóm sâu răng cao là 6,86± 0,65; tương tự, pH nước bọt có kích thích ở nhóm sâu răng thấp là
7,62±0,337, nhóm sâu răng cao là 7,21±0,609; Trung bình lưu lượng nước bọt kích thích của nhóm sâu răng
thấp và sâu răng cao là 1,07±0,45 và 0,94± 0,42 (p>0,05).
Kết luận: yếu tố pH nước bọt không kích thích thấp, trung bình và yếu tố lưu lượng nước bọt thấp là 2 yếu
tố nguy cơ có liên quan đến tình trạng sâu răng nhiều nhất.
Từ khóa: nguy cơ sâu răng, yếu tố nước bọt.
ABSTRACT
RISK FACTORS ASSOCIATED WITH SEVERE CARIES AMONG 9-10 YEARS-OLD CHILDREN IN
BINH CHANH DISTRICT, HCMC
Nguyen Thi Ngoc Diep, Ngo Thi Quynh Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 146 - 154
There have been but few investigations into the role of saliva in the different categories of caries-bearing
among Vietnamese children.
Objectives: the aim of this study was to compare saliva factor in 2 groups of 9-10 years-old school children
with low and high prevalence of caries in Binh Chanh.
Materials and method: a convenient population of 338 children aged 9-10 was selected from Nguyen Van
Tran primary school to evaluate dental caries, among which 153 children were divided into 2 groups (low caries:
62 children with DMF-T=0 or dmf-t≤1, high caries: 91 children with DMF-T and dmf-t≥SiC). Caries were
recorded according to WHO 1997 and saliva was collected with Saliva check by GC, Japan to evaluate non-
stimulated and stimulated saliva flow, pH, buffering capacity and viscosity.
Results: very high caries were observed in 86,4% with dmf-t and DMF-T at 3.08±2.6 and 0.97±1.31
* Bệnh Viện RHM TW tại TP HCM, ** Khoa RHM, Đại Học Y dược TP HCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Ngô Thị Quỳnh Lan, ĐT: 0903125864, Email: ngothiquynhlan@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 147
respectively. SiC was 7.71 pH of non-stimulated saliva in low caries group was 7.31±0.476, which was
significantly higher than in high caries group at 6.86± 0.65; pH of stimulated saliva was 7.62±0.337 in low caries
group at 7.21±0.609 in high caries group. Stimulated saliva flow was 1.07±0.45 in low caries group and 0.94±
0.42 (p>0.05) in high caries group.
Conclusions: low and average pH of non-stimulated saliva as well as low saliva flow were 2 risk factors of
caries.
Keywords: caries risk, saliva factor.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sâu răng được ghi nhận là một trong
những bệnh phổ biến trên thế giới, nhất là khu
vực Châu Á và Mỹ La Tinh. Liên đoàn Nha
khoa quốc tế (FDI) cũng cảnh báo nước ta là một
trong những nước có tỷ lệ trẻ em mắc bệnh sâu
răng cao nhất trên thế giới hiện nay.
Trong các yếu tố sinh học, nước bọt đóng vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe răng
miệng, sự thay đổi một hoặc vài yếu tố nước bọt
có thể làm xáo trộn cân bằng môi trường miệng,
ảnh hưởng đến khả năng khởi phát sang thương
sâu răng, sự trầm trọng cũng như khả năng lành
thương sâu răng (chỉ trong giai đoạn chưa thành
lổ sâu) trong cơ chế mất khoáng và tái khoáng.
Khảo sát vai trò nước bọt trong mối liên
quan với bệnh sâu răng khá phổ biến ở nhiều
nghiên cứu trên thế giới cũng như tại Việt Nam
trong những năm gần đây (Jentsch và cs, 2003;
Cao Hữu Tiến, 2002; Lê Võ Yến Nhi 2006;
Nguyễn Bạch Dương, 2007; Ngô Uyên Châu,
2006; Trần Thị Bích Vân, 2008)(3,10,14,15,18). Đa số các
nghiên cứu ở Việt Nam thiên về hướng xét các
tính chất nước bọt cùng với tình trạng sâu răng
của trẻ, sau đó tìm xem yếu tố nước bọt nào là
yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sâu răng.
Tuy nhiên, việc khảo sát ảnh hưởng của yếu
tố sinh học này lên sự phân cực sâu răng trong
cộng đồng, đặc biệt ở trẻ em vẫn còn khá hiếm.
Vì vậy nghiên cứu được thực hiện trên nhóm
học sinh 9-10 tuổi trường tiểu học Nguyễn Văn
Trân, huyện Bình Chánh TPHCM, với mục tiêu
tổng quát: So sánh đặc điểm yếu tố nước bọt
(pH nước bọt không kích thích, độ nhớt nớc bọt
không kích thích, pH nước bọt kích thích, khả
năng đệm nước bọt, độ nhớt nước bọt, lưu
lượng nước bọt kích thích) giữa 2 nhóm học sinh
9-10 tuổi sâu răng thấp và sâu răng cao tại
trường này.
Mục tiêu cụ thể
- Mô tả tỉ lệ và mức độ trầm trọng sâu răng
của học sinh 9-10 tuổi tại trường.
- So sánh đặc điểm yếu tố nước bọt (pH
nước bọt không kích thích, độ nhớt nước bọt
không kích thích, pH nước bọt kích thích, pH
mảng bám, khả năng đệm nước bọt, độ nhớt
nước bọt, lưu lượng nước bọt kích thích) giữa 2
nhóm học sinh 9-10 tuổi sâu răng thấp và sâu
răng cao tại trường
- Xác định mối liên quan của yếu tố nước bọt
nêu trên với tình trạng sâu răng cao của học sinh
9-10 tuổi tại trường.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại Trường tiểu
học Nguyễn Văn Trân, huyện Bình Chánh,
Tp.HCM với thiết kế cắt ngang mô tả.
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh 9-10 tuổi đang học tại trường tiểu
học Nguyễn Văn Trân. Đối với nghiên cứu điều
tra mẫu gồm toàn bộ 338 học sinh 9, 10 tuổi; Cỡ
mẫu trong giai đoạn phân tích gồm 153 học sinh
đáp ứng tiêu chí chọn vào hai nhóm (62 học sinh
sâu răng thấp có SMT-R=0 hoặc smt-r ≤ 1; 91 học
sinh sâu răng cao có SMT-R và smt-r ≥ SiC).
Quy trình nghiên cứu
Bước 1: khám lâm sàng tình trạng sâu răng
của 338 học sinh 9-10 tuổi trong mẫu nghiên cứu
theo tiêu chí WHO (1997), ngay tại trường học.
Bước 2: sàng lọc cá thể nghiên cứu vào 2
nhóm sâu răng thấp và sâu răng cao (SMT-
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 148
R≥SiC). Loại bỏ ra khỏi mẫu các cá thể có sâu
răng thấp và trung bình (1≤ SMT-R< SiC).
Bước 3: thu thập nước bọt của học sinh ở cả 2
nhóm, sử dụng bộ Saliva check -GC Nhật Bản
để đo lường các đặc điểm gồm: lưu lượng nước
bọt không kích thích và kích thích; pH, khả năng
đệm và độ nhớt nước bọt.
Bước 4: Phân tích và so sánh các đặc điểm
nêu trên bằng những phương pháp thống kê
thích hợp.
Đánh giá tình trạng sâu răng
Ghi nhận tình trạng xoang sâu (theo tiêu chí
của WHO, 1997), tính:
1. Tỷ lệ % sâu răng toàn bộ: là tỷ lệ % số
người hiện mắc trong cộng đồng.
2. Chỉ số sâu mất trám: là chỉ số nhằm xác
định tình trạng sâu răng quá khứ và hiện tại.
3. Chỉ số SiC (chỉ số sâu răng đáng kể): là chỉ
số bổ sung cho chỉ số SMT (smt), nhằm đề cập
đến những cá thể có nguy cơ sâu răng cao trong
quần thể (SiC là số trung bình SMT-R (smt-r) của
1/3 quần thể có SMT-R (smt-r) cao nhất).
Đánh giá các đặc điểm nước bọt
Độ nhớt nước bọt
Độ nhớt cao: Đặc, quánh có bọt, nước bọt
kéo thành sợi dài > 5cm.
Độ nhớt trung bình: Nhày, không đọng lại,
nước bọt kéo thành sợi ngắn < 5cm.
Độ nhớt thấp: Loãng như nước, tạo lớp bóng
ở sàn miệng, nước bọt không tạo thành sợi, đứt
đoạn ngay khi kéo lên.
Xác định pH nước bọt
Đo bằng giấy chỉ thị màu, nhúng mảnh giấy
chỉ thị màu vào mẫu nước bọt trong 10 giây, đối
chiếu màu của giấy quỳ với bảng mẫu của nhà
sản xuất.
pH = 5,0-5,8: pH thấp, pH = 6,0-6,6: pH trung
bình, pH = 6,8-7,8: pH cao.
Lưu lượng không kích thích nước bọt nhổ ra
sau 5 phút
<3,5ml: lưu lượng nước bọt thấp.
3,5-5ml: lưu lượng nước bọt trung bình.
>5,0ml: lưu lượng nước bọt cao.
Đo khả năng đệm của nước bọt (bằng bộ
Saliva check của hãng GC Nhật Bản)
Theo hướng dẫn của nhà sản xuất (giấy chỉ
thị màu); xếp hạng khả năng đệm của nước bọt:
0-5 điểm: khả năng đệm thấp.
6-9 điểm: khả năng đệm trung bình.
10-12 điểm: khả năng đệm cao.
Dùng phần mềm SPSS 15.0 để xử lý số liệu.
KẾT QUẢ - BÀN LUẬN
Tình trạng sâu răng
Tỷ lệ % sâu răng toàn bộ.
Tỷ lệ % sâu răng của học sinh 9-10 tuổi trong
mẫu nghiên cứu là 86,4%, trong đó tỷ lệ % sâu
răng của học sinh 9 tuổi và 10 tuổi lần lượt là
90% và 83,1%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về phân bố tỷ lệ % sâu răng giữa học
sinh nam và nữ ở nhóm học sinh 9 tuổi, nhóm 10
tuổi và học sinh 9-10 tuổi (p>0,05) (bảng 1).
Bảng 1: Tỷ lệ % sâu răng toàn bộ.
9 tuổi 10 tuổi Chung
Có SRN (%)
Không
SR
n (%)
Có SR
n (%)
Không
SR
n (%)
Có SR
N (%)
Không
SR
N (%)
Nam 77 (89,5%)
9
(10,5%)
87
(83,7%)
17
(16,3%)
164
(86,3%)
26
(15,7%)
Nữ 67 (90,5%) 7 (9,5%)
61
(82,4%)
13
(17,6%)
128
(86,5%)
20
(13,5%)
Chung 144 (90%)
16
(10%)
148
(83,1%)
30
(16,9%)
292
(86,4%)
46
(13,6%)
P (nam/
nữ) 0,833 0,83 0,964
Kiểm định2.
Mức độ bệnh sâu răng
Mức độ bệnh sâu răng của quần thể được
đánh giá qua SMT-R, smt-r và SiC. Ở nhóm 10
tuổi, sự khác biệt về trung bình SMT-R, smt-r
giữa trẻ nam và nữ có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 149
Bảng 2: Trung bình sâu mất trám của mẫu nghiên cứu.
9 tuổi 10 tuổi Chung
Smt-r SMT-R smt-r SMT-R smt-r SMT-R
TB±ĐLC TB±ĐLC TB±ĐLC TB±ĐLC TB±ĐLC TB±ĐLC
Nam 3,87±2,85 0,77±1,13 2,64±2,45 0,92±1,25 3,2±2,7 0,85±1,2
Nữ 3,95±2,68 0,86±1,24 1,91±2,12 1,38±1,55 2,93±2,62 1,12±1,42
Chung 3,91±2,76 0,81±1,18 2,34±2,34 1,11±1,4 3,08±2,6 0,97±1,31
P nam/nữ 0,867 0,605 0,033 0,039 0,384 0,066
Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập.
Kết quả SiC ở bảng 3.5 cho thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về chỉ số SiC giữa
nam và nữ ở cả hệ răng sữa và răng vĩnh viễn
của học sinh 9 tuổi, 10 tuổi và học sinh 9-10 tuổi
(p>0,05). Ngoại trừ SiC răng sữa ở trẻ 9 tuổi và
trẻ 9-10 tuổi có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
cao (p<0,05) (bảng 3).
Bảng 3: SiC của mẫu nghiên cứu.
SiC Nam Nữ Chung P
9 tuổi
SiC sữa 7,21±2,01 5,93±1,76 6,43±1,95 0,006
SiC vĩnh viễn 2,29±1,04 2,24±1,05 2,27±1,04 0,864
SiC chung 8,1±2,26 7,85±1,97 7,97±2,1 0,639
10 tuổi
SiC sữa 6,31±1,23 5,92±1,44 6,2±1,29 0,38
SiC vĩnh viễn 2,52±1,03 2,97±1,08 2,73±1,07 0,09
SiC chung 7,55±1,88 7,14±1,98 7,38±1,91 0,46
9-10 tuổi
SiC sữa 6,75±1,7 5,93±1,68 6,34±1,69 0,01
SiC vĩnh viễn 2,42±1,03 2,64±1,12 2,53±1,08 0,276
SiC chung 7,83±2,08 7,57±1,99 7,71±2,05 0,506
Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập.
Điều này chứng tỏ trong cộng đồng này có ít
nhất là 1/3 số cá thể có SMT-R, smt-r rất cao bên
cạnh những trẻ sâu răng thấp, một sự phân cực
rõ rệt về mức độ bệnh. Vì vậy giá trị SMT-R,
smt-r không thể là đặc trưng của mẫu khi đánh
giá về mức độ của bệnh. So sánh với các nghiên
cứu khác(2,10,14,15), tỷ lệ bệnh trong nghiên cứu cao
hơn rất nhiều.
So sánh đặc điểm nước bọt giữa hai nhóm
sâu răng thấp và sâu răng cao.
So sánh trung bình pH nước bọt không kích
thích, nước bọt kích thích
Bảng 3: So sánh trung bình pH nước bọt giữa 2
nhóm sâu răng thấp và sâu răng cao.
pH
Nước bọt không
kích thích Nước bọt kích thích
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Nhóm sâu
răng thấp 7,31 0,476 7,62 0,337
Nhóm sâu
răng cao 6,86 0,65 7,21 0,609
P <0,001 <0,001
Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập.
pH nước bọt là chỉ số thể hiện độ axit hay kiềm
của nước bọt. Bình thường, pH tới hạn pH mà tại
đó nước bọt bão hòa với apatite men răng (Dawes,
1996)(4) của hydroxyapatide là 5,5 gần bằng với pH
nước bọt không kích thích, pH nước bọt không
kích thích thấp hơn mức độ này có thể xảy ra sự
mất khoáng. Trong nghiên cứu này, kết quả pH
nước bọt không kích thích của nhóm sâu răng thấp
và sâu răng là 7,31 ± 0,476; 6,86 ± 0,65. Có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về trung bình pH nước bọt
không kích thích giữa hai nhóm sâu răng thấp và
sâu răng cao. Khi so sánh kết quả pH không kích
thích với các nghiên cứu khác, nhận thấy có các kết
quả khác nhau, cao hơn kết quả của Bùi Đăng
Quốc Thái (2003)(2), Mohammad (2008)(13), Sanchez
(2003)(17) và tương đương với Tulunoglu (2006)(19),
Preethi (2010)(16). Có lẽ do nghiên cứu ở các độ tuổi
khác nhau, nên cho kết quả khác nhau, nhưng nhìn
chung các nghiên cứu khi so sánh giữa hai nhóm
sâu răng thấp và sâu răng cao thì trung bình pH
không kích thích ở nhóm sâu răng thấp luôn cao
hơn nhóm sâu răng cao.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 150
Bảng 3: So sánh trung bình pH nước bọt không kích thích giữa nghiên cứu này và các nghiên cứu khác.
Tác giả Địa điểm nghiên cứu
Đối tượng
nghiên cứu
Trung bình pH KKT
Nhóm SR thấp Nhóm SR cao
Tulunoglu (2006) Thổ Nhĩ Kì 7-10 tuổi Nữ: 7,26±0,45
Nam:7,03±0,43
Nữ: 7,18±0,2
Nam: 7,22±0,33
Preethi (2010) Ấn Độ 7-10 tuổi Nữ: 7,15±0,15
Nam: 7,28±0,34
Nữ: 7,07±0,43
Nam: 7,24±0,45
Mohammad (2008) Iran ≥43 tuổi 6,76±0,03 6,67±0,03
Sanchez (2003) Argentina 4-10 7,12±0,05 6,55±0,07
Bùi Đăng Quốc Thái (2003) Tp.HCM 6-8 tuổi 6,76±0,38 6,5±0,34
Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2010) Huyện Bình Chánh 9-10 tuổi 7,31±0,476 6,86±0,65
Khi so sánh phân bố các mức pH nước bọt
không kích thích giữa hai nhóm sâu răng thấp
và sâu răng cao: tỷ lệ % học sinh có pH thấp
trong nhóm sâu răng cao là 11%, cao hơn rất
nhiều so với nhóm học sinh sâu răng thấp, chỉ có
1,6%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về sự
phân bố các mức pH không kích thích giữa hai
nhóm học sinh này. Kết quả này tương tự với
kết quả của Gopinath, 2006(9). Kết quả này góp
phần chứng minh những cá thể pH nước bọt
thấp có nguy cơ sâu răng cao thể hiện tình trạng
sâu răng cao. Về pH nước bọt kích thích cũng
được phân thành ba mức độ thấp, trung bình và
cao. Trong đó, đa số học sinh có pH cao, kế đến
là nhóm có pH trung bình và thấp nhất là nhóm
có pH thấp. Khi so sánh phân bố các mức pH
kích thích giữa hai nhóm sâu răng và sâu răng
thấp, nhận thấy tỷ lệ % học sinh có pH thấp và
trung bình ở hai nhóm tương ứng là 27,5% và
4,8%. Nghĩa là ở nhóm sâu răng cao, có tỷ lệ %
học sinh có pH thấp (nguy cơ sâu răng cao) thì
nhiều hơn nhóm sâu răng thấp.
So sánh trung bình lưu lượng nước bọt kích
thích giữa hai nhóm sâu răng thấp và sâu
răng cao
Kết quả cho thấy lưu lượng nước bọt trung
bình của nhóm sâu răng thấp là 1,07ml/phút,
nhóm sâu răng cao là 0,94. Không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về trung bình lưu lượng
nước bọt kích thích giữa nhóm sâu răng thấp và
sâu răng cao (p>0,05).
Liên quan giữa lưu lượng nước bọt kích
thích và sự gia tăng sang thương sâu răng đã
được nghiên cứu một cách rộng rãi. Thiếu nước
bọt hoàn toàn, khô tuyến, hoặc lưu lượng nước
bọt kích thích thấp có thể dẫn đến kết quả tăng
nguy cơ sâu răng trầm trọng. Hầu hết các
nghiên cứu tìm thấy tương quan nghịch giữa
lưu lượng nước bọt và nguy cơ sâu răng, và đã
được chứng minh ở một số nghiên cứu cắt
ngang. Tuy nhiên, điều này không hẳn luôn
luôn xảy ra, một vài nghiên cứu lại cho thấy mối
liên quan yếu, hoặc không có ý nghĩa thống kê
giữa lưu lượng nước bọt và sâu răng xảy ra ở
nhóm thanh thiếu niên từ 15-18 tuổi. Theo kết
quả nghiên cứu, lưu lượng nước bọt kích thích
trung bình ở nhóm học sinh sâu răng thấp và
nhóm học sinh sâu răng cao là 1,07± 0,45 và
0,94± 0,42. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về
trung bình lưu lượng nước bọt kích thích giữa
hai nhóm học sinh này. Điều này có thể được
giải thích là do giới hạn bình thường của lưu
lượng nước bọt là rất lớn, nên giữa các cá thể
khỏe mạnh bình thường, sự chênh lệch về giá trị
này cũng rất lớn (Dawes, 1996)(4). Theo Dawes,
1996: nhóm sâu răng cao có lưu lượng nước bọt
thấp có thể do kết hợp với các yếu tố khác như
thiếu lượng nước, thiếu kích thích đến tuyến
nước bọt hoặc vấn đề của chính tuyến nước bọt.
Thật ra, cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu
rõ về cơ chế sinh học của sự thay đổi này.
Nhưng một điều mà hầu như các tác giả đều
đồng ý là khi lưu lượng nước bọt nhiều thì khả
năng làm sạch cơ học của nước bọt càng tăng,
tốc độ làm sạch các mảnh vụn thức ăn, làm sạch
đường và các sản phẩm axit sinh ra từ sự lên
men đường của vi khuẩn càng cao, do đó sâu
răng càng giảm. Trong nghiên cứu này, nhóm
trẻ sâu răng thấp có lưu lượng nước bọt kích
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 151
thích cao hơn nhóm trẻ sâu răng cao, nhưng
khác biệt không có ý nghĩa. Kết quả cũng phù
hợp với nghiên cứu Cao Hữu Tiến, 2002(3);
Akpata, 2009(1). Nhưng kết quả này khác với
Sanchez, 2003(17), cho rằng có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về trung bình lưu lượng nước
bọt kích thích giữa hai nhóm sâu răng thấp và
sâu răng cao. Các nghiên cứu thực hiện trên các
lứa tuổi khác nhau, nhưng nhìn chung, thì lưu
lượng nước bọt ở nhóm sâu răng thấp luôn cao
hơn nhóm sâu răng cao.
Khả năng đệm nước bọt kích thích
Xét về mức độ các loại khả năng đệm nước
bọt kích thích của hai nhóm sâu răng thấp và
sâu răng cao, nhận thấy ở nhóm sâu răng cao,
27,4% học sinh có khả năng đệm thấp, ở nhóm
sâu răng thấp, tỷ lệ này là 11,3%. Tỷ lệ học sinh
có khả năng đệm nước bọt kích thích cao, trung
bình, thấp ở nhóm sâu răng thấp lần lượt là:
40,3%, 48,4%, 11,3%, ở nhóm sâu răng cao là:
26,4%, 46,2%, 27,4%. Có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về sự phân bố các mức khả năng đệm
nước bọt kích thích giữa hai nhóm học sinh sâu
răng thấp và sâu răng cao (p<0,05).
Có nhiều bằng chứng cho rằng, khả năng
đệm của nước bọt bảo vệ răng chống lại sâu
răng (Lendenmann và Oppenheim, 2000)(11).
Chúng tôi nhận thấy trong nhóm sâu răng cao,
học sinh có khả năng đệm thấp chiếm tỷ lệ cao
hơn so với nhóm sâu răng thấp. Có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cũng phù hợp
với nghiên cứu của Gopinath, 2006(9); Sanchez,
2003(17). Nhưng không giống với kết quả nghiên
cứu của Akpata và cs, 2009(1), cho rằng khả năng
đệm chống lại sâu răng của hai nhóm sâu răng
thấp và sâu răng thì tương đương nhau, mặc dù
mức khả năng đệm thấp ở nhóm sâu răng cao
chiếm tỷ lệ cao hơn nhưng sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê.
Hầu hết các nghiên cứu trước đây như
Edgar, 1995(5) cho rằng khả năng đệm nước bọt
tương quan nghịch với chỉ số sâu răng. Khả
năng đệm nước bọt phụ thuộc vào lưu lượng
nước bọt, vì khi lưu lượng nước bọt tăng sẽ làm
tăng nồng độ protein, calcium, chloride và
bicarbonate. Quan trọng nhất là tăng nồng độ
bicarbonate giúp tăng khả năng đệm nước bọt.
Thành phần nước bọt cũng phụ thuộc khoảng
thời gian kích thích nước bọt.
Phân tích tổng hợp ảnh hưởng của các yếu tố
nước bọt lên tình trạng sâu răng cao.
Bảng 6: So sánh đặc điểm các yếu tố nước bọt giữa
hai nhóm học sinh sâu răng thấp và sâu răng cao
N (%) Cao n (%) Trung
bình n
(%)
Thấp n
(%)
ĐỘ NHỚT NB KKT
Nhóm sâu răng
thấp
62
(100%) 5 (8,05%)
52
(83,9%)
5 (8,05%)
Nhóm sâu răng
cao
91
(100%)
18
(19,8%)
65
(71,4%)
8 (8,8%)
P=0,126
pH NB KKT
Nhóm sâu răng
thấp
62
(100%)
54
(87,1%)
7 (11,3%) 1 (1,6%)
Nhóm sâu răng
cao
91
(100%)
54
(59,3%)
27
(29,7%)
10 (11%)
P*= 0,001
pH NB KT
Nhóm sâu răng
thấp
62
(100%)
59
(95,2%)
3 (4,8%) 0 (0%)
Nhóm sâu răng
cao
91
(100%)
66
(72,5%)
22
(24,2%)
3 (3,3%)
P*=0,002
LƯU LƯỢNG NB KT
Nhóm sâu răng
thấp
62
(100%)
22
(35,5%)
33
(53,2%)
7 (11,3%)
Nhóm sâu răng
cao
91
(100%)
28
(30,8%)
39
(42,8%)
24
(26,4%)
P=0,073
KHẢ NĂNG ĐỆM NB KT
Nhóm sâu răng
thấp
62
(100%)
25
(40,3%)
30
(48,4%)
7 (11,3%)
Nhóm sâu răng
cao
91
(100%)
24
(26,4%)
42
(46,2%)
25
(27,4%)
P=0,032
(kiểm định 2; (*) Kiểm định chính xác Fisher).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 152
Biểu đồ 1: So sánh đặc điểm các yếu tố nước bọt giữa hai nhóm học sinh sâu răng thấp và sâu răng cao.
Vai trò quan trọng của nước bọt trong việc
duy trì sức khỏe răng miệng, từ lâu đã được
công nhận (Edgar và cs, 1995)(5). Nước bọt là yếu
tố bảo vệ chủ yếu trong khoang miệng, cung cấp
sự bảo vệ cho mô cứng và mô mềm, đảm bảo
cho các hoạt động chức năng trong khoang
miệng (Mandel, 2000)(12). Tuy nhiên, tùy thuộc
vào những thay đổi đặc tính của nó, nó sẽ trở
thành yếu tố bảo vệ hay nguy cơ. Theo kết quả
nghiên cứu, khi xét riêng từng yếu tố nước bọt
thì yếu tố độ nhớt nước bọt và lưu lượng nước
bọt là hai yếu tố không liên quan đến tình trạng
sâu răng (p>0,05). Các yếu tố còn lại là pH nước
bọt không kích thích, pH nước bọt có kích thích,
khả năng đệm nước bọt có kích thích là có liên
quan đến tình trạng sâu răng (p<0,05).
Tuy nhiên, do sâu răng là bệnh đa yếu tố
nên không thể xét riêng lẽ từng yếu tố nước bọt.
Vì vậy, phân tích hồi quy chung về ảnh hưởng
của các yếu tố nước bọt lên tình trạng sâu răng
cao của học sinh 9-10 tuổi mới thấy tác động
tổng thể của nó. Kết quả phân tích cho thấy yếu
tố pH nước bọt không kích thích thấp và trung
bình và yếu tố lưu lượng nước bọt thấp là 2 yếu
tố nguy cơ sâu răng cao nhất.
Học sinh có pH nước bọt không kích thích
thấp và trung bình có nguy cơ sâu răng cao
gấp 3,83 lần so với trẻ có pH nước bọt cao
(p<0,05). Học sinh có lưu lượng nước bọt kích
thích thấp có nguy cơ sâu răng cao gấp 3,45
lần so với trẻ có lưu lượng nước bọt trung bình
và cao (p<0,05).
Lưu lượng nước bọt được xem là thông số
lâm sàng quan trọng nhất của nước bọt ảnh
hưởng đến sự nhạy cảm sâu răng của cá thể.
Trong thực hành lâm sàng, đo lường lưu lượng
nước bọt được chỉ định như thử nghiệm khởi
đầu ở một bệnh nhân mới trước khi điều trị sâu
răng. Giảm lưu lượng nước bọt sẽ kèm theo
giảm hệ thống bảo vệ của xoang miệng, một số
đặc tính như tính kháng khuẩn, khả năng đệm,
tái khoáng hóa và làm sạch của nước bọt bị mất
đi, gây ra sâu răng trầm trọng và viêm niêm
mạc miệng (Fejerskov, 2003(7,8); Ferguson,
2006(5)). Sâu răng là hậu quả phổ biến nhất của
thiểu sản tuyến nước bọt, sâu răng tiến triển
nhanh trên các bề mặt răng thường ít nhạy cảm
với sâu răng, thường có chỉ số sâu răng cao
(Fejerskov, 2003).
Mô thức hồi quy logistic về ảnh hưởng của các
yếu tố nước bọt lên tình trạng sâu răng cao
của học sinh 9-10 tuổi (so với nhóm sâu răng
thấp)
Khi phân tích hồi quy chung về ảnh hưởng
của các yếu tố nước bọt lên tình trạng sâu răng
cao của học sinh 9-10 tuổi cho kết quả: yếu tố pH
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 153
nước bọt không kích thích thấp và trung bình và
lưu lượng nước bọt thấp là 2 yếu tố nguy cơ sâu
răng cao nhất.
Học sinh có pH nước bọt không kích thích
thấp và trung bình (pH<6,8) có nguy cơ sâu răng
cao cao gấp 3,83 lần so với trẻ có pH nước bọt
cao (p<0,05). Học sinh có lưu lượng nước bọt
thấp (<0,7ml/phút) có nguy cơ sâu răng cao cao
gấp 3,45 lần so với trẻ có lưu lượng nước bọt
trung bình và cao (p<0,05).
Bảng 7: Mô thức hồi quy logistic về ảnh hưởng của các yêu tố nước bọt lên tình trạng sâu răng cao của học sinh
9-10 tuổi ( so với nhóm sâu răng thấp).
Đặc điểm nước bọt % Học sinh 9-10 tuổi có sâu răng cao n (%)
Hệ số hồi
quy B OR thô KTC 95%
OR hiệu
chỉnh KTC
95%
P
pH nước bọt không
kích thích
Cao 54 (50%) 1,344 4,63 (1,97-0,85) 3,83
(1,49-9,84)
0,005
Trung bình và thấp 37 (82,2%)
Lưu lượng nước bọt
kích thích
Trung bình và cao 67 (54,9%) 1,24 2,81 (1,13-7,02) 3,45 (1,33-
8,94)
0,011
Thấp 24 (77,4%)
Khả năng đệm nước
bọt kích thích
Cao và trung bình 66 (54,5%) 0,544 2,97 (1,2-7,4) 1,72 (0,57-
5,17)
0,33
Thấp 25 (78,1%)
Độ nhớt nước bọt
không kích thích
Cao 18 (78,3%) 0,335 2,8 (0,98-8,03) 1,4 (0,396-
4,93)
0,603
Trung bình và thấp 73 (56,2%)
KẾT LUẬN
Nghiên cứu đưa ra một số kết luận như sau:
Tình trạng sâu răng của học sinh
Tỷ lệ sâu răng rất cao, 86,4%, smt-r và SMT-
R lần lượt là 3,08±2,6 và 0,97±1,31. Chỉ số SiC là
7,71. Có sự chênh lệch rất lớn giữa SiC và SMT-
R, smt-r, cho thấy sự phân cực về tình trạng sâu
răng giữa các cá thể trong cộng đồng (tỷ lệ % sâu
răng thấp là 18,34%, tỷ lệ % sâu răng cao là
26,92%).
So sánh đặc điểm nước bọt giữa hai nhóm
học sinh sâu răng thấp và sâu răng cao
- Trung bình pH nước bọt không kích thích
và pH nước bọt kích thích.
Đa số pH nước bọt không kích thích lẫn
nước bọt kích thích của mẫu nghiên cứu đều
>6,8, chỉ có 7,2% (11 trẻ) có pH<6. Trung bình pH
nước bọt không kích thích ở nhóm sâu răng thấp
là 7,31±0,476, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm sâu răng cao là 6,86± 0,65; tương tự, pH
nước bọt có kích thích ở nhóm sâu răng thấp là
7,62±0,337, nhóm sâu răng cao là 7,21±0,609.
- Trung bình lưu lương nước bọt kích thích
Trung bình lưu lượng nước bọt kích thích
của nhóm sâu răng thấp và sâu răng cao là 1,07 ±
0,45 và 0,94 ± 0,42. Không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê.
- Phân tích hồi quy chung về ảnh hưởng của
các yếu tố nước bọt lên tình trạng sâu răng cao
của học sinh 9-10 tuổi.
Trong nghiên cứu này, yếu tố pH nước bọt
không kích thích thấp, trung bình và yếu tố lưu
lượng nước bọt thấp là 2 yếu tố nguy cơ có liên
quan đến tình trạng sâu răng nhiều nhất. Học
sinh có pH nước bọt không kích thích thấp và
trung bình (pH<6,8) có nguy cơ sâu răng cao cao
gấp 3,83 lần so với trẻ có pH nước bọt cao
(p<0,05). Học sinh có lưu lượng nước bọt thấp
(<0,7ml/phút) có nguy cơ sâu răng cao cao gấp
3,45 lần so với trẻ có lưu lượng nước bọt trung
bình và cao (p<0,05).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Akpata A. Al-Attar P.N. Sharma (2009). Factors Associated with
Severe Caries among Adults in Kuwait, Med Princ Pract, 18, pp.
93-99.
2. Bùi Đăng Quốc Thái (2003). Đánh giá pH nước bọt ở trẻ 6-8
tuổi có hoạt động sâu răng khác nhau. Luận văn tốt nghiệp
Bác sĩ Răng Hàm Mặt.
3. Cao Hữu Tiến (2002). Khảo sát một số yếu tố sinh hóa và vi
khuẩn trong nước bọt liên quan tới sâu răng. Luận văn Thạc
sĩ Y hoc.
4. Dawes C (1996). Factors influencing salivary flow rate and
composition. In Edgar WM, Mullance DM, eds. Saliva and oral
health. 2nd ed.London: British Dental Association, pp. 27-41.
5. Edgar, Higham (1995). Role of Saliva in Caries Models. Adv
Dent Res, 9(3), pp. 235-238.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 154
6. Fejerskov and Edwina Kidd (2003). Dental Caries. Blackwell
Munksgaard, second edition. pp 190-207.
7. Fejerskov O (1994). Textbook of Clinical Cariology. Munksgaard,
second edition, pp. 42, 103-104, 212.
8. Ferguson DB (2006). Oral bioscience. Churchill Livingstone:27-
41, 67-72, 123-136.
9. Gopinath V.K, Azreanne A.R (2006). Saliva as a Diagnostic Tool
for Assessment of Dental caries. Archives of Orofacial Sciences,
1, pp. 57-59.
10. Lê Võ Yến Nhi (2006). Đặc điểm nước bọt của học sinh 12 tuổi.
Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ Răng Hàm Mặt.
11. Lendenmann U, Grogan J, Oppenheim F G (2000). Saliva and
Dental Pellicle – A review. Adv Dent Res, 14, pp. 22-28.
12. Mandel Lenander-Lumikari, V.Loimaranta (2000). Saliva and
Dental Caries. Adv Dent Res, 14, pp. 40-47.
13. Mohammad Reza Malekipour, Manoochehr Messripour and
Farzaneh (2008). Buffering capaxity of saliva in patients with
Active Dental caries. Asian Journal of Biochemistry, 3(5), pp.
280-283.
14. Ngô Uyên Châu (2006). Tình hình sâu răng và lượng giá nguy
cơ ở học sinh 12 tuổi trường trung học cơ sở An Lạc, quận
Bình Tân, Tp.HCM. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú.
15. Nguyễn Bạch Dương (2007). Liên quan giữa các yếu tố nước bọt
và sâu răng. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ Răng Hàm Mặt.
16. Preethi, Anand Pyati (2010). Evaluation of flow rate, pH,
buffering capaxity, calcium, total protein and total antioxidan
levels of saliva in caries free and caries active children-An in
vivo study. Biomedical Research, 21(3), pp. 289-294.
17. Sanchez, Fernandez (2003). Salivary pH changes during soft
drinks consumption in children. Internation Journal of Paediatric
dentistry, 13, 251-257.
18. Trần thị Bích Vân (2008) Theo dõi dọc một năm bệnh sâu răng
ở học sinh 12 tuổi (Trường THCS An Lạc, Bình Tân, Tp. Hồ
Chí Minh. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội trú.
19. Tulunoglu, Demirtas (2006). Total antioxidant level of saliva
in children related to caries, age, and gender. Int J Paediatric
Dentistry, 16, pp.186-191.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguy_co_sau_rang_cua_tre_9_10_tuoi_co_sau_rang_cao_tai_quan.pdf