Nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hóa

Qua hơn 15 năm triển khai chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà Nước của Đảng và Nhà nước đã đạt được những hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội nhất định; doanh nghiệp Nhà Nước được chuyển thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu với sự rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng thành phần sở hữu, từng cổ đông; giảm được sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của các cấp chính quyền; tạo cơ chế quản lý tự chủ, tự chịu trách nhiệm; tạo cơ sở pháp lý và vật chất để người lao động xác lập và nâng cao vai trò làm chủ, gắn bó máu thịt với doanh nghiệp, góp phần tích cực vào công cuộc cải cách hành chính và đấu tranh chống tham nhũng. Kết quả nổi bật của cổ phần hoá là đã tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, huy động thêm được nguồn vốn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh; hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập của doanh nghiệp được nâng lên. Thực tiễn 15 năm qua đã khẳng định cổ phần hoá đã trở thành giải pháp quan trọng, chủ yếu để cơ cấu lại, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà Nước. Trong báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước tại phiên họp thứ 43 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 21/9/2006 đã chỉ rõ: Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001, số lượng Doanh nghiệp Nhà Nước được cổ phần hoá tăng đáng kể, nhưng nhìn chung việc triển khai còn khá chậm. Tính đến 31/12/2005, cả nước mới cổ phần hoá được 2.935 Doanh nghiệp Nhà Nước. Số doanh nghiệp được cổ phần hoá tăng nhiều, nhưng số vốn mới chiếm 12% tổng số vốn trong các Doanh nghiệp Nhà Nước. Nếu trừ đi phần vốn Nhà nước còn giữ lại gần 50% trong các doanh nghiệp cổ phần hoá, thì thực chất tỷ lệ trên chỉ còn khoảng 6%. So với mục tiêu của Nghị quyết TW 9 (khoá IX) thì còn chậm, nhất là các doanh nghiệp có qui mô lớn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

doc26 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 825 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nguyên nhân làm chậm tiến trình cổ phần hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A.MỞ ĐẦU Hiện nay, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước được coi là giải pháp hữu hiệu để phát triển kinh tế.Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo,điều hành sản xuất kinh doanh chúng ta đã xác định được cải cách doanh nghiệp Nhà Nước một cách triệt để, là yêu cầu có tính quyết đinh để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động có hiệu quả hơn. Một trong những phương thức cải cách doanh nghiệp Nhà Nước là tiến hanh cổ phần hóa. Tuy nhiên, do cổ phần hóa là một việc mới, chúng ta chưa có kinh nghiệm và còn gặp nhiều khó khăn nên trong quá trình thực hiện các doanh nghiệp đã gặp nhiều vướng mắc.Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của đề tài này nhằm tìm hiểu về tiến trình thực hiện cổ phần hóa, nhìn nhận sơ lược về tình hình cổ phần hóa chung của cả nước, tìm hiểu khó khăn và thuận lợi của doanh nghiệp Nhà Nước để từ đó tìm ra giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hóa. Trước tiên ta phải hiểu cổ phần hóa là chuyển từ doanh nghiệp Nhà Nước sang công ty cổ phần nhằm xác định lại chủ sở hữu thực sự cụ thể của doanh nghiệp. Cổ phần hóa thực chất là quá trình xã hội hóa các doanh nghiệp. thực tế cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước đem lại nhiều lợi ích thiêt thực. Thứ nhất là góp phần nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu.Trong đó có đông đảo người người lao động, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lí có hiệu quả. Thứ hai là huy động vốn toàn xã hội, để đầu tư đổi mới công nghệ phát triển doanh nghiệp. Thứ ba phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động và các cổ đông, tăng sự giám sát của các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, đảm bảo sự hài hòa lợi ích của Nhà Nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động. Hiện nay, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước được coi là giải pháp hữu hiệu để phát triển kinh tế.Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo,điều hành sản xuất kinh doanh chúng ta đã xác định được cải cách doanh nghiệp Nhà Nước một cách triệt để, là yêu cầu có tính quyết đinh để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động có hiệu quả hơn. Một trong những phương thức cải cách doanh nghiệp Nhà Nước là tiến hanh cổ phần hóa. Tuy nhiên, do cổ phần hóa là một việc mới, chúng ta chưa có kinh nghiệm và còn gặp nhiều khó khăn nên trong quá trình thực hiện các doanh nghiệp đã gặp nhiều vướng mắc.Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của đề tài này nhằm tìm hiểu về tiến trình thực hiện cổ phần hóa, nhìn nhận sơ lược về tình hình cổ phần hóa chung của cả nước, tìm hiểu khó khăn và thuận lợi của doanh nghiệp Nhà Nước để từ đó tìm ra giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hóa. Trước tiên ta phải hiểu cổ phần hóa là chuyển từ doanh nghiệp Nhà Nước sang công ty cổ phần nhằm xác định lại chủ sở hữu thực sự cụ thể của doanh nghiệp. Cổ phần hóa thực chất là quá trình xã hội hóa các doanh nghiệp. thực tế cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước đem lại nhiều lợi ích thiêt thực. Thứ nhất là góp phần nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu.Trong đó có đông đảo người người lao động, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lí có hiệu quả. Thứ hai là huy động vốn toàn xã hội, để đầu tư đổi mới công nghệ phát triển doanh nghiệp. Thứ ba phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động và các cổ đông, tăng sự giám sát của các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, đảm bảo sự hài hòa lợi ích của Nhà Nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động. B.NỘI DUNG 1.TÍNH CẤP THIẾT Sở hữu Nhà nước bước đầu được cấu trúc lại theo yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà Nước. Qua bán cổ phiếu Nhà Nước đã huy động được một nguồn vốn quan trọng từ người lao động trong doanh nghiệp và trong dân cư vào đầu tư phát triển. Nhà Nước đầu tư vào các doanh nghiệp Nhà Nước và giải quyết một số chính sách cho người lao động trong doanh nghiệp Nhà Nước thục hiện cổ phần hóa. Vốn và tài sản của Nhà Nước không những được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể. Hàng năm, Nhà Nước thu được cổ phần từ các công ty cổ phần, các khoản lãi do người lao động vay mua chịu cổ phiếu, các khoản thu từ thuế của các công ty cổ phần. Mặt khác, Nhà Nước không phải mất một khoản ngân sách nào để hỗ trợ vốn hay bù lỗ hàng năm cho các doanh nghiệp Nhà Nước đã cổ phần hóa như các thời kì trước đây. Cổ phần hóa cũng đã thúc đẩy thị trường chứng khoán. Như vậy, việc cổ phần hóa là bức tranh tươi sáng và rất đáng khích lệ lẽ ra phải được thực hiện vượt kế hoạch đề ra. Bởi vì, cổ phần hóa hoàn toàn do Nhà Nước quyết định, một việc làm trong tầm tay, lại được các nhà đầu tư nước ngoài cổ vũ và hỗ trợ. Cổ phần hóa còn là một thước đo, một bước đi cụ thể trong lộ trình hội nhập. Sau cổ phần hóa, quy mô, hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp đều tăng rõ rệt. Sau cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp đã có bước chuyển biến lớn cả về quy mô, giá trị và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Bước chuyển đó được đánh giá thực tế từ thị trường. Mặt khác, cổ phần hóa cũng là cách giúp doanh nghiệp nhanh chóng mở rộng mạng lưới hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xâm nhập vào các lĩnh vực kinh doanh mới. Đổi mới doanh nghiệp Nhà Nước là vấn đề mang tính phổ biến của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Việc đổi mới doanh nghiệp Nhà Nước được thực hiện bằng nhiều giải pháp, trong đó cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước là một giải pháp quan trọng. Ở nước ta, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước đang là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, khi tham gia Cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ có điều kiện để quảng bá thương hiệu và hình ảnh của công ty mà không mất chi phí. Tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như quốc tế do doanh nghiệp đã tuân thủ những quy định nghiêm ngặt khi lên niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây là điều kiện để cho công ty hoàn thiện bộ máy, chất lượng hoạt động và xây dựng chiến lược phát triển dài hạn. Niêm yết chứng khoán đồng nghĩa với việc đại chúng hoá tài sản của công ty. Khi đó, tài sản trí tuệ, công nghệ tiên tiến của xã hội sẽ là tài sản chung cho toàn công ty.Tăng khả năng huy động vốn từ bên ngoài mỗi khi phát sinh nhu cầu về vốn. Là công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, chắc chắn sẽ có hệ số tín nhiệm cao hơn các công ty khác trong nền kinh tế. Trong những năm 80, đối với các nước có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển, thì vai trò của doanh nghiệp Nhà Nước đã được khẳng định và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhìn về tổng thể thì có những doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động tốt, hiệu quả kinh tế cao, nhưng có không ít các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động kém hiệu quả. Nhà nước phải dùng chính sách kinh tế vĩ mô để bảo hộ, như: Miễn giảm thuế, cấp vốn ưu đãi đầu tư, bù lỗ... Doanh nghiệp Nhà Nước còn những mặt hạn chế, yếu kém, hiệu quả kinh doanh nhìn chung còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự trợ giúp của Nhà nước; công nợ còn nhiều, chậm đổi mới công nghệ, lao động còn dôi dư lớn, chưa thực sự tự chủ trong kinh doanh, trình độ quản lý còn yếu kém, cơ cấu doanh nghiệp Nhà Nước còn nhiều bất hợp lý. Nhiều doanh nghiệp Nhà Nước đều có năng suất lao động thấp, chỉ đạt khoảng 38% so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vòng quay vốn trung bình trong giai đoạn 1985-1991 chỉ đạt 60% so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tại Hội nghị toàn quốc về đổi mới doanh nghiệp tháng 3 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã chỉ rõ những yếu kém của khối doanh nghiệp Nhà Nước, trong đó hiệu quả làm ăn thấp đang là một thách thức lớn khi Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế. Thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ đạt 8000 tỷ đồng trong tổng số 87.000 tỷ đồng nộp ngân sách nhà nước (chiếm tỷ lệ 9,19%), trong khi đó tổng số nợ của khối này phải thu, phải trả lên tới khoảng 300.000 tỷ đồng. Một thực tế đáng lo ngại khác là sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà Nước rất yếu. Trong khối ASEAN, Việt Nam thuộc nhóm nước có sức cạnh tranh kém phát triển. Các nước phương tây đã phải dao động giữa thời kỳ vững chãi của những thành công khu vực kinh tế nhà nước và sự phát triển của khu vực phi nhà nước cũng như việc mở rộng thị trường. Mặt khác, tỷ lệ lạm phát và nợ của Nhà nước ngày càng tăng đã làm cho nhiều chính phủ phải tự xem lại chính sách kinh tế của mình. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá về thị trường sản phẩm và thị trường vốn, hàng loạt các ngành công nghiệp đã trở nên càng ngày càng khó khăn hơn và không còn giải pháp nào khác là hợp tác quốc tế để giải quyết những khó khăn đó. Đồng thời, việc phát triển các ngành công nghiệp, phát triển sản xuất và những vấn đề liên quan đến sản xuất của các doanh nghiệp Nhà Nước đều do Nhà nước quyết định hoặc lãnh đạo doanh nghiệp Nhà Nước quyết định đã phần nào gặp trở ngại trong môi trường mới đòi hỏi phải có các quyết định nhanh và kịp thời trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước giảm dần chức năng làm kinh tế.Nhà nước không có tham vọng hành chính hoá nền kinhtế, cũng như không thể thay thế được vai trò của thị trường và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, sự quản lý, tác động của Nhà nước là điều kiện không thể thiếu được cho sự vận hành hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Cho dù luật chơi của thị trường có hiệu quả đến đâu thì cũng không thể thả nổi hoàn toàn nền kinh tế cho quy luật tự điều chỉnh của thị trường. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng thị trường tự nó sẽ tự điều chỉnh, tự nó có đủ cơ chế để vận hành hiệu quả. Nhà nước điều tiết thị trường thông qua các quy phạm pháp luật và cơ chế chính sách. Nhà nước cũng có thể can thiệp, điều tiết thị trường bằng việc thành lập các cơ quan được giao đặc trách việc điều tiết, quản lý kinh tế, với qui chế độc lập. Việc Nhà nước hạn chế, giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế và làm thay các doanh nghiệp Nhà Nước dẫn đến hai thay đổi đáng kể: Thứ nhất, tăng cường vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ hơn cho sự vận hành của thị trường; thứ hai, tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh trước thị trường. Hiện nay, các khoản nợ, việc chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp với nhau rất lớn, Nhà nước lại phải đứng ra lo trả nợ để đảm bảo cho sự hoạt động bình thường mặc dù không thu về được vốn. Điều đó đã khiến các doanh nghiệp Nhà Nước đã trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Mức độ tổn thất do khu vực doanh nghiệp Nhà Nước gây ra cho ngân sách nhà nước đã làm ảnh hưởng, thiếu lòng tin về khả năng, lợi ích của khu vực kinh tế này đối với sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đồng thời để lại những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội như: Tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, ỷ lại vào nhà nước, thất nghiệp tăng... Để giảm bớt những gánh nặng này, Nhà nước đã từng bước tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp của mình. Trong bối cảnh này, vị trí, vai trò của các doanh nghiệp Nhà Nước cũng cần thay đổi cho phù hợp. Các doanh nghiệp Nhà Nước muốn giải quyết vấn đề này không thể tự mình quyết định mà phải qua nhiều thủ tục hành chính của các cấp có thẩm quyền để chớp lấy thời cơ hội nhập và hợp tác quốc tế. Chuyển đổi doanh nghiệp Nhà Nước sang các loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu là một giải pháp hữu hiệu. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước làm thay đổi căn bản trên ba mặt đối với doanh nghiệp Nhà Nước:Thứ nhất: Chuyển hoá từ đơn sở hữu sang đa sở hữu doanh nghiệp, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của những người góp vốn và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ hai: Thay đổi căn bản về tổ chức các quan hệ quản lý nội bộ doanh nghiệp. Với cơ cấu tổ chức mới, có sự phân công, phân cấp và giám sát lẫn nhau chặt chẽ.Thứ ba: Thay đổi căn bản về quan hệ quản lý giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Từ chỗ doanh nghiệp bị chi phối toàn diện trong quá trình sản xuất kinh doanh bởi Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu duy nhất, sang quyền tự chủ kinh doanh được mở rộng và tính chịu trách nhiệm được đề cao.  2.THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA Qua hơn 15 năm triển khai chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà Nước của Đảng và Nhà nước đã đạt được những hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội nhất định; doanh nghiệp Nhà Nước được chuyển thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu với sự rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng thành phần sở hữu, từng cổ đông; giảm được sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của các cấp chính quyền; tạo cơ chế quản lý tự chủ, tự chịu trách nhiệm; tạo cơ sở pháp lý và vật chất để người lao động xác lập và nâng cao vai trò làm chủ, gắn bó máu thịt với doanh nghiệp, góp phần tích cực vào công cuộc cải cách hành chính và đấu tranh chống tham nhũng. Kết quả nổi bật của cổ phần hoá là đã tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, huy động thêm được nguồn vốn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh; hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập của doanh nghiệp được nâng lên. Thực tiễn 15 năm qua đã khẳng định cổ phần hoá đã trở thành giải pháp quan trọng, chủ yếu để cơ cấu lại, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà Nước. Trong báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước tại phiên họp thứ 43 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 21/9/2006 đã chỉ rõ: Những năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001, số lượng Doanh nghiệp Nhà Nước được cổ phần hoá tăng đáng kể, nhưng nhìn chung việc triển khai còn khá chậm. Tính đến 31/12/2005, cả nước mới cổ phần hoá được 2.935 Doanh nghiệp Nhà Nước. Số doanh nghiệp được cổ phần hoá tăng nhiều, nhưng số vốn mới chiếm 12% tổng số vốn trong các Doanh nghiệp Nhà Nước. Nếu trừ đi phần vốn Nhà nước còn giữ lại gần 50% trong các doanh nghiệp cổ phần hoá, thì thực chất tỷ lệ trên chỉ còn khoảng 6%. So với mục tiêu của Nghị quyết TW 9 (khoá IX) thì còn chậm, nhất là các doanh nghiệp có qui mô lớn, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp Nhà Nước. Sau 15 năm thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về quá trình này. Nhiều vấn đề lý luận và tư duy kinh tế đang đặt ra cần giải quyết để nâng cao hiệu quả của quá trình cổ phần hóa trong thời gian tới.Cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà Nước là một trong những vấn đề đang được đẩy mạnh ở nước ta, nhưng việc thực hiện một cách có hiệu quả không đơn giản. Vì vậy, sau 15 năm thực hiện cổ phần hóa, rất cần có sự nhìn lại thực trạng, đánh giá triển vọng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước ở nước ta trong những năm tới. Nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc lựa chọn doanh nghiệp Nhà Nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định ban đầu, chúng ta đã bổ sung đối tượng cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổng công ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay, 77% số doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có quy mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là doanh nghiệp nhỏ có vốn nhà nước dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả. Loại doanh nghiệp nhỏ này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện cổ phần hóa. Sự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy đã làm chậm tiến độ thực hiện chủ trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp Nhà Nước chưa thể hiện được rõ những ưu thế của doanh nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục tiêu cổ phần hóa đề ra. Tỷ lệ cổ phần do Nhà nước giữ ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa như sau: nắm giữ cổ phần chi phối trên 50% ở 33% số doanh nghiệp; dưới 50% số vốn ở 37% số doanh nghiệp và không giữ lại tỷ lệ % vốn nào ở gần 30% số doanh nghiệp. Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%).Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi phối” của nhà nước. Cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần.Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việc đánh giá về hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước có những ý kiến không giống nhau. Cụ thể như sau:Thứ nhất, sau khi cổ phần hóa, có tới 90% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, góp phần tăng ngân sách nhà nước, tăng thu nhập cho người lao động, huy động vốn xã hội cũng tăng lên, chấm dứt tình trạng bù lỗ của ngân sách nhà nước, tạo thêm công ăn việc làm. Chỉ có 10% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kém hiệu quả vì trước khi cổ phần hóa các doanh nghiệp này đã hoạt động rất kém, nội bộ mất đoàn kết, không thống nhất; mặt khác còn do sự can thiệp không đúng của chính quyền địa phương... Thứ hai, theo kết quả nghiên cứu, đến thời điểm này chưa có doanh nghiệp Nhà Nước nào sau khi cổ phần hóa biến thành tư nhân hóa. Bên cạnh việc công nhận một số kết quả do cổ phần hóa mang lại, cũng đã chỉ rõ: có tình trạng, một số doanh nghiệp Nhà Nước sau khi cổ phần hóa đang dần chuyển hóa thành doanh nghiệp tư nhân do một số cổ đông đã bán, chuyển nhượng số cổ phần của mình, hoặc làm trung gian thu gom cổ phần cho tư nhân ngoài doanh nghiệp nắm giữ, có trường hợp đã nắm hơn 50% tổng giá trị cổ phần danh nghĩa để trở thành chủ nhân đích thực của doanh nghiệp. Doanh nghiệp Nhà Nước nói chung khi chuyển sang công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp đều gặp khó khăn trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, mặc dù thắt chặt tín dụng không có nghĩa là phân biệt đối xử.Các doanh nghiệp trong ngành xây dựng hiện đang trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Để bảo đảm kế hoạch đầu tư, các tổng công ty hầu như phải đi vay là chính, vốn tự có chỉ đạt 2- 3% tổng mức đầu tư, áp lực trả nợ rất căng thẳng. Song, chính các công ty cổ phần lại là những doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp gặp khó khăn nhất về vốn, bởi vì những quy định thắt chặt trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây cũng là một trong những lý do khiến nhiều lãnh đạo các cấp còn băn khoăn, chưa chỉ đạo quyết liệt, người lao động lo lắng, bất an... gây ảnh hưởng đến chỉ tiêu kế hoạch cổ phần hóa từ đầu năm tới nay. Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà Nước thời gian qua đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng việc cổ phần hoá, sắp xếp các doanh nghiệp có quy mô lớn, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thực hiện còn chậm. Các Doanh nghiệp Nhà Nước đã cổ phần hoá, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và việc huy động vốn ngoài xã hội trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà Nước còn hạn chế do chưa khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài. Chưa có doanh nghiệp nào tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá. Thời gian thực hiện cổ phần hoá một doanh nghiệp còn dài, làm tiến độ cổ phần hoá chậm. Theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hoá đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ bình quân tăng 44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh có lãi; nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%. Vốn nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp không thuộc diện cần giữ cổ phần chi phối, phổ biến nhất là trong các tổng công ty nhà nước thuộc các ngành xây dựng, giao thông. Việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp mới đạt 24,1% vốn điều lệ; mới có trên 20 công ty có cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài; các cổ đông chiến lược vì thế cũng không có nhiều cơ hội để tham gia vào phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Việc người lao động trong một số doanh nghiệp bán bớt cổ phần ưu đãi sau khi mua đã làm giảm tác dụng của chính sách khuyến khích người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp. Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới thực sự trong quản trị công ty; phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như Doanh nghiệp Nhà Nước. Hạn chế này rõ nhất là ở những doanh nghiệp mà Nhà nước còn giữ cổ phần chi phối, ban lãnh đạo của doanh nghiệp đều từ Doanh nghiệp Nhà Nước trước đó chuyển sang. Trong một số công ty cổ phần, người lao động - cổ đông phần do nhận thức chưa đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, phần do sự hiểu biết pháp luật về công ty cổ phần còn hạn chế, nên có nơi quyền làm chủ chưa được phát huy. Ngược lại có nơi lạm dụng quy định của pháp luật gây khó khăn cho công tác quản lý của Hội đồng quản trị, sự điều hành của giám đốc. Nhiều nội dung của cơ chế, chính sách quản lý công ty cổ phần như: chính sách tiền lương, tiền thưởng vẫn còn áp dụng như Doanh nghiệp Nhà Nước. Quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam dù đang được tiến hành mạnh nhưng vẫn đang có ba nghịch lý tồn tại. Cổ phần hóa có ba mục tiêu cơ bản: huy động vốn, thay đổi cơ chế quản lý, và quan trọng hơn: tìm được những ông chủ có trách nhiệm, đủ năng lực để Nhà nước giao doanh nghiệp cho họ cải tổ, phát triển. Hiểu được mặt tốt của cổ phần hóa, đặt ra mục tiêu rất đúng, nhưng mặt khác cách làm của chúng ta hiện nay lại lộ ra ba nghịch lý ngay trong chính nguyên tắc cổ phần hóa. Nghịch lý thứ nhất là nghịch lý trong tư duy. Ta đã phải công nhận những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thường làm ăn không hiệu quả, muốn nó tốt lên, muốn tài sản nhà nước không mất đi, không còn cách nào khác là phải cải cách. Cải cách bao nhiêu kiểu rồi, hiệu quả đều không như mong muốn. Cuối cùng nhận ra chỉ còn con đường cổ phần hóa mới cứu được doanh nghiệp, cứu được nguồn vốn nhà nước, tăng được nội lực, sự năng động cho nền kinh tế. Nhưng dù cổ phần của Nhà Nước đang được bán cho những cá nhân, những tổ chức của một nhóm cá nhân nhưng chúng ta lại đang cho rằng cổ phần hóa không phải tư nhân hóa. Vậy cổ phần hóa là chuyển quyền sở hữu của nhà nước sang ai? Điều này chưa rõ. Thực tế trong cổ phần hóa có một phần là tư nhân hóa. Không chấp nhận điều này nên quá trình cổ phần hóa vẫn còn gượng gạo, nhiều nơi không thống nhất cách làm, dẫn đến tình trạng có địa phương hô hào về chủ trương nhưng khi tiến hành cổ phần hóa thì lại hạn chế. Nhiều hàng rào đã được lập ra: ai được cổ phần, có thời điểm ta chỉ cho những doanh nghiệp làm ăn yếu kém cổ phần hóa, còn những công ty có lãi thì không cho. Đến nay nhiều nơi vẫn bị ảnh hưởng tâm lý này. Nghịch lý này khiến tính toàn dân trong cổ phần hóa không đảm bảo vì không phải ai muốn mua cổ phần của Nhà Nước cũng được trong khi tài sản nhà nước chính là tài sản của toàn dân. Nếu ta cứ giữ cổ phần chi phối để rồi cái cổ phần ấy nó không tăng lên thì đó là thất thoát khổng lồ tiếp theo. Nghịch lý thứ hai là chúng ta muốn cổ phần hóa để tăng vốn cho doanh nghiệp nhưng lại giới hạn quyền góp vốn của người dân với tỉ lệ cố định ở mức thấp. Còn rất nhiều doanh nghiệp không nhạy cảm về an ninh quốc phòng, cũng không thuộc ngành ngân hàng, nhưng các cơ quan chủ quản doanh nghiệp hoặc bản thân ban lãnh đạo doanh nghiệp vẫn không cho bán quá 49% vốn để giữ quyền lãnh đạo và những lợi ích thiển cận. Vốn là thực lực của Nhà nước. Thực lực này không phải để rải ra khắp nơi chi phối từng tế bào A, B, C trong xã hội, mà chỉ nên gom ở một số điểm mấu chốt nhằm mục tiêu định hướng. Việc định hướng không có nghĩa là phải nắm, nhất là nắm thật nhiều. Đó là kiểu tư duy cũ. Nếu ta muốn định hướng tiến tới một nền kinh tế tri thức thì phải đầu tư cho ngành công nghệ cao, chứ không phải hô hào, rồi vẫn giữ chặt vốn để nắm các doanh nghiệp mì, bia, sợi... cụ thể. Như thế lực vừa phân tán, vừa không hiệu quả. Nếu biết tập trung tiền vào những ngành then chốt, tạo điều kiện để nó phát triển, sức mạnh sẽ lớn lên rất nhiều. Còn cách làm hiện tại của ta, vì định giá đã kém, nếu cứ giữ cổ phần chi phối để rồi cái cổ phần ấy nó không tăng lên thì đó là thất thoát khổng lồ tiếp theo. Nhà Nước cũng là một nhà đầu tư, mà đã đầu tư thì phải tìm biện pháp hiệu quả nhất, có lợi nhất cho tài sản của Nhà nước, của dân. Cũng từ thói quen muốn giữ cổ phần chi phối nên chúng ta tạo nên nghịch lý thứ ba. Cổ phần hóa đặt ra mục tiêu thay đổi cơ chế quản lý nhưng thực tế, với cách làm “giữ cổ phần chi phối” thì doanh nghiệp cơ bản vẫn giữ lại toàn bộ cơ chế điều hành cũ. Có nơi, ông giám đốc để doanh nghiệp thua lỗ mười năm liên tiếp, sau cổ phần hóa vẫn được đại diện sở hữu nhà nước... tiếp tục làm giám đốc. Trường hợp này hầu như toàn bộ ban lãnh đạo cũ của doanh nghiệp vẫn giữ nguyên. Cổ phần hóa rồi nhưng cơ chế trông chờ, mệnh lệnh hành chính đã hằn bao nhiêu năm có thay đổi được thì cũng chỉ là tí chút. Trong khi đó, chỗ dựa (là Nhà nước) không còn, nên nhiều công ty cổ phần hóa xong còn thua lỗ hơn trước. Đối phó với trường hợp này, thường là ông giám đốc già lên làm chủ tịch hội đồng quản trị, ông trưởng phòng kế toán thân cận được lên ghế giám đốc. Như vậy thì dù cổ đông có năng động, có đặt mục tiêu cao bao nhiêu, tình hình doanh nghiệp vẫn không thể có bước ngoặt quyết định. Trước đây, ta để cho doanh nghiệp tự định giá, rồi sau đó là tạo ra hội đồng định giá, cố nghĩ rằng với bản lĩnh chính trị người ta sẽ không móc ngoặc tham nhũng. Vì thế thất thoát đã rất lớn. Đến nay, thất thoát đó vẫn không bớt đi vì chúng ta chưa mạnh dạn nói không với những qui định mang nặng tính đạo đức. Việc rẻ đắt không phải trong phạm trù đạo đức mà nó là khái niệm của thị trường. Thế nhưng chúng ta vẫn qui định phải bán giá ưu đãi cho người lao động, cho lãnh đạo doanh nghiệp một phần quá lớn. Phải khẳng định cách làm đó là cực kỳ hình thức. Mong muốn cổ phần hóa không phải tư nhân hóa nên ta dành một lượng đáng kể cổ phiếu để bán ưu đãi cho công nhân. Đấy là việc tốt nhưng thực tế nó có đồng nghĩa với việc chuyển sở hữu nhà nước cho tập thể công nhân không, hay nó đang là cơ hội cho nhiều kẻ tham ô, lũng đoạn? Thực tế nếu công nhân nắm được cổ phần thì đó chỉ là tỉ lệ cực nhỏ, không đáng kể. Tiếng là 10-20% nhưng những công nhân lẻ loi liệu có thể đòi được quyền mua công bằng? Qua 1-2 năm, thậm chí chỉ vài tháng, chỉ còn rất ít người giữ được “quyền làm chủ” của mình qua việc chiếm giữ cổ phiếu. Hoặc là cổ phiếu đó được bán tự do, hoặc chính những người lãnh đạo doanh nghiệp mua, mở đường cho cá nhân nào đấy, có thể là chính lãnh đạo doanh nghiệp Nhà Nước sở hữu công ty. Cơ chế và cách quản lý cổ phần hóa như thế thì không thể không thất thoát. Người ta có thể định giá thấp doanh nghiệp, thậm chí giấu tịt một khoản vốn tương đối mà không ai biết. Vì vậy nên ngay cả những công ty nhỏ khi “lên sàn” giá cũng thường tăng gấp đôi. Lượng hóa tiền mất mát là không thể. Lý thuyết thì phức tạp thế, còn nhìn thực tế những đơn vị A, tổng công ty C., vừa định giá xong, nhà đầu tư bình thường đã thấy có thể mua gấp 10 lần mệnh giá, cứ thế mở rộng ra ở tất cả những công ty đã cổ phần hóa, cộng với cả những rò rỉ trong việc bán giá ưu đãi thì lượng thất thoát của Nhà nước đã lên tới hàng ngàn tỉ đồng hoặc còn hơn. Nếu nhìn thẳng vào sự thật thì có thể khẳng định ngay: cái cốt lõi khiến nhiều nơi mặn mà với việc cổ phần hóa thời gian qua không phải do yêu cầu về chính trị, yêu cầu phát triển sản xuất mà là vì “tiềm năng” có thể chia chác tài sản quốc gia. Rất nhiều “ông chủ” đang đại diện nhà nước nắm quyền sở hữu doanh nghiệp khi nghĩ đến cổ phần hóa là nghĩ ngay đến lợi ích cá nhân, đến chia chác, chiếm hữu. Nếu nhà nước không nhận thức được điều này thì mất mát là đương nhiên. Mà tại Việt Nam, người quyết định tiến hành cổ phần hóa không phải người lao động, số ít là do cấp trên, còn lại do chính những ông giám đốc doanh nghiệp. Nếu thấy những tài sản ẩn, như bất động sản, vị trí độc tôn, có thể định giá thấp để sau này mình được lợi, thì họ sẽ tiến hành cổ phần hóa rất nhanh. Thế là tài sản nhà nước, sau khi cổ phần hóa xong, thành “của anh, của tôi, của chúng ta”. Nhiều công ty tìm đủ cách để cổ phần hóa là do món nợ quá lớn. Món nợ đó thường được giấu kín. Và cổ phần hóa nhằm trút nợ. Hoặc là tìm cách để được khoanh, giãn nợ, hoặc là khoản nợ đó được trút lên đầu cổ đông. Trước khi cổ phần hóa thì không thấy nợ, nhưng sau khi cổ phần hóa xong mới lòi ra khoản nợ cực lớn. Một số doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa là vì ông giám đốc sắp đến tuổi nghỉ hưu. Khi thành công ty cổ phần rồi, ông ta vẫn làm thủ tục nghỉ hưu bên Nhà nước, đồng thời vẫn có thể làm giám đốc công ty cổ phần. Đây là phương pháp rất thời thượng. Thực trạng quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước ở nước ta nói trên đang đặt ra nhiều vấn đề cả về mặt lý luận, tư duy kinh tế lẫn thực tiễn quản lý, tổ chức hoạt động doanh nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước ở Việt Nam có những đặc điểm khác với tính quy luật chung ở các nước. Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong quá trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển: là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu. Các doanh nghiệp mà nước ta thực hiện cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm trong cơ chế bao cấp và kế hoạch của Nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh. Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức và hoạt động theo yêu cầu và kế hoạch của Nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân và tuân theo quy luật thị trường. Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội (trong và ngoài doanh nghiệp) để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.Từ những sự khác biệt đó cho thấy: Chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước ở nước ta là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà Nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tình hình đó không giống với yêu cầu có tính quy luật là cổ phần hóa doanh nghiệp là một bước tiến của quá trình xã hội hóa, tuân theo quy luật khách quan: quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đối tượng cổ phần hóa ở nước ta khác hẳn với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa trong nền kinh tế thị trường phát triển cao. Ở nước ta, một bộ phận doanh nghiệp Nhà Nước sau khi được cổ phần hóa vẫn chưa thoát khỏi cơ chế tập trung quan liêu cả về tài chính, tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý, tức là, chưa hẳn là một tổ chức hoạt động tuân theo quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Chính sách và quy trình cổ phần hóa ở nước ta, trên thực tế, vẫn dựa trên tư duy cũ. Vì vậy, từ khâu định giá tài sản doanh nghiệp, cho đến tổ chức quản lý sau khi doanh nghiệp đã cổ phần hóa đều tồn tại nhiều vấn đề. Việc giải quyết vấn đề tài chính trước, trong và sau khi cổ phần hóa còn nhiều bất cập như: Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thoát và lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Thực tiễn 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hóa ở nước ta cho thấy: chúng ta còn chậm trễ trong việc tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế khi chuyển sang kinh tế thị trường và trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng. Như vậy, doanh nghiệp Nhà Nước do chế độ công hữu hóa xã hội chủ nghĩa trước đây để lại đang là một bài toán khó khi chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường. Những vấn đề này đang trở thành một thách thức đối với công tác lý luận, đổi mới tư duy, công tác tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân. 3.GIẢI PHÁP 3.1.NGUYÊN NHÂN LÀM CHẬM TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HÓA Qua điều tra, khảo sát tại 500 công ty cổ phần được cổ phần hóa từ doanh nghiệp Nhà Nước cho thấy, hầu hết các đơn vị đều hoạt động tốt, có hiệu quả: doanh thu tăng 43%/năm, vốn điều lệ tăng 1,5 - 2 lần, nộp ngân sách tăng 16%, lợi nhuận tăng khoảng 245%, thu nhập của người lao động tăng 54%, cổ tức được chia 15,5%/năm, số lao động được sử dụng tăng 12%, vốn nhà nước tăng 10 - 15%...Chính phủ đề ra mục tiêu sẽ Cổ phần hóa khoảng 700 doanh nghiệp Nhà Nước trong năm 2004 và 800 doanh nghiệp Nhà Nước trong năm 2005. Tuy nhiên, 8 tháng đầu năm mới chỉ thực hiện được khoảng 51% kế hoạch năm, số doanh nghiệp Nhà Nước được Cổ phần hóa thời gian qua chủ yếu là d doanh nghiệp vừa và nhỏ (chỉ có khoảng 10% đơn vị có quy mô vốn trên 10 tỷ đồng), nên tác động tích cực của các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo toàn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp cổ phần hóa chưa cao. Vì sao tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước diễn ra không đúng theo “kịch bản”, mặc dù Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1/2004) tiếp tục khẳng định đẩy nhanh việc sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp Nhà Nước bằng các giải pháp mở rộng diện và quy mô doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hóa. Theo Nghị quyết này, việc định giá tài sản (kể cả giá trị quyền sử dụng đất) sẽ do thị trường quyết định; công khai hóa việc mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán; xóa bỏ đặc quyền, đặc lợi của doanh nghiệp Nhà Nước... Thực tế cho thấy, có nhiều khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục giải quyết để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Thứ nhất, việc quán triệt các Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cổ phần hóa chủ yếu mới dừng lại ở mức phổ biến, chưa tổ chức học tập, nghiên cứu sâu, do vậy, tâm lý hoài nghi, lo lắng còn khá phổ biến trong công chức, viên chức và người lao động. Nhiều cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp, các cơ quan chủ quản còn chần chừ, do dự sợ mất quyền lợi hoặc sợ mất đi sự bao cấp của Nhà nước. Thứ hai, tâm lý phổ biến của người lao động sợ thiếu việc làm hoặc sợ bị “đẩy ra đường” sau khi cổ phần hóa còn khá nặng nề. Quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà Nước và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước cho thấy: số lao động dôi dư do sắp xếp lại là hơn 20%, thậm chí nhiều doanh nghiệp là 30 - 40% (chỉ có khoảng 7% là có thể thực hiện chính sách nghỉ hưu trước tuổi). Số còn lại đang trong độ tuổi lao động chưa được chuẩn bị kỹ về kỹ năng lao động và đào tạo lại khi chuyển sang hoạt động trong lĩnh vực khác. Mặt khác, số lao động được tái sử dụng còn nhiều bỡ ngỡ với tư cách cổ đông và trước sứ mệnh làm chủ thực sự đối với doanh nghiệp. Thứ ba, đa số lãnh đạo doanh nghiệp Nhà Nước trưởng thành trong thời kỳ bao cấp nên sự am hiểu về kinh tế hàng hóa còn hạn chế; số cán bộ năng động sáng tạo, thích ứng với cơ chế kinh tế mới vẫn còn phân vân, vừa muốn cổ phần hóa vừa không muốn hoặc không dám tiên phong đi trước. Thực tế đã cho thấy, số lãnh đạo không giỏi không biết vị trí của mình sẽ ra sao, cổ đông có tín nhiệm bầu mình không, họ lo khi cổ phần hóa, với sự giám sát của cổ đông sẽ bị tước quyền “ông chủ”. Số lãnh đạo sắp đến tuổi nghỉ hưu lại muốn thúc đẩy cổ phần hóa nhanh để có thể mua nhiều cổ phần và có chân trong hội đồng quản trị hoặc sẽ được nằm trong ban lãnh đạo mới của doanh nghiệp. Thứ tư, cán bộ lãnh đạo, công chức nhà nước tại các cơ quan chủ quản sợ bị mất quyền lực và quyền lợi khi “con gà đẻ trứng vàng” không thuộc quyền quản lý trực tiếp của mình nữa. Hiện nay, vẫn còn không ít cán bộ, công chức hoạch định chính sách lo lắng cổ phần hóa sẽ bị biến thành tư nhân hóa dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đến tay họ chậm được thực hiện hoặc chậm được cụ thể hóa. Thứ năm, các tổ chức Đảng và đảng viên lo lắng cổ phần hóa sẽ làm biến động tổ chức Đảng hoặc tổ chức Đảng bị thu hẹp lại. Nhiều người phân vân: “Quyền và nghĩa vụ đảng viên rồi sẽ ra sao khi thực hiện 19 điều cấm và không được hoạt động kinh tế có sự bóc lột sức lao động; sau Cổ phần hóa cách thức tổ chức, lãnh đạo và mô hình tổ chức Đảng, cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở và Đảng lãnh đạo toàn diện mọi hoạt động sẽ ra sao, đặc biệt với các doanh nghiệp có vốn cổ phần nước ngoài”. Thứ sáu, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hướng dẫn thi hành về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước còn chậm, bộc lộ nhiều hạn chế, chưa có sự hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ những khó khăn như việc bán 30% số cổ phần ra ngoài doanh nghiệp qua các đơn vị tài chính trung gian; việc xác định giá trị và tài sản có trong doanh nghiệp, thủ tục hành chính còn nhiều rườm rà; quy chế hỗ trợ vốn, tín dụng cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa còn quy định chung chung... Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật của các cấp chính quyền thiếu thống nhất và được thực hiện không đồng bộ trong phạm vi cả nước hoặc nhiều khi không phù hợp với các văn bản của Nhà nước hoặc cấp trên. Mặt khác, thủ tục, quy trình cổ phần hóa còn rườm rà, phức tạp, cứng nhắc làm cho doanh nghiệp cũng như các cấp chính quyền rơi vào thế bị động. Thứ bảy, cơ chế tài chính cho chuyển đổi doanh nghiệp Nhà Nước sang công ty cổ phần thiếu đồng bộ, nhiều điểm không còn phù hợp, nhưng chậm điều chỉnh hoặc thay thế kịp thời như cách thức hạch toán tài chính trước khi cổ phần hóa không rõ ràng dẫn đến nhiều tài sản của doanh nghiệp bị thất thoát mà không xác định được nguyên nhân... Thứ tám, chế tài giám sát của cổ đông là Nhà nước chưa rõ ràng, một số khâu trong quá trình cổ phần hóa như mặt bằng sản xuất - kinh doanh, chính sách về lao động, cổ phiếu niêm yết và không niêm yết khi bán ra thị trường chứng khoán... còn nhiều lỗ hổng dễ phát sinh tiêu cực hoặc bị lợi dụng. Điều này khiến nhà đầu tư, cán bộ, công chức, người lao động thiếu niềm tin. 3.2.GIẢI PHÁP Để nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước sau 20 năm chuyển đổi nền kinh tế, nước ta đã đạt được một số thành tựu về tăng trưởng kinh tế, nhưng hiệu quả, chất lượng tăng trưởng còn chưa cao. Trên nền chung đó lại diễn ra quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước. Vì vậy, triển vọng của quá trình cổ phần hóa sẽ như thế nào có quan hệ chặt chẽ với chất lượng đổi mới nền kinh tế từ nay trở về sau.Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà Nước chỉ có hiệu quả khi đồng thời tạo được các điều kiện sau đây:Thứ nhất, điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này, khai thác những lợi thế của đất nước và các nguồn đầu tư bên ngoài để đưa đến một mô hình kinh tế hợp lý. Theo dõi quá trình phát triển kinh tế Việt Nam, giáo sư David Dapice đại học Ha-vớt nêu rõ: thực tế mỗi năm Chính phủ Việt Nam đầu tư khoảng 30% GDP, nhưng chỉ tăng trưởng 7%-8%. Nếu biết đầu tư đúng thì tăng trưởng phải đạt ở mức 9%-10% như Trung Quốc. Theo cách tính toán trên, do đầu tư không phù hợp, chúng ta đã làm tổn thất 2% GDP của đất nước (khoảng 1 tỉ USD mỗi năm). Vì thế, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước phải dựa trên quan điểm tiết kiệm ngân sách, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải chỉ là giải pháp cho những yếu kém trong kinh tế nhà nước. Trên thế giới, đã có những nước sử dụng rất hiệu quả ngân sách nhà nước. Thứ hai, cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà Nước phải hướng tới sự thu hút và tập trung các nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế, tạo ra hình ảnh nhân dân xây dựng và làm chủ nền kinh tế. Khi điều này được thực hiện thì các khâu của quy trình cổ phần hóa sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp cổ phần, cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn đề nhân sự khác... sẽ không như hiện nay, mà sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn trước, có lợi cho người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế. Cần xác định rõ: ai là chủ sở hữu thực tế của công ty cổ phần và chủ sở hữu phải gắn liền với trách nhiệm đối với công ty như thế nào?. Trong vấn đề này có một nội dung phải làm rõ: ai đại diện chủ sở hữu số vốn nhà nước trong công ty cổ phần nhằm chấm dứt quan hệ sở hữu nhà nước chung chung và không có trách nhiệm, kéo dài nhiều năm nay.Thứ hai cần vận dụng: “Quy chế quản trị công ty” nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh bạch, lành mạnh. Yêu cầu này chỉ thực hiện được khi có sự lựa chọn những giám đốc phù hợp với quy chế quản trị công ty, nhất là phải sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính của công ty. Đổi mới cơ cấu quyền sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hoá cũng là một trong những giải pháp góp phần thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với quốc sách phát huy tiềm lực toàn xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, quản trị doanh nghiệp ngày càng trở thành vấn đề thời sự của hầu hết các quốc gia trên thế giới nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hệ thống doanh nghiệp và nền kinh tế. Khác với hoạt động quản lý, điều hành doanh nghiệp hàng ngày của ban lãnh đạo Công ty, quản trị doanh nghiệp là cách thức để các cổ đông giám sát Công ty nhằm đảm bảo ban lãnh đạo điều hành Công ty một cách có hiệu quả và vì lợi ích tốt nhất của các cổ đông (hay chủ sở hữu). Một trong những yếu tố căn bản quyết định cấu trúc quản trị doanh nghiệp chính là cơ cấu quyền sở hữu. Theo tiến sỹ Rolf – E.Breuer, phát ngôn viên của Ban Giám đốc Ngân hàng Deutsche AG (Đức), phát hiện các nguyên tắc về lợi ích của các cổ đông tại Đức gần đây đã chứng minh rằng cơ cấu vốn đã trở thành vấn đề quan trọng trong quá trình phân bổ tài sản và ra quyết định của Công ty.Ở nhiều quốc ghia thuộc Đông Âu và Cộng động các quốc gia độc lập (SNG), tư nhân hoá là phương tiện để thiết lập quyền sử hữu tư nhân. Ở Việt Nam, tình hình có đôi chút khác biệt vì khu vực tư nhân đã tồn tại và phát triển từ trước năm 1998 - thời điểm chương trình cổ phần hoá được đẩy mạnh.Tính chung cho cả nền kinh tế, cổ phần hoá ở Việt Nam hầu như chưa có tác động đến cấu trúc sở hữu của nền kinh tế.Trong thời gian qua, nhà nước luôn giữ một tỷ lệ cổ phần cao trong các doanh nghiệp cổ phần hoá .Nhà nước đẩy mạnh việc cổ phần hoá đối với các doanh nghiệp ở nhiều ngành kinh tế trọng điểm và các doanh nghiệp Nhà Nước được cổ phần hoá này thường có quy mô lớn hơn, và có lợi nhuận cao hơn so với các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá trong những năm trước đó. Việc nhà nước duy trì tỷ lệ cổ phần đa số vô hình trung đã tạo ra một số khó khăn trong việc điều hành Công ty của các doanh nghiệp cổ phần hoá, đồng thời làm nảy sinh một số vấn đề pháp lý mới. Cụ thể là: cổ phần hoá vẫn chưa tạo ra được sự rạch ròi giữa quyền quản lý nhà nước và quyền sở hữu, vì nhà nước vừa là người ban hành các quy định, vừa là cổ đông lớn. Khi sở hữu đa số cổ phần, những người đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp có quyền phủ quyết các quyết định quản lý và đầu tư quan trọng, và điều này có thể dẫn đến trường hợp can thiệp một cách duy ý chí vào hoạt động điều hành của doanh nghiệp. Ở tầm vĩ mô, việc nhà nước đóng vai trò kép - vừa là người chủ sở hữu các doanh nghiệp Nhà Nước và các doanh nghiệp cổ phần hoá, vừa là cơ quan hành pháp tối cao - tạo ra khả năng một số cơ quan của nhà nước bị thao túng. Một vấn đề cần quan tâm khác là khả năng và nguồn lực của cơ quan quản lý vốn nhà nước rất hạn chế trong khi cơ quan này phải giám sát cùng lúc rất nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá. Hệ quả là cho dù trở thành cổ đông lớn (nếu không nói là lớn nhất) trong nhiều doanh nghiệp thì nhà nước cũng không thể sử dụng quyền điều hành và giám sát một cách đúng đắn. Điều này, cùng với việc người lao động thường chỉ có tiếng nói yếu ót, dẫn tới tình trạng ban Giám đốc không bị giám sát và trong nhiều trường hợp có thể tự do làm theo ý mình, vì vậy rất dễ xảy ra tình trạng lạm dụng quyền của tập thể để phục vụ lợi ích cá nhân. Một đặc điểm nổi bật nữa của cổ phần hoá ở Việt Nam là có tính khép kín và nội bộ cao. Lý do chủ yếu của hiện tượng này có thể là do ở đây có sự bất cân xứng thông tin đáng kể giữa những nhà đầu tư bên trong và bên ngoài doanh nghiệp về giá trị thực và giá trị tương lai của doanh nghiệp sẽ được cổ phần hoá. Khi thông tin không minh bạch và/hoặc không đầy đủ, đồng thời quyền lợi của các nhà đầu tư thiểu số không được bảo vệ một cách thích đáng thì hệ quả là đa số các nhà đầu tư bên ngoài sẽ không chấp nhận rủi ro và không mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Kết quả là trong nhiều trường hợp, cổ phiếu tập trung vào tay ban Giám đốc, họ hàng và người quen của họ, tức là những người có thông tin nội bộ. Ngoài ra, việc khống chế tỷ lệ cổ phần bán cho các nhà đầu tư nước ngoài càng làm cho cổ phần hoá nội bộ trở nên phổ biến hơn. Điều này giải thích tại sao ban Giám đốc của nhiều doanh nghiệp Nhà Nước không muốn tiết lộ thông tin chân thực về doanh nghiệp của mình.Mặt khác, hiện đang có một rào cản rất lớn đối với các nhà đầu tư chiến lược, là không phải doanh nghiệp nào cũng muốn có nhà đầu tư chiến lược tham gia. Bởi vì một khi nhà đầu tư chiến lược tham gia và có tiếng nói trong các quyết định của doanh nghiệp thì quyền lực của những người điều hành hiện tại bị giảm đi rất nhiều và khả năng bị sa thải vì năng lực không đáp ứng được yêu cầu công việc là điều khó tránh khỏi. Do đó, có thể nói, chính cổ phần hoá nội bộ là nguyên nhân của sự thất bại trong việc thu hút lượng vốn vô cùng lớn từ nguồn tiết kiệm trong nước. Thêm vào đó, không có sự tham gia hiệu quả của các chủ sở hữu ở bên ngoài (đặc biệt là các cá nhân và tổ chức nước ngoài), chất lượng quản trị doanh nghiệp hậu cổ phần hoá sẽ rất khó được cải thiện. C.KẾT LUẬN Cổ phần hóa là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước, một bộ phận quan trọng của chương trình cải cách doanh nghiệp Nhà Nước. Để cổ phần hoá thực sự phát huy được hiệu quả, huy động được tiềm lực toàn xã hội, những nghiên cứu về việc xây dựng cấu trúc quyền sở hữu phù hợp với môi trường quản lý của Việt Nam trong doanh nghiệp cổ phần hoá đã và đang trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.Như vậy qua những vấn đề trên chúng ta đã phần nào hiểu được về cổ phần hóa, thấy được thực trạng cổ phần hóa ở nước ta hiện nay. Thực tế đã cho thấy nước ta là một nước đang phát triển cần phải thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nhưng cho tới nay việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà Nước ở nước ta đã được triển khai khá lâu song kết quả không thu được là bao.Nhà Nước cũng như chính các doanh nghiệp cần phải khắc phục ngay những nguyên nhân lớn đã nêu ở trên để góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước. D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. 2. 3.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7396.doc
Tài liệu liên quan