Thứ tư, tăng cường các biện pháp phát hiện,
xử lý tội phạm nhằm phòng ngừa tái phạm tội.
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng hoạt động
phòng ngừa tái phạm tội không chỉ là những biện
pháp ngăn ngừa trước không để cho tội phạm xảy
ra mà hoạt động kịp thời phát hiện, xử lý sau khi
tội phạm xảy ra cũng có ý nghĩa tiếp tục phòng
ngừa chính người đó không tái phạm và phòng
ngừa cho những người khác trong xã hội không
phạm tội. Trong lý luận về nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm cụ thể, cơ chế tâm lý xã hội của
hành vi phạm tội cụ thể bao gồm ba khâu: khâu
hình thành động cơ, khâu kế hoạch hóa và khâu
hiện thực hóa hành vi phạm tội, chính vì vậy việc
áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhằm kịp thời
phát hiện tội phạm bao gồm:
- Áp dụng các biện pháp phát hiện quá trình
hình thành động cơ phạm tội nói chung, tái phạm
tội nói riêng; ngăn chặn việc lên kế hoạch chuẩn bị
phạm tội và thực hiện tội phạm. Quá trình hình
thành động cơ phạm tội của một cá nhân là quá
trình tâm lý phức tạp được quyết định bởi nhu cầu
của cá nhân. Để xác định được một người có động
cơ phạm tội, theo tác giả phải dựa trên việc dự báo
nguy cơ hình thành động cơ của người đó, tức là
dựa trên các đặc điểm nhân thân và hành vi, thói
quen hàng ngày của họ để kịp thời phát hiện quá
trình hình thành động cơ phạm tội của họ.
- Áp dụng các biện pháp ngăn ngừa một người
không thực hiện hành vi phạm tội sau khi phát
hiện họ đã hình thành động cơ và chuẩn bị kế
hoạch phạm tội. Các biện pháp tác động ngăn
ngừa không để cho hành vi phạm tội xảy ra ở
trường hợp này có thể là áp dụng các biện pháp
thuyết phục (chủ yếu là từ gia đình) hoặc thường
xuyên thực hiện các biện pháp tuần tra, có thể áp
dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước như
thu giữ phương tiện, công cụ chuẩn bị phạm tội
và trong một số trường hợp có thể tiến hành truy
cứu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội. Chủ thể áp dụng các biện pháp phòng
ngừa này quan trọng nhất vẫn là gia đình, UBND
huyện, xã, cơ quan Tư pháp, tổ chức, đoàn thể.
- Áp dụng các biện pháp phát hiện tội phạm đã
được thực hiện trên thực tế. Thực chất các biện
pháp này là các biện pháp phát hiện tội phạm từ
phía các cơ quan có chức năng, từ đó áp dụng các
biện pháp xử lý tội phạm. “Phát hiện” tội phạm
được hiểu là cơ quan chức năng đã có thông tin về
hành vi phạm tội và được ghi nhận chính thức tại
hồ sơ công tác và chuyển cho cơ quan tiến hành tố
tụng xử lý. Các biện pháp nhằm tăng cường phát
hiện nhóm tội phạm này bao gồm tăng cường hoạt
động mang tính nghiệp vụ của các cơ quan Công an
về phòng ngừa tội phạm; tăng cường hoạt động của
các cơ quan nhà nước khác trong việc phát hiện
hành vi phạm tội; tăng cường hoạt động phát hiện
tội phạm từ các thông tin tố giác tội phạm.
- Áp dụng các biện pháp xử lý sau khi tội
phạm xảy ra nhằm tiếp tục phòng ngừa tái phạm
tội. Trong các hoạt động xử lý sau khi tội phạm
xảy ra, việc bắt giữ đối tượng và thu giữ vật chứng
có ý nghĩa rất quan trọng vì đặc trưng của các tội
phạm trong vụ án là bắt buộc phải thu giữ được
vật chứng vụ án và có ý nghĩa quyết định đến các
giai đoạn tố tụng còn lại.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên nhân, điều kiện, biện pháp và một số giải pháp phòng ngừa tái phạm tội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 3/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
51
NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN, BIỆN PHÁP VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
PHÒNG NGỪA TÁI PHẠM TỘI
Lê Tuấn Anh1
Tóm tắt: Phòng ngừa tái phạm tội là hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh
tội phạm, phát hiện và xử lý tội phạm nên phòng ngừa tái phạm tội là hoạt động mang tính phức tạp và
cần thiết phải được tiến hành dựa trên những biện pháp phòng ngừa nhất định nhằm đạt được mục tiêu
đề ra. Bài viết này tiếp cận các nguyên nhân, điều kiện, biện pháp phòng ngừa tái phạm tội dưới góc độ
tội phạm học làm cơ sở xây dựng những giải pháp cụ thể trong phòng ngừa tái phạm tội.
Từ khóa:Tái phạm tội; phòng ngừa tái phạm tội; biện pháp phòng ngừa tái phạm tội; kinh tế xã hội;
chính trị tư tưởng; giáo dục đào tạo; tâm lý văn hóa xã hội; phòng ngừa chuyên biệt.
Ngày nhận bài: 06/3/2017; Ngày hoàn thành biên tập: 18/4/2017; Ngày duyệt đăng: 1/6/2017.
Abstract: Prevention of recommiting crime is activity concentrating on the reason and condition causing
the recommiting crime, finding and treating offender. So, the prevention of recommiting crime is a complex
activity and it should be implemented basing on certain preventative methods to reach the set targets. This
article mentions reasons, conditions, methods to prevent recommiting crime under the view of criminology
being the ground to build specific solutions in the act of preventing recommitting crime.
Keywords: Recommitting crime; prevention of recommitting crime; method of preventing
recommitting crime; social economy; thought politics;training education;social-cultural
psychology;specialized prevention.
Date of receipt: 06/3/2017; Date of revision: 18/4/2017; Date of approval: 1/6/2017
1. Nguyên nhân và điều kiện tái phạm tội
Qua nghiên cứu phòng ngừa tội phạm nói
chung, tác giả đề cập một số nguyên nhân và điều
kiện tái phạm tội cơ bản như sau:
Một là, về cơ sở pháp lý
Mặc dù có nhiều chủ trương, văn bản chỉ đạo
hoạt động phòng ngừa tái phạm tội góp phần
kiềm chế diễn biến, tình hình tái phạm tội nhưng
thực tế chưa xây dựng các đề án trọng điểm, các
chương trình, kế hoạch có chiến lược lâu dài như:
Xây dựng các cơ sở pháp lý chung về phòng ngừa
tái phạm tội làm cơ sở pháp lý cho các chủ thể
phòng ngừa nhằm phòng ngừa vừa chuyên sâu
vừa đảm bảo hiệu quả; Xây dựng các văn bản quy
định cụ thể về mối quan hệ phối hợp giữa các chủ
thể phòng ngừa. Thực tế, khi có những vướng
mắc, khó khăn trong hoạt động phòng ngừa tái
phạm tội; điều tra, xét xử tái phạm tội các chủ thể
tự liên hệ để tổ chức họp, hội nghị để giải quyết
những khó khăn vướng mắc đó; Xây dựng các kế
hoạch, chính sách hỗ trợ đoàn thể, tổ chức, cá
nhân giúp đỡ, tạo việc làm cho người mãn hạn tù
trở về địa phương, người có hành vi vi phạm pháp
luật để động viên, hỗ trợ họ trong quá trình sinh
sống, làm việc.
Hai là, về kinh tế xã hội
Bên cạnh những diễn biến tích cực và tác
động thúc đẩy của nền kinh tế thị trường thì mặt
tiêu cực của kinh tế thị trường tác động không
nhỏ đến tình hình tái phạm tội. Cụ thể:
- Những biến đổi xã hội diễn ra mạnh mẽ như
quá trình đô thị hóa nhanh, phân hóa giàu nghèo
ngày càng sâu sắc trong xã hội, sự gia tăng dân số,
diện tích đất canh tác bị thu hẹp, số người từ nông
thôn kéo ra thành thị, khu công nghiệp tìm công
việc, cuộc sống mới ngày càng nhiều làm cho diễn
biến tình hình trật tự đô thị càng thêm phức tạp.
- Cơ chế thị trường cũng tác động mạnh mẽ đến
lĩnh vực giáo dục đào tạo, đặc biệt đối với trẻ em,
người chưa thành niên. Qua đó, nhận thấy sự gia tăng
người chưa thành niên trong tình hình tái phạm tội
và xu hướng trẻ hóa tội phạm.
- Chính phủ có hỗ trợ, đầu tư nhưng mức độ
chưa cao trong công tác quản lý, cải tạo, hướng
dẫn, đào tạo nghề cho người đang chấp hành hình
phạt tù phù hợp với nền kinh tế thị trường. Việc đầu
tư các trang thiết bị, máy móc phục vụ công tác
quản lý, giám sát phạm nhân tại trại giam còn lạc
hậu; chưa xã hội hóa nguồn kinh phí phục vụ cho
nâng cao hoạt động sinh hoạt của các trại giam như
1 Thạc sỹ, Nghiên cứu sinh khoá 7 Học viện Khoa học Xã hội
52
xây dựng thêm các phòng giam, hoạt động sinh
hoạt trong trại giam.
Ba là, về văn hóa giáo dục
- Đối với người chưa thành niên: Nguyên nhân
chủ yếu là do từ yếu kém, khiếm khuyết trong công
tác giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội đối
với cá nhân người phạm tội nói chung, tái phạm tội
nói riêng.
- Đối với người đang chấp hành hình phạt tù:
Hoạt động giáo dục, hướng nghiệp, đào tạo nghề
chưa được chú trọng. Các trại giam chỉ chủ yếu chú
trọng vào hoạt động quản lý phạm nhân, chưa đầu
tư sâu vào công tác giáo dục pháp luật, văn hóa, tư
tưởng và hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân
tạo hành trang tái hòa nhập cộng đồng sau khi mãn
hạn tù.
- Đối với người mãn hạn tù trở về địa phương,
tù hưởng án treo và người có hành vi vi phạm pháp
luật khác: Công tác tuyên truyền phòng ngừa chung
chưa phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa từng
địa phương. Việc tuyên tuyền, giáo dục pháp luật
đối với các đối tượng trên còn mang tính hình thức,
chưa thực sự mang lại hiệu quả cao, chưa xóa bỏ
những suy nghĩ tiêu cực, hành vi lệch lạc của người
mãn hạn tù trở về và hỗ trợ họ trở thành con người
lương thiện có ích cho xã hội.
Bốn là, về quản lý nhà nước đối với người đã
chấp hành xong hình phạt tù
Có thể thấy tình hình tái phạm tội có chiều
hướng diễn biến phức tạp cả về tính chất, mức độ,
cơ cấu, điều này phần nào phản ánh sự hạn chế
trong công tác quản lý xã hội về an ninh trận tự
(ANTT), quản lý người phạm tội sau khi chấp hành
xong hình phạt tù.
Do sự tác động về kinh tế xã hội khiến cho tìm
việc làm trở thành một trong những vấn đề nan giải.
Theo thống kê của TAND một tỉnh2, qua nghiên
cứu nhân thân 10.105 bị cáo tái phạm tội nhận thấy:
số bị cáo tái phạm tội không có nghề nghiệp là
5.146 người, chiếm 50,93%; số bị cáo tái phạm tội
có nghề nghiệp không ổn định là 3.642 người,
chiếm 36,04% trong khi đó số bị cáo tái phạm tội
có nghề nghiệp ổn định là 870 người, chỉ chiếm
8,61%.
Ngoài ra, công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu,
tạm trú, tạm vắng là hết sức khó khăn, gặp nhiều
hạn chế, bất cập, tình trạng đăng ký hộ khẩu nơi
này nhưng lại sinh sống, làm việc ở nơi khác hoặc
không đăng ký hộ khẩu nhưng cơ quan chức năng
không phát hiện, chấn chỉnh kịp thời, tình trạng
người chưa thành niên bỏ nhà đi bụi, hoạt động
phạm tội gia tăng.
Công tác tổ chức, quản lý đối tượng chấp hành
hình phạt tù chưa có những biện pháp tổ chức quản
lý riêng biệt, đặc biệt là những đối tượng có nguy
cơ tái phạm tội cao, cần quản lý hỗ trợ giúp đỡ họ
về tinh thần, định hướng, triệt tiêu những nguyên
nhân điều kiện làm ảnh hưởng quá trình cải tạo của
phạm nhân.
Năm là, về hoạt động của các cơ quan bảo vệ
pháp luật
Hiệu quả công tác điều tra tái phạm tội chưa
cao; nhiều vụ án còn xảy ra vướng mắc kéo dài thời
gian xử lý vụ án; các biện pháp xử phạt chưa mang
tính răn đe, còn nhẹ đối với hành vi phạm tội; nhiều
đối tượng đang truy nã nhưng chưa bắt được; việc
tha trước thời hạn chưa thực hiện nghiêm chỉnh dẫn
đến việc tha người phạm tội nghiêm trọng hoặc
phần tử nguy hiểm dẫn đến tái phạm tội. Nguyên
nhân của tình trạng này là do: Đội ngũ trực tiếp đấu
tranh phòng ngừa tái phạm tội còn thiếu về số
lượng, trình độ và năng lực nghiệp vụ chưa đồng
đều, một bộ phận cán bộ thiếu trách nhiệm chưa
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó. Bên cạnh
đó, có sự “quá tải” trong công việc của chủ thể phát
hiện và xử lý tội phạm và ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả hoạt động phòng ngừa đối với các chủ thể này.
2. Các biện pháp phòng ngừa tái phạm tội
Việc đánh giá, phân loại các biện pháp phòng
ngừa tái phạm tội phải xem xét dưới các tiêu chí
cụ thể như: căn cứ theo nội dung tác động của
phòng ngừa tái phạm tội; theo phạm vi quy mô tác
động của các biện pháp phòng ngừa tái phạm tội;
theo phạm vi đối tượng tác động của các biện
pháp phòng ngừa tái phạm tội; theo chủ thể hoạt
động phòng ngừa tái phạm tội từ đó đưa ra các
biện pháp cụ thể. Tuy nhiên, để hệ thống các biện
pháp phòng ngừa tái phạm tội mang tính khái quát
nhất thì phải xem xét các biện pháp phòng ngừa
gồm hai nhóm: phòng ngừa chung (phòng ngừa
tăng cường) và phòng ngừa riêng (phòng ngừa
chuyên môn). Hai nhóm này tạo thành hệ thống
phòng ngừa tái phạm tội có quan hệ chặt chẽ, tác
động lẫn nhau.
2 Theo số liệu Thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa từ năm 2007 đến năm 2016.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Soá 3/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
53
2.1. Biện pháp phòng ngừa chung (phòng
ngừa tăng cường)
Biện pháp phòng ngừa chung là tổng hợp các
biện pháp về chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa,
giáo dục được thực hiện trong quá trình xây dựng
và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Thực
chất đó là quá trình giải quyết các mâu thuẫn xã
hội, các vấn đề khó khăn phức tạp, khắc phục
những nhược điểm thiếu sót trong công tác quản lý
Nhà nước và xã hội. Quá trình này tạo ra những
tiền đề về vật chất, tư tưởng, tinh thần nhằm xóa
bỏ những nguyên nhân điều kiện làm nảy sinh tái
phạm tội.
Thứ nhất, biện pháp kinh tế - xã hội: Nội dung
của biện pháp này tập trung vào việc phát triển,
nâng cao đời sống vật chất của nhân dân; xóa bỏ
những tiêu cực phát sinh từ nghèo đói, thiếu thốn,
thất nghiệp; tổ chức việc làm cho người lao động,
hướng nghiệp, dạy nghề, tạo công việc cho những
người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương
để họ mạnh dạn tái hòa nhập cộng đồng.
Thứ hai, biện pháp chính trị, tư tưởng: nâng
cao ý thức giác ngộ chính trị, tư tưởng trong nhân
dân, hình thành nhân cách con người mới XHCN,
có ý thức tôn trọng luật pháp, tích cực tham gia vào
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, nâng cao
đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, nâng cao
trách nhiệm cá nhân đối với cộng đồng xã hội; đặc
biệt chú trọng nâng cao nhân cách của những người
lầm lỗi, vi phạm pháp luật, phạm nhân, tù tha về
địa phương để từ đó hình thành nhân cách tốt, triệt
tiêu những nhân cách “tiêu cực”.
Thứ ba, biện pháp giáo dục, đào tạo: Phạm
nhân, người lầm lỗi, tù tha về đều được giáo dục,
mở các lớp đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên
hoặc cho những người chưa có nghề nghiệp ổn
định; thông qua giáo dục, đào tạo nghề nghiệp nâng
cao ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý; ý thức tuân
thủ pháp luật và các nội quy, quy tắc của cuộc sống
nâng cao ý thức tự giác chấp hành.
Thứ tư, biện pháp tổ chức - quản lý: Hình
thành hệ thống tổ chức quản lý xã hội chặt chẽ,
thống nhất từ Trung ương đến địa phương, xác định
rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội. Biện pháp quản lý được thể
hiện trong hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm
quản lý đất nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Trước mắt cần khắc phục những thiếu sót, trong tổ
chức quản lý để hạn chế, khắc phục một số nguyên
nhân, điều kiện của tình hình tái phạm tội; tăng
cường tổ chức quản lý khu vực dân cư, tập trung
người chấp hành xong hình phạt tù trở về địa
phương, nhiều người nghiện ma túy, những khu
vực có nhiều người hành nghề mại dâm hoặc
những khu vực có nhiều người có tiền án. Bên cạnh
đó, biện pháp tổ chức quản lý còn thể hiện ở việc
giáo dục, cải tạo người tái phạm tội đang chấp hành
án phạt tù.
Thứ năm, biện pháp pháp luật: Hoàn thiện hệ
thống pháp luật; ban hành văn bản hướng dẫn áp
dụng pháp luật; xây dựng quy trình phối hợp
phòng, chống tội phạm; giáo dục và cải tạo phạm
nhân, hướng nghiệp, dạy nghề; thực hiện các chính
sách đặc xá, giảm án có điều kiện; khen thường và
chính sách ưu đãi những người có thành tích... Một
hệ thống quy phạm pháp luật thống nhất, hoàn
chỉnh và được áp dụng đúng sẽ tạo ra trật tự phù
hợp với yêu cầu của đời sống thực tế, ngăn ngừa
các hành vi phạm tội và là một trong những đảm
bảo quan trọng để hạn chế, khắc phục đi đến loại
trừ nguyên nhân, điều kiện phạm tội; tạo điều kiện
cho các cơ quan tư pháp, các cơ quan bảo vệ pháp
luật thực hiện nhiệm vụ của mình, đảm bảo duy trì
và bảo vệ trật tự pháp luật, các quy tắc của đời sống
xã hội.
Thứ sáu, biện pháp tâm lý văn hóa xã hội: Xây
dựng hệ thống biện pháp tác động vào thế giới tinh
thần của con người, giúp con người nhận thức được
hành vi phạm tội, tính nguy hiểm của hành vi phạm
tội nói chung, tái phạm tội nói riêng, định hướng
cho con người những định hướng giá trị, những nhu
cầu tinh thần lành mạnh làm nền tảng cho quá trình
hình thành ý thức pháp luật đúng đắn, đặc biệt là
làm thay đổi nhận thức đề cao lối sống hưởng thụ,
lối sống đề cao nhu cầu vật chất của bộ phận người
trong xã hội. Lồng ghép vào các bài giảng của
phạm nhân, trong các buổi sinh hoạt tại địa phương
để giáo dục tù tha về, tù án treo.
2.2. Biện pháp phòng ngừa riêng (phòng
ngừa chuyên môn)
Một là, biện pháp phòng ngừa chuyên biệt của
lực lượng Công an nhân dân (CAND)
Trong phòng, chống tội phạm nhất là phòng
ngừa tái phạm tội thì lực lượng CAND đóng vai trò
nòng cốt. Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ của
lực lượng CAND đối với tội phạm nói chung, tái
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
54
phạm tội nói riêng được quy định cụ thể trong các
văn bản pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật
và các văn bản của Bộ Công an về quy trình, chế độ
công tác đối với từng lực lượng. Điều 14, Điều 15
Luật Công an nhân dân năm 2014 và thông tư ban
hành về các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ đối
với tội phạm nói chung, tái phạm tội nói riêng đều
được thực hiện phù hợp với chức năng của từng bộ
phận lực lượng CAND.
Các nhiệm vụ được triển khai cụ thể, chẳng
hạn: phổ biến pháp luật, chính sách, tổ chức dạy
văn hóa, dạy nghề, xóa nạn mù chữ cho phạm nhân
tái hoà nhập cộng đồng. Có thể nói, Ngoài ra, lực
lượng CAND tham gia phối hợp với các lực lượng
và chủ thể khác nhằm phòng ngừa tái phạm tội khi
có yêu cầu. Đồng thời được sử dụng những biện
pháp, phương tiện phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ của mình.
Hai là, biện pháp phòng ngừa tái phạm tội của
Viện kiểm sát nhân dân:
Viện Kiểm sát nhân dân trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, có trách
nhiệm kiểm tra những tình huống, điều kiện tạo
thuận lợi dẫn đến tái phạm tội. Xem xét những tình
huống hoặc điều kiện để có những biện pháp áp
dụng đối với việc xóa bỏ, triệt tiêu những tình
huống, những điều kiện đó để kiến nghị, đề xuất,
yêu cầu các cơ quan chức năng, ban ngành khắc
phục, phối hợp kịp thời nhằm ngăn chặn, phòng
ngừa, giáo dục, cảm hóa, răn đe không để tái phạm
tội xảy ra.
Ba là, biện pháp phòng ngừa tái phạm tội của
Tòa án nhân dân:
Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có
quyền xét xử và có quyền nhân danh nước
CHXHCN Việt Nam tuyên bản án nhằm kết án
những người tái phạm tội và buộc họ phải chấp
hành bản án đó. Hoạt động xét xử Tòa án nhân
dân nhằm mục đích phòng ngừa riêng nhưng
đồng thời cũng là góp phần thực hiện phòng ngừa
chung tái phạm tội. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân
còn đưa ra những quyết định riêng yêu cầu các
cơ quan, tổ chức khác loại trừ nguyên nhân, điều
kiện của tình hình tội phạm nói chung, tình hình
tái phạm tội nói riêng thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án.
Bốn là, biện pháp phòng ngừa tái phạm tội của
các cơ quan thuộc Bộ Tư pháp
Các cơ quan thuộc Bộ Tư pháp cùng các cơ
quan quyền lực khác trực tiếp tham gia vào việc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, thông
qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa tái phạm tội, góp phần tích cực vào công tác
giáo dục, cải tạo nhằm đưa phạm tội trở về cộng
đồng, trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Các biện pháp phòng ngừa cơ bản trên được
hiểu đó là các biện pháp phòng ngừa tái phạm tội
tăng cường. Các biện pháp phòng ngừa tăng cường
bao gồm ba biện pháp chính: tăng cường về hệ
thống lý luận và cơ sở chính trị - pháp lý, tăng
cường lực lượng phòng ngừa và tăng cường triển
khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Ba biện pháp này có liên quan mật thiết với nhau,
được tiến hành đồng bộ trên phạm vi cả nước tuy
nhiên trong phạm vi địa phương với những đặc thù
về dân cư, xã hội khác nhau nên linh hoạt, chủ động
ban hành các chủ trương, các văn phù hợp với địa
bàn. Để thực hiện biện pháp phòng ngừa tái phạm
tội chuyên môn nên tập trung vào hai nhóm biện
pháp chính, đó là nhóm biện pháp nhằm ngăn ngừa
trước không để cho tái phạm tội xảy ra và nhóm
các biện pháp nhằm phát hiện và xử lý tội phạm.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, các chủ thể phải
hiểu rõ nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tái
phạm tội trên địa bàn, nhất là cơ chế tâm lý xã hội
của hành vi tái phạm tội cụ thể để từ đó có các biện
pháp thích hợp tác động nhằm ngăn ngừa quá trình
hình thành động cơ tái phạm tội, ngăn chặn việc lên
kế hoạch và thực hiện tội phạm.
4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng
ngừa tái phạm tội
4.1. Tăng cường hoàn thiện cơ sở lý luận, cơ
sở pháp lý của hoạt động phòng ngừa tái phạm tội
Thứ nhất, cần chủ động hơn nữa trong việc
ban hành các chủ trương, chính sách, các quy định
liên quan đến phòng ngừa tái phạm tội, cụ thể:
- Xây dựng bộ phận chuyên trách nghiên cứu
về phòng ngừa tái phạm tội.
Đây là giải đáp tối ưu cho việc xây dựng đội
ngũ phòng ngừa tái phạm tội chuyên trách nhằm
tập trung nguồn nhân lực là những người được
đào tạo chuyên ngành về Tội phạm học, có trình
độ lý luận, khả năng nghiên cứu khoa học, xây
dựng hệ thống lý luận phòng ngừa tội phạm
- Tiếp tục xây dựng các văn bản hướng dẫn
Luật Thi hành án Hình sự
Soá 3/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
55
Thực tế trong những năm vừa qua cho thấy
công tác thi hành án ở nước ta còn bị hạn chế, nhất
là các loại hình phạt không tước đoạt tự do thân thể
của người bị kết án. Sự hạn chế này do nhiều
nguyên nhân như: Chính quyền cơ sở chưa nhận
thức được rõ trách nhiệm của mình trong việc thi
hành các bản án của Toà án. Người bị kết án chưa
thực sự thấy được tội lỗi của mình, chưa thấy được
mục đích của hình phạt mà Nhà nước giành cho họ
chủ yếu là giáo dục, cải tạo họ thành người lương
thiện. Việc thi hành bản án hình sự đối với người bị
kết án nhằm giáo dục, cải tạo người bị kết án trở
thành người lương thiện.
- Hoàn thiện chính sách tái hòa nhập vào cộng
đồng đối với những người đã chấp hành xong án
phạt tù phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, văn
hóa tỉnh
Pháp luật hiện hành quy định trách nhiệm của
nhiều cơ quan, tổ chức trong việc giúp đỡ người
được trả tự do mãn hạn tù tái hòa nhập cộng đồng.
Nhưng trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức như
thế nào, đến đâu, cơ chế phối hợp ra sao thì không
được pháp luật phân định rõ nên sự phối hợp đó
gần như không được điều chỉnh bằng hành lang
pháp lý, tùy theo tự nguyện của mỗi địa phương
thực hiện, không bảo đảm sự thống nhất và mang
lại hiệu quả cao.
- Xây dựng chương trình chuyển tiếp sau khi
chấp hành xong án phạt tù, chuẩn bị kỹ năng sống,
kỹ năng nghề nghiệp cần thiết cho tái hòa nhập
cộng đồng của người mãn hạn tù
Trong quá trình thi hành án phạt tù, cần xây
dựng một chương trình chuyển tiếp chuẩn bị điều
kiện thuận lợi cho tái hòa nhập cộng đồng của
những người sắp mãn hạn tù. Xét về tính chất, cuộc
sống trong trại giam và cuộc sống tự do khá khác
nhau. Trong trại giam, tuy mức sinh hoạt có hạn
hẹp và phải tuân thủ nghiêm kỷ luật trại giam,
nhưng phạm nhân không phải đối mặt với những
khó khăn của đời thường. Mặt trái của cuộc sống
trong trại cải tạo cũng tạo ra tính thụ động trong
cuộc sống của các phạm nhân. Ngược lại, tính đa
dạng, phong phú của cuộc sống tự do cho phép con
người có nhiều cơ hội để lựa chọn nhưng cũng đòi
hỏi con người thể hiện chính kiến trong việc lựa
chọn xử sự, tự lực cá nhân để sinh sống. Hơn nữa,
những biến đổi lớn trong xã hội ít nhiều cũng khá
xa lạ đối với những người mới được trả tự do, đặc
biệt là đối với những người phải thụ hình trong trại
cải tạo một thời gian dài. Điều đó, cũng có thể làm
một số người mới được trả tự do, chưa thích nghi
với điều kiện sống mới dễ rơi vào tình trạng mất
định hướng. Do vậy, nên xây dựng một chương
trình chuyển tiếp chuẩn bị tâm lý, điều kiện cần
thiết cho phạm nhân tiếp xúc với xã hội, dần thích
nghi với điều kiện của cuộc sống tự do theo hướng
mở rộng các hình thức chấp hành án phạt tù để tăng
cường sự giao tiếp giữa phạm nhân với gia đình và
xã hội, đặc biệt là khi người bị kết án tù sắp mãn
hạn tù.
Thứ hai, kịp thời ban hành các văn bản hướng
dẫn xử lý những vướng mắc về mặt pháp lý liên
quan đến hoạt động phòng ngừa tái phạm tội.
Trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật liên quan đến hoạt động phòng ngừa tái phạm
tội, các chủ thể phòng ngừa đã và sẽ có thể gặp
những vướng mắc nhất định về mặt pháp lý và để
giải quyết vấn đề này, trước hết chính quyền tỉnh
cần kịp thời ban hành những văn bản hướng dẫn,
tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể tiến hành hoạt
động phòng ngừa như: Ban hành các quy định về tổ
chức, triển khai họp, giao ban, hội nghị định kỳ đối
với các chủ thể phòng ngừa tái phạm tội. Nội dung
chính cuộc họp là tháo gỡ những vướng mắc trong
quá trình phối hợp, trao đổi thông tin liên quan đến
hoạt động phòng ngừa tái phạm tội.
4.2 Tăng cường lực lượng phòng ngừa tái
phạm tội
Thứ nhất, tăng cường về số lượng thực hiện
công tác phòng ngừa tái phạm tội
Đối với các Trung tâm Tội phạm học, nguồn
nhân lực cần được bổ sung từ nguồn giảng viên phụ
trách giảng dạy các bộ môn pháp luật tại các trường
đại học nhất là các trường Đại học Luật, Học viện
Khoa học xã hội, Học viện An ninh nhân dân, Học
viện Cảnh sát nhân dân và từ các cơ quan phòng
ngừa tái phạm tội chuyên trách. Để thực hiện được
điều này, cần có chiến lược phối hợp trong hoạt
động tuyên truyền pháp luật; xây dựng, triển khai
các kế hoạch phòng ngừa tái phạm tội trên địa bàn.
Lực lượng này thực chất là thực hiện công việc cả
lý luận lẫn thực tiễn, tức là vừa xây dựng hệ thống
lý luận phòng ngừa tái phạm tội, vừa tiến hành
khảo sát tình hình tái phạm tội, xác định nguyên
nhân và điều kiện phát sinh tái phạm tội, đánh giá
thực trạng phòng ngừa tái phạm tội, từ đó xây dựng
56
các chương trình phòng ngừa tái phạm tội tương
ứng. Như vậy hoạt động của đội ngũ này nghiêng
về hoạt động phòng ngừa trước và hoạt động phát
hiện, xử lý tái phạm tội được xem là hoạt động
phòng chống tội phạm, được thực hiện bởi các cơ
quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, số lượng đội ngũ
này trong nhiều trường hợp cơ quan chính quyền
không có khả năng quyết định mà tùy thuộc vào
ngành dọc quản lý, do vậy cơ quan địa phương cần
kiến nghị với trung ương tăng cường nguồn biên
chế, tăng cường cán bộ, chuyên viên cho các cơ
quan phòng ngừa tái phạm tội.
Thứ hai, tăng cường về chất lượng.
Song song với việc bổ sung số lượng cán bộ,
chuyên viên thì việc nâng cao trình độ chuyên môn
của lực lượng này cũng cần được chú trọng. Sự
tăng cường chất lượng được thể hiện từ khâu xét
tuyển công chức, cán bộ đến việc thường xuyên có
những tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
đang hoạt động nhằm kịp thời phát hiện những yếu
kém về chất lượng, từ đó có kế hoạch thay thế hoặc
nâng cao trình độ chuyên môn thông qua công tác
đào tạo, bồi dưỡng.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp hoạt động của
các chủ thể phòng ngừa tái phạm tội
Trên cơ sở quy chế và tổ chức sẵn có, cơ quan
phổ biến giáo dục pháp luật và cơ quan Tư pháp
cần phát huy hơn nữa vai trò phổ biến pháp luật
phòng ngừa tái phạm tội. Với lợi thế nguồn nhân
lực chuyên viên của cơ quan tuyên truyền pháp
luật và các nguồn Báo cáo viên, Tuyên truyền viên
đông đảo, các cơ quan Tư pháp địa phương cần
chủ động hơn trong việc xây dựng các chương
trình, kế hoạch tuyên truyền phòng ngừa tái phạm
tội và có vai trò chủ lực trong việc kết nối các cơ
quan, đoàn thể tham gia chương trình. Để tránh
trường hợp các chủ thể tham gia với tâm lý đối phó
thì sự phối hợp hoạt động giữa các chủ thể phải
được thể hiện trong nội dung của từng chương
trình phòng ngừa, trong đó xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của từng chủ thể. Sau những chương
trình cụ thể cần có những cuộc họp liên ngành
kiểm điểm nghiêm khắc kết quả tham gia của từng
chủ thể, có những hình thức khen thưởng, kỷ luật
tương xứng với những thành tựu cũng như khuyết
điểm của từng chủ thể cụ thể.
2.3. Tăng cường triển khai áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tái phạm tội
Thứ nhất, tăng cường các biện pháp ngăn
ngừa không để tái phạm tội xảy ra.
Tiến hành xây dựng, triển khai, áp dụng các biện
pháp mang tính kinh tế - xã hội, các biện pháp văn
hóa giáo dục. Hệ thống các biện pháp thuộc về văn
hóa, giáo dục và tâm lý – xã hội thực chất là các biện
pháp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có mối
quan hệ mật thiết với các biện pháp về kinh tế và các
biện pháp này cần được tiến hành đồng bộ. Các biện
pháp về kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất của
người dân được thực hiện là yếu tố quan trọng để
thực hiện các chính sách về nâng cao trình độ học
vấn, đào tạo nghề, nâng cao ý thức pháp luật và
ngược lại, trình độ học vấn được nâng cao, đào tạo
nghề được chú trọng là những yếu tố giúp người dân
có việc làm ổn định, cải thiện đời sống vật chất. Với
thực tế người phạm tội đa số là người có trình độ học
vấn thấp thì tỉnh cần đầu tư hơn nữa cho hoạt động
giáo dục cải tạo, nâng cao trình độ học vấn, trình độ
văn hóa đối với người phạm tội.
Thứ hai, tăng cường các biện pháp tổ chức,
quản lý xã hội.
Tăng cường tổ chức quản lý người có nguy cơ
tái phạm tội cao, những khu vực thường xảy ra các
tội phạm để ngăn ngừa hành vi tái phạm tội xảy ra.
Đây là vấn đề khó khăn cần có những biện pháp thiết
thực để giải quyết. Trong đó khó khăn lớn nhất chính
là thái độ kỳ thị của xã hội đối với người phạm tội.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa
tái phạm tội.
Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng
ngừa tội phạm tạo cơ sở pháp lý cho phòng ngừa tái
phạm tội.Theo tác giả, trong bối cảnh hiện nay việc
Quốc hội ban hành Luật Phòng ngừa tội phạm là
yêu cầu bức thiết. Có thể thấy với các quy định
phòng chống tội phạm thực tế tại Việt nam mà cụ
thể tại các thành phố và các địa phương hiện nay từ
cá nhân cho đến cơ quan Nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức xã hội đều là chủ thể của hoạt động
phòng ngừa tái phạm tội, tuy nhiên để xác định chủ
thể nào là chủ thể chuyên trách trong hoạt động
phòng ngừa tái phạm tội thì lại không được xác
định rõ. Chính vì vậy vấn đề hiện nay là cần thiết
phải ban hành Luật phòng ngừa tội phạm, trong đó
quy định rõ các vấn đề liên quan đến hoạt động
phòng ngừa tái phạm tội, là cơ sở chung để tiến
hành các hoạt động phòng ngừa tái phạm tội trong
đó xác định chủ thể phòng ngừa tái phạm tội
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Soá 3/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
57
chuyên trách là Viện Tội phạm học hay cơ quan
tương đương; Cơ quan Công an chỉ là đơn vị giữ
vai trò chủ chốt trong hoạt động “chống”, tức là
việc phát hiện hành vi phạm tội thông qua các biện
pháp nghiệp vụ, từ đó tiến hành khởi tố vụ án, khởi
tố bị can và những công việc khác trong phạm vi
chức năng, quyền hạn do pháp luật quy định.
Thứ tư, tăng cường các biện pháp phát hiện,
xử lý tội phạm nhằm phòng ngừa tái phạm tội.
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng hoạt động
phòng ngừa tái phạm tội không chỉ là những biện
pháp ngăn ngừa trước không để cho tội phạm xảy
ra mà hoạt động kịp thời phát hiện, xử lý sau khi
tội phạm xảy ra cũng có ý nghĩa tiếp tục phòng
ngừa chính người đó không tái phạm và phòng
ngừa cho những người khác trong xã hội không
phạm tội. Trong lý luận về nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm cụ thể, cơ chế tâm lý xã hội của
hành vi phạm tội cụ thể bao gồm ba khâu: khâu
hình thành động cơ, khâu kế hoạch hóa và khâu
hiện thực hóa hành vi phạm tội, chính vì vậy việc
áp dụng các biện pháp phòng ngừa nhằm kịp thời
phát hiện tội phạm bao gồm:
- Áp dụng các biện pháp phát hiện quá trình
hình thành động cơ phạm tội nói chung, tái phạm
tội nói riêng; ngăn chặn việc lên kế hoạch chuẩn bị
phạm tội và thực hiện tội phạm. Quá trình hình
thành động cơ phạm tội của một cá nhân là quá
trình tâm lý phức tạp được quyết định bởi nhu cầu
của cá nhân. Để xác định được một người có động
cơ phạm tội, theo tác giả phải dựa trên việc dự báo
nguy cơ hình thành động cơ của người đó, tức là
dựa trên các đặc điểm nhân thân và hành vi, thói
quen hàng ngày của họ để kịp thời phát hiện quá
trình hình thành động cơ phạm tội của họ.
- Áp dụng các biện pháp ngăn ngừa một người
không thực hiện hành vi phạm tội sau khi phát
hiện họ đã hình thành động cơ và chuẩn bị kế
hoạch phạm tội. Các biện pháp tác động ngăn
ngừa không để cho hành vi phạm tội xảy ra ở
trường hợp này có thể là áp dụng các biện pháp
thuyết phục (chủ yếu là từ gia đình) hoặc thường
xuyên thực hiện các biện pháp tuần tra, có thể áp
dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước như
thu giữ phương tiện, công cụ chuẩn bị phạm tội
và trong một số trường hợp có thể tiến hành truy
cứu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị
phạm tội. Chủ thể áp dụng các biện pháp phòng
ngừa này quan trọng nhất vẫn là gia đình, UBND
huyện, xã, cơ quan Tư pháp, tổ chức, đoàn thể.
- Áp dụng các biện pháp phát hiện tội phạm đã
được thực hiện trên thực tế. Thực chất các biện
pháp này là các biện pháp phát hiện tội phạm từ
phía các cơ quan có chức năng, từ đó áp dụng các
biện pháp xử lý tội phạm. “Phát hiện” tội phạm
được hiểu là cơ quan chức năng đã có thông tin về
hành vi phạm tội và được ghi nhận chính thức tại
hồ sơ công tác và chuyển cho cơ quan tiến hành tố
tụng xử lý. Các biện pháp nhằm tăng cường phát
hiện nhóm tội phạm này bao gồm tăng cường hoạt
động mang tính nghiệp vụ của các cơ quan Công an
về phòng ngừa tội phạm; tăng cường hoạt động của
các cơ quan nhà nước khác trong việc phát hiện
hành vi phạm tội; tăng cường hoạt động phát hiện
tội phạm từ các thông tin tố giác tội phạm.
- Áp dụng các biện pháp xử lý sau khi tội
phạm xảy ra nhằm tiếp tục phòng ngừa tái phạm
tội. Trong các hoạt động xử lý sau khi tội phạm
xảy ra, việc bắt giữ đối tượng và thu giữ vật chứng
có ý nghĩa rất quan trọng vì đặc trưng của các tội
phạm trong vụ án là bắt buộc phải thu giữ được
vật chứng vụ án và có ý nghĩa quyết định đến các
giai đoạn tố tụng còn lại.
Thứ năm, tăng cường áp dụng các biện pháp
quản lý, giáo dục, cải tạo người mãn hạn tù trở về
địa phương, tù hưởng án treo, người vi phạm pháp
luật khác.
Để tiến hành quản lý, cải tạo người mãn hạn tù
trở về địa phương, tù hưởng án treo, người vi phạm
pháp luật khác, cần tiến hành các giải pháp phòng
ngừa chung như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giới
thiệu việc làm; xây dựng các tổ chức, đoàn thể sinh
hoạt tạo môi trường thuận lợi cho họ được tái hòa
nhậm công đồng một cách thuận lợi cho họ tài hào
nhập cộng đồng.
Bên cạnh đó, cần áp dụng các biện pháp
phòng ngừa cá biệt đối với những đối tượng có
nguy cơ tái phạm cao để loại bỏ những yếu tố tiêu
cực dẫn đến trở thành nguyên nhân, điều kiện tái
phạm tội. Đồng thời qua đó chủ động phòng ngừa
ngăn chặn không để hành vi tái phạm tội xảy ra.
Chính quyền địa phương phải thống kê, lập danh
sách các đối tượng có biểu hiện nghi vấn phạm
tội, phân loại từng đối tượng để xây dựng kế
hoạch phòng ngừa riêng biệt.
58
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm
2013
2. Nghị định 19/NĐ-CP ngày 20/12/1992 của
Chính phủ
3. Nghị định 22/2013/NĐ-CP ngày 13/03/2013
của Chính phủ
4. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
5. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
6. Luật Công an nhân dân năm 2014
7. Thông tư số 18, 19, 20, 21, 22/2013
/TT-BCA ngày 01/4/2013 của Bộ trưởng Bộ Công
an
8. Thông tư liên tịch số 02/2012/TTLT-BCA-
BQP-BTP-BGD&ĐT ngày 06/2/2012
9. Hướng dẫn số 9191/C81-C84 ngày
21/10/2011 của Tổng cục VIII – BCA
Theo tinh thần của Nghị định 05/2015, trong
trường hợp người được uỷ quyền giao kết HĐLĐ
tiến hành xử lý kỷ luật thì chỉ được xử lý kỷ luật tối
đa đối với hình thức khiển trách, như vậy, quyền
xử lý kỷ luật vẫn hoàn toàn thuộc về người có thẩm
quyền giao kết HĐLĐ theo quy định của pháp luật.
Điều này cũng bảo đảm tính hợp lý cũng như quyền
quản lý của NSDLĐ mà đại diện của NSDLĐ trong
trường hợp này chính là người có thẩm quyền giao
kết HĐLĐ.
Thứ ba, về thời hiệu xử lý kỷ luật sa thải NLĐ:
Trong quá trình xử lý kỷ luật sa thải NLĐ đối với
trường hợp khi hết thời gian quy định tại các điểm
a, b và c khoản 4 Điều 123 BLLĐ, nếu còn thời
hiệu để xử lý kỷ luật lao động thì NSDLĐ tiến
hành xử lý kỷ luật lao động ngay. Tuy nhiên, thực
tế nếu thời hiệu xử lý kỷ luật lao động vẫn còn
nhưng rất ngắn mà NSDLĐ khó có thể thực hiện
đầy đủ thủ tục xử lý kỷ luật lao động được, chúng
tôi cho rằng cần có hướng dẫn cụ thể đối với
những trường hợp này. Theo đoạn 1, khoản 2 Điều
124 BLLĐ, trong trường hợp “nếu hết thời hiệu
thì được kéo dài thời hiệu để xử lý kỷ luật lao
động nhưng tối đa không quá 60 ngày kể từ ngày
hết thời gian nêu trên”, như vậy, chúng tôi cho
rằng sẽ hợp lý và bao quát hơn cả khi quy định
này được sửa đổi thành: “Khi hết thời gian quy
định tại các điểm a, b và c khoản 4 Điều 123, nếu
còn thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động thì người
sử dụng lao động tiến hành xử lý kỷ luật lao động
ngay, nếu hết thời hiệu hoặc thời hiệu còn lại dưới
60 ngày thì được kéo dài thời hiệu để xử lý kỷ luật
lao động nhưng tối đa không quá 60 ngày kể từ
ngày hết thời gian nêu trên.”
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những bất cập
trong việc chấm dứt HĐLĐ theo quy định pháp luật
lao động hiện hành, một số giải pháp kiến nghị đưa
ra trong bài viết mong muốn tạo hành lang pháp lý
ổn định cho các chủ thể khi thực hiện quyền chấm
dứt HĐLĐ, hạn chế những tranh chấp lao động
phát sinh trong thời gian tới./.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Lao động năm 1994
2. Bộ luật Lao động năm 2012
3. Nghị định 05/2015/NĐ-CP
4. Bộ quy tắc ứng xử quấy rối tình dục tại nơi
làm việc do Bộ LĐ-TB&XH phối hợp Tổng liên
đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và
công nghiệp Việt Nam nghiên cứu, xây dựng với sự
hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
PHÁP LUẬT VỀ CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG -
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
(Tiếp theo trang 45)
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_nhan_dieu_kien_bien_phap_va_mot_so_giai_phap_phong_ng.pdf