A.Đặt vấn đề
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí. Nhưng ngày nay, nguồn tài nguyên quý giá đó đang dần bị suy thoái. Những năm qua, ở Việt Nam nạn phá rừng, mất rừng ngày càng nghiêm trọng, hàng ngàn diện tích ha rừng càng bị thu hẹp lại. Mất rừng và suy thoái rừng gây nên hiện tượng sa mạc hoá và làm nghèo đất tại nhiều địa phương. Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tác động tiêu cực và thách thức sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường như gây lũ lụt, hạn hán gây khó khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt suy thoái rừng làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng khác
Hiểu rõ về hiện trạng rừng Việt Nam, tìm ra các biện pháp khắc phục những hậu quả do suy thoái tài nguyên rừng gây ra đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay mà chúng ta cần quan tâm.
A.Đặt vấn đề
B.Nội dung
1. Hiện trạng tài nguyên rừng
2.Nguyên nhân gây suy thoái tài nguyên rừng
2.1 Chuyển mục đích sử dụng đất
2.2 Khai thác nguồn lâm sản quá mức.
2.3. Cháy rừng
2.4 Sức ép dân số
2.5 Đói nghèo
2.6 Hậu quả của cuộc chiến tranh hoá học để lại
2.7 Tập quán du canh du cư
2.8-Các nguyên nhân khác
3.Hậu quả của suy thoái rừng
4.Các biện pháp khắc phục
C. KẾT LUẬN
21 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 6083 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nguyên nhân suy thoái tài nguyên rừng và biện pháp khắc phục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: Nguyên nhân suy thoái tài nguyên rừng và biện pháp khắc phục
Giáo viên hướng dẫn: Phan Thị Thuý
Sinh viên thực hiện: Phạm Thị Thanh Thuỷ
Lê Thị Mỹ Linh
Lê Minh Khuê
Vũ Ngọc An
Bài làm
A.Đặt vấn đề
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí. Nhưng ngày nay, nguồn tài nguyên quý giá đó đang dần bị suy thoái. Những năm qua, ở Việt Nam nạn phá rừng, mất rừng ngày càng nghiêm trọng, hàng ngàn diện tích ha rừng càng bị thu hẹp lại. Mất rừng và suy thoái rừng gây nên hiện tượng sa mạc hoá và làm nghèo đất tại nhiều địa phương. Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tác động tiêu cực và thách thức sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường như gây lũ lụt, hạn hán gây khó khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt suy thoái rừng làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng khác…
Hiểu rõ về hiện trạng rừng Việt Nam, tìm ra các biện pháp khắc phục những hậu quả do suy thoái tài nguyên rừng gây ra đang là một vấn đề cấp thiết hiện nay mà chúng ta cần quan tâm.
B.Nội dung
1. Hiện trạng tài nguyên rừng
Nước ta, diện tích rừng bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 - 1995). Trong những năm gần đây diện tích rừng đã không ngừng tăng trở lại (năm 2006 dự báo độ che phủ của rừng khoảng 38 %, trong khi đầu những năm 90 chỉ còn khoảng 27-28 %).
Diễn biến diện tích rừng qua các thời kì
Đơn vị tính:1.000.000ha
Năm
Loại rừng
1945
1976
1980
1985
1990
1995
1999
2002
Tổng diện tích
14300
11,169
10,608
9,892
9,175
9,302
10,995060
11,784589
Rừng trồng
0
0,092
0,422
0,584
0,745
1,050
1,524323
1,919569
Rừng tự nhiên
14300
11,076
10,186
9,3083
8,4307
8,2525
9,470737
9,865020
Độ che phủ (%)
43,0
33,8
32,1
30,0
27,8
28,2
33,2
35,8
Nguồn:Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn,tính đến tháng 12 năm 2003
2.Nguyên nhân gây suy thoái tài nguyên rừng
Với rất nhiều nguyên nhân tác động trực tiếp nhưng có thể kể đến 7 nguyên nhân tiêu biểu sau đóng vai trò chính của việc góp phần làm suy thoái tài nguyên rừng Việt Nam, và những nguyên nhân trên tương đương với mức độ quan trọng của chính bản thân nó:
-Chuyển đổi mục đích sử dụng đất
-Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép
-Cháy rừng
-Sức ép dân số
-Nghèo đói
-Hậu quả của cuộc chiến tranh để lại
-Tập quán du canh du cư
-Các nguyên nhân khác
Để có thể nhìn nhận được mức độ suy thoái rừng ở viêt nam đang là vấn đề đáng lo ngại, ta đi phân tích từng nguyên nhân
2.1 Chuyển mục đích sử dụng đất
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất chính là sự mở rộng đất nông nghiệp, đất sản xuất, là mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng cách lấn sâu vào đất rừng, là nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái đa dạng sinh học. Phá rừng ngập mặn để nuôi tôm là hậu quả làm suy thoái rừng. Rừng ngập mặn đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam. Đặc biệt rừng ngập mặn ở Nam Bộ là những căn cứ kháng chiến vững chắc, nơi cất giấu vũ khí chuyển từ miền Bắc vào trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Do vị trí chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất liền, nên hệ sinh thái rừng ngập mặn có tính đa dạng sinh học rất cao. Rừng ngập mặn là bức tường xanh vững chắc bảo vệ bờ biển, đê biển, hạn chế xói lở và các tác hại của bão lụt. Do chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế trước mắt, đặc biệt là nguồn lợi từ tôm nuôi xuất khẩu nên rừng ngập mặn Việt Nam đã bị suy thoái nghiêm trọng.
Ngoài ra con người còn chuyển đổi 1 số lượng lớn diện tích rừng để làm các khu du lịch,các khu nghỉ mát. Vừa qua uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng 20% diện tích trong tổng số 56 ha đất rừng phòng hộ để xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phục vụ di lịch.
2.2 Khai thác nguồn lâm sản quá mức.
Khai thác nguồn lâm sản đang là tình trạng đáng lo ngại hiện nay đối với tài nguyên rừng Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến rừng bị suy thoái một cách nghiêm trọng làm cho sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên, sự phong phú về các loài sinh vật, độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm sút gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sinh vật và cây trồng trên toàn cầu. Khai thác rừng là hành động do chính con người tạo ra là phần lớn, vì rất nhiều mục đích khác nhau mà con người đã sử dụng dưới nhiều hình thức để tác động và tàn phá tài nguyên rừng. Với các mục đích khác nhau cho nên hoạt động khai thác nguồn lâm sản ở đây được chia thành 3 hoạt động: khai thác gỗ, khai thác củi, khai thác lâm sản ngoài gỗ.
•Khai thác gỗ. Trong giai đoạn từ năm 1986-1991 các lâm trường quốc doanh đã khai thác trung bình 3,5 triệu m3 gỗ mỗi năm ( khoảng 80.000 ha rừng), đó là chưa nói đến hậu quả của nạn khai thác trộm gỗ đã xảy ra khắp mọi nơi thậm chí cả trong các khu bảo tồn. Kết quả là rừng đã bị suy giảm nhanh chóng cả về diện tích lẫn chất lượng. Ngày nay, khi giá gỗ tăng cao, con người đã không ngừng tiến hành khai thác các loài nhóm gỗ trên theo các mục đích của mình. Họ khai phá để phục vụ cho các công trình xây dựng như làm giàn giáo, cốppha. Đối với loài gỗ bền chắc thì họ khai thác để xây dựng nhà ở, đối với loài gỗ quý hiếm thì họ khai thác nhằm để bán và xuất khẩu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xa xỉ của con người. Việc khai thác các loài gỗ quý hiếm để phục vụ mục đích kinh doanh xuất khẩu hiện nay đang là một nguồn lợi tức đáng kể cho quốc gia có trữ lượng lớn gỗ quý như Việt Nam.
Với tốc độ đáng lo ngại, nạn khai thác rừng diễn ra chủ yếu ở các khu rừng nhiệt đới đang dần đưa đến nguy cơ mất rừng.
•Khai thác củi . Đối với các loại gỗ ngoài giá trị xây dựng công trình, xây dựng nhà ở, phục vụ kinh doanh xuất khẩu thì những loại thực vật kém giá trị khác lại được con người khai thác với mục đích là làm củi đốt. Trong phạm vi toàn quốc, 90% năng lượng dùng cho gia đình là các sản phẩm từ thực vật, hàng năm 1 lượng củi khoảng 21 triệu tấn được khai thác từ rừng để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt trong gia đình và lượng củi này nhiều hơn lượng gỗ xuất khẩu hàng năm. Hơn nữa, Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, đời sống của người dân đang dần có sự biến đổi nhưng tỉ lệ thay đổi đó vẫn còn thấp. Nhiều người dân ở vùng miền núi và nông thôn chiếm một phần dân số đông so với cả nước, đã theo thói quen trong sinh hoạt họ chỉ dùng củi để làm nguyên liệu đốt và dùng với lượng củi khá cao. Những hộ gia đình nghèo không có đất sản xuất, vốn đầu tư đã vào rừng khai thác củi bán đều có thêm thu nhập. Với dân số 84 triệu người hiện nay, thì nhu cầu về lượng củi đốt như hiện nay cũng tăng theo. Đây là vấn đề đáng lo ngại cho việc tàn phá rừng tiếp tục tiếp diễn.
Ông Nguyễn Dài, xã Phú Thuận ngồi chẻ những gốc cây được bốc lên từ rừng phòng hộ ven biển để... lấy củi. Ảnh: Nguyễn Phương.
•Khai thác lâm sản ngoài gỗ. Rừng không chỉ có giá trị về gỗ mà còn có các giá trị lâm sản ngoài gỗ. Đây có thể xem là nguyên nhân tác động làm suy kiệt tài nguyên rừng nhanh nhất. Lâm sản ngoài gỗ bao gồm các loài động vật quý, động vật hoang dã… và các loại thực vật mà cho các sản phẩm ngoài gỗ như: song, mây, tre, nứa, lá các loại cây thuốc, dầu… Tất cả các loài trên có thể được sử dụng trong gia đình, bán và xuất khẩu cho nên tình trạng khai thác, buôn bán trái phép, xuất khẩu các loài động vật thực vật đang được diễn ra mạnh mẽ. Ở Việt Nam trong những năm gần đây, việc buôn bán và xuất khẩu các sản phẩm từ động vật và thực vật quý hiếm, kể cả những loài được bảo vệ đang phát triển rất nhanh. Vì thiếu kế hoạch quản lý hợp lý, thiếu sự kiểm tra chặt chẽ trong việc khai thác tài nguyên sinh vật rừng mà ở nhiều vùng, một số loài động vật như tê giác, hổ, báo, voi, gấu, khỉ…, các loại cây như: pơmu, trầm hương, gõ đỏ…đã ngày càng trở nên rất hiếm. Giá trị xuất khẩu cao của các loài nói trên cùng với sự kém hiểu biết, hám lợi nhuận đã thúc đẩy con người tìm cách săn bắt chúng ở khắp mọi nơi. Cùng xuất phát từ sự nghèo đói mà người dân đổ xô vào rừng khai thác các nguồn lâm sản ngoài gỗ. Và đang còn rất nhiều hoạt động khai thác các loài động vật thực vật khác theo từng mục đích riêng ảnh hưởng tới môi trường. Các hoạt động khai phá trái phép này kéo dài âm ỉ, liên tục, tốc độ của sự phục hồi rừng không kịp với tốc độ phá rứng cho nên rừng đang bị suy thoái. Cần có các biện pháp tích cực để ngăn chặn và làm giảm các hoạt động trái phép này.
2.3. Cháy rừng
Cháy rừng cũng là một nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tài nguyên rừng một cách rất nhanh gây ảnh hưởng tới các hoạt động sống của sinh vật trên một diện tích rộng lớn và gây ra hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán đến cuộc sống con người. Ngày nay cháy rừng cũng do nhiều nguyên nhân gây ra, chúng ta có thể kể đến một số nguyên nhân như: hiện tượng elnino gây ra, do các hoạt động khai thác của con người như đốt lửa tìm mật ong, tìm mật gấu hay đốt hương tìm mộ liệt sĩ trong chiến tranh, do hoạt động đốt nưong làm rẫy của người dân tộc miền núi… những nguyên nhân này đều có thể khiến rừng bị cháy.
Với tổng diện tích rừng bị cháy là 2.304,07 ha; diện tích rừng tự nhiên 962.79 ha; diện tích rừng trồng là: 1.341,28 ha; số vụ được cứu là 440 vụ so với năm trước là 138 vụ cháy với tổng diện tích là 551.40 ha. Kết quả này cho thấy số vụ cháy rừng năm nay cao hơn và đang ở mức cảnh báo như: 6.000 ha rừng ở Đồng Tháp có nguy cơ cháy, Rừng An Giang báo động nguy cơ cháy cấp độ 5, nhiều khu vực đang ở cấp cảnh báo cháy rừng cực kỳ nguy hiểm như Nghệ An, Thừa Thiên Huế… Và hầu hết các diện tích rừng bị cháy đều nằm trong những vùng nhạy cảm như rừng đầu nguồn, đất dốc, vùng sinh thái đất ngập nước, rừng tràm, vùng rừng chống cát di động nên dễ gây lũ quét, xói lở, đất dễ bị khô hạn và thoái hoá. Cháy rừng sẽ nhanh chóng lan ra trên một diện tích rộng lớn và rất khó dập tắt cho nên thiệt hại cũng rất nghiêm trọng. Sự phục hồi và tái tạo lại rừng trong điều kiện này là rất chậm vì thế mà tài nguyên rừng đang cạn kiệt dần đi. Do vậy, đòi hỏi ý thức bảo vệ của người dân và dân và cần có sự quản lý chặt chẽ, sự quan tâm nguồn tài nguyên rừng của ngành kiểm lâm để hạn chế được sự suy giảm diện tích tài nguyên rừng.
2.4 Sức ép dân số
Tăng dân số nhanh là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái đa dạng sinh học, suy thoái môi trường. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu trong sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Sự gia tăng về mật độ dân đã dẫn đến nạn phá rừng và sự suy thoái nghiêm trọng về các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Hiện nay dân cư ngày càng tập trung ở các đô thị để dễ dàng trao đổi buôn bán… thoã mãn nhu cầu của họ, gây nên tình trạng mất cân đối giữa dân cư ở nông thôn và thành thị. Người dân ồ ạt ra thành thị kiếm sống dẫn đến tình trạng đô thị hoá, đòi hỏi nền kinh tế ở khu vực này phải phát triển tương đối để đáp ứng đầy đủ việc làm cho người dân. Và khi nhu cầu con người trong tất cả các lĩnh vực tăng cao, nhu cầu việc làm cũng tăng thì các nhà máy, xí nghiệp, các công ty, cơ sở chế biến… bắt đầu được hình thành. Nhưng diện tích đất thành thị chỉ chiếm một phần rất nhỏ cho nên tất cả các hoạt động tiêu dùng và sản xuất, khai thác chế biến không thể diễn ra ở đây, buộc họ phải chuyển đến một nơi cách xa thành thị, cách xa nơi sinh sống, chuyển đến một địa bàn nào đó để xây dựng cở sở sản xuất cho mình. Và dần họ lấn chiếm vào rừng, nơi có diện tích khá rộng và tiến hành khai thác tàn phá rừng để xây dựng các nhà máy xí nghiệp. Ở nông thôn thì dân số tăng thì buộc người dân phải mở rộng diện tích đất canh tác để sản xuất đủ lương thực đảm bảo cho cuộc sống, buộc họ phải tiến sâu vào rừng, bắt đầu chặt phá rừng để lấy đất tiến hành sản xuất. Ban đầu chỉ khai thác một phần diện tích nhỏ và sau một thời gian dài, ngoài nhu cầu mở rộng đất canh tác mà nhu cầu về nhà ở của con người cũng tăng lên. Do nền kinh tế phát triển, giá cả đất tại các đô thị rất cao nhưng người dân họ không đủ khả năng để mua nhà tại các vùng đồng bằng và đương nhiên họ sẽ chuyển lên địa bàn mà nơi họ có khả năng mua nhà ở và rừng được xem là địa bàn sinh sống tiềm năng. Tài nguyên rừng thì có hạn mà nhu cầu con người thì ngày càng tăng và chỉ trong một thời gian ngắn các loài động vật, thực vật quý hiếm đã bị khai thác cạn kiệt, thậm chí có nguy cở bị tiêu diệt làm cho số lượng và các chủng loài sinh vật ngày càng giảm đi. Vì vậy, có thể nói sức ép dân số có tác động rất lớn đối với suy thoái tài nguyên rừng. Con người cần có sự khai thác hợp lý có kế hoạch để hạn chế khai thác rừng một cách bừa bãi làm giảm tài nguyen rừng một cách đáng kể.
2.5 Đói nghèo
Suy thoái môi trường có nhiều nguyên nhân trong đó một phần do sự đói nghèo tác động nên. Đói nghèo luôn đi đôi với sự khan hiếm tài nguyên sản xuất dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên quá mức làm tăng tình trạng khan hiếm và suy thoái. Với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, Việt Nam là một nước phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên Đất nông nghiệp ở nhiều nơi thiếu nghiêm trọng và nhiều người phải sống dựa vào rừng, đời sống rất thấp khoảng 50% gia đình thuộc vào diện đói nghèo. Vì thiếu ruộng, thiếu vốn đầu tư những người nghèo đói thường phải đến sinh sống tạo những nơi có điều kiện không thuận lợi mà cần ít vốn đầu tư phải bóc lột đất và tài nguyên thiên nhiên để duy trì cuộc sống làm cho các loại tài nguyên nay dần bị suy thoái nhanh chóng. Nhưng cũng phải chứng tỏ một điều là: nghèo đói không đồng nghĩa với việc được tàn phá rừng như hoạt động khai thác gỗ, củi, đặc sản rừng… để đem đi bán. Vì nghèo, không có đất sản xuất, không có vốn đầu tư, buộc họ phải tàn phá để rừng nuôi sống bản thân và gia đình. Tuy hoạt động ấy mang tính nhỏ lẻ, manh múm, không ồ ạt nhưng lại được lặp đi lặp lại trong một thời gian khá dài nên rất khó quản lý và gây nên tình trạng cạn kiệt dần của tài nguyên rừng. Khi rừng ngày càng giảm về số lượng cây trồng, vật nuôi hay diện tích rừng bị thu hẹp đã dẫn đến hiện tượng hạn hán lũ lụt, khả năng ngăn chặn xói mòn đất là rất kém. Cho nên mỗi lần thiên tai ập đến lại chính những người nghèo tiếp tục gánh chịu tổn thất nặng nề hơn do phải sống gần rừng. Vốn dĩ họ đã nghèo nay lại càng nghèo hơn, sự nghèo đói luôn xây quanh cuộc sống của họ, dường như họ khó có thể thoát ra được cuộc sống tiếp tục phá rừng lấy gỗ,củi, đặc sản rừng bán để có thu nhập. Vì mục đích là có thu nhập nuôi sống gia đình mình mà các hộ dân nghèo đói đang dần dần làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vậy cần có các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho hộ nghèo đói như các chương trình phát triển ngành nghệ phụ… để giảm bớt hiện tượng khai thác rừng.
2.6 Hậu quả của cuộc chiến tranh hoá học để lại.
Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 2, quân đội mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh hoá học với quy mô lớn nhất trong mọi thời đại của lịch sử. Trong cuộc chiến tranh này, quân đội Mỹ đã rải khoảng hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang xuống một diện tích khoảng 24,67% tổng diện tích lãng thổ Việt Nam. Trong đó, phần lớn là chất độc da cam, là chất có chứa tạp chất độc đioxin. Nồng độ các chất được rải trong các phi vụ thường cao hơn gấp từ 20-40 lần nồng độ dùng trong Nông nghiệp và các chất diệt cỏ và phát quang thông thường được phân huỷ sau 1 tháng hoặc đến dưới 1 năm riêng hợp chất đioxin có trong chất da cam rất bền vững, với thời gian bán phân huỷ được ước tính khoảng 15-20 năm hoặc lâu hơn nữa. Với số lượng rất lớn chất độc hoá học đã rải lặp lại nhiều lần trong một quãng thời gian dài với nồng độ cao, chúng ngấm và dần phân huỷ trong đất, không những đã làm chết cây cối mà còn gây ô nhiễm môi trường trong một thời gian dài và làm đảo lộn các hệ sinh thái tự nhiên. Những hậu quả tức thời và lâu dài của chất độc hoá học đối với tài nguyên và môi trường rừng là rất rõ ràng. Trong quá trình bị tác động, hàng trăm loài cây đã bị trút lá, đáng quan tâm nhất là những cây gỗ lớn thuộc tầng nhô và tầng ưu thế sinh thái thuộc họ dầu, họ đậu. Nhiều loài cây gỗ quý hiếm như giáng hương, gụ, sao đen… và một số cây họ dầu thuộc tầng cao trong rừng đã bị chết dẫn đến khan hiếm nguồn hạt giống củamột số loài cây quý. Tán rừng bị phá vỡ, môi trường rừng bị thay đổi nhanh chóng, những loài cây của rừng thứ sinh như tre, nứa, các loài cây gỗ ưa ánh sáng mọc nhanh, kém giá trị kinh tế thì chúng xuất hiện và lấn át cây gỗ bản địa. Nhiều khu rừng đã bị phá huỷ nặng nề do quy mô phá hoại rộng lớn và lặp đi lặp lại nhiều lần, kéo dài trong nhiều năm, kèm theo với các tác động khác của bom đạn… Hậu quả là cây rừng bị chết đi, các loài cây cỏ dại như cỏ Mỹ, cỏ tranh, lau lách xâm lấn và đến nay rừng vẫn chưa được phục hồi. Và theo tính toán sơ bộ, trên 3,3 triệu ha đất đai tự nhiên bị rải chất độc trong đó rừng nội địa bị tác động nặng nề với nhiều mực độ khác nhau, làm tổng số gỗ bị thiệt hại là 119.536.000 m3, bao gồm lượng gỗ bị mất tức thời 90.284.000m3 gỗ tăng trưởng lâu dài do rừng bị phá huỷ. Ngoài ra, chất độc hoá học rải lên rừng còn gây thiệt hại nhiều cho các loại tài nguyên khác ngoài gỗ chưa được tính đến như dầu nhựa, cây thuốc, song mây và các loài động vật rừng. Và hậu quả của cuộc chiến tranh hoá học của Mỹ rải xuống còn dẫn đến nhiều thiệt hại khác về môi trường và tính đa dạng sinh học làm cho quá trình trút lá ồ ạt đã dẫn đến hiện tượng ứ đọng dinh dưỡng và có 10-15 triệu hố bom chiếm khoảng 1% diện tích rừng Nam Việt Nam làm cho lớp đất mặt bị đảo lộn và thúc đẩy quá trình rửa trôi đất. hậu quả trên cản trở trực tiếp đến diễn thế phục hồi rừng và tác động xấu đến rừng phòng hộ đầu nguồn. Tuy những năm gần đây, cây rừng cũng đã được chăm sóc, được đầu tư phát triển thêm nhưng chất lượng và số lượng vẫn không được cao. Qua phân tích trên chúng ta thấy rằng hậu quả mà cuộc chiến tranh hoá học để lại là giảm diện tích rừng, làm cho tài nguyên rừng Việt Nam bị tổn thương rất nặng nề. Mặc dù, đã trải qua trên 30 năm nhưng vết thương đó vẫn chưa lành, diện tích rừng thì có nhiều biến đổi theo xu hướng suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chiến tranh hoá học của Mỹ đã để lại một hậu quả tàn khốc lên tài nguyên rừng Việt Nam.
2.7 Tập quán du canh du cư.
Du canh du cư là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu đời của nhiều dân tộc ít người ở Việt Nam mà thường xuất hiện tại các vùng đồi núi và cao nguyên. nơi nhằm ổn định sản xuất và đời sống trong một phạm vi lãnh thổ cố định. Vào mùa khô và thường là cuối mùa đông, người dân thường vào sâu trong rừng tìm một khoảnh đất rừng phù hợp, đốt cháy mảnh diện tích đủ rộng theo ý muốn, thường là không thể điều khiển theo mục đích người đốt vì lửa rừng bị tác động của gió và độ ẩm, nhiệt độ tại khoảnh rừng. Và đến đầu mùa mưa, người ta đi tra hạt, hoặc ươm sắn, lợi dụng lượng nước ẩm do mưa, hạt giống sẽ nảy mầm, cây sinh trưởng rất tốt do đất dưới tán rừng có hàm lượng dinh dưỡng rất cao và cũng nhờ than tro của việc đốt rừng tiến hành. Người dân canh tác ít tác động tới cây trồng mà chủ yếu là thoái mặc chúng tự nhiên và tới mùa thì thu hoạch. Thông thường chỉ sau 3-4 mùa rẫy, do nước mưa rửa trôi và xói mòn, lại không được bổ sung các chất dinh dưỡng nên đất rẫy sẽ nghèo dinh dưỡng, cây trồng phát triển kém. Lúc này, người dân sẽ bỏ rẫy cũ, tìm đến một khoảnh rừng mới và lại đốt rừng thành rẫy. Cuộc sống của họ thường gắn bó với rẫy nên cả gia đình, bản làng cùng di cư theo rẫy. Và đây chính là tập quán du canh du cư, là một tập tục cũ, lạc hậu, năng suất cây trồng thấp, cuộc sống người dân bấp bênh gây thoái hoá đất, mất rừng. Vì tập tục này thường xuất hiện ở các vùng miền núi nên cũng có thể hiểu rằng, họ không có đất để sản xuất và trình độ hiểu biết của người dân miền núi vẫn đang còn hạn chế, chỉ vì mưu sinh cuộc sống qua ngày nên họ chỉ tập trung sản xuất trong một thời gian rất ngắn đáp ứng nhu cầu hiện tại của họ, chưa có hiểu biết kỹ thuật canh tác để có năng suất cao hơn và chưa nắm rõ hậu quả của việc đốt nương làm rẫy của họ có thể tàn phá cả một diện tích rừng rông lớn.
Mặt khác, cùng với việc gia tăng dân số mà tập quán du canh du cư trở thành một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng, thoái hoá đất và kết quả là đã tạo nên cả một vùng đất trống đồi núi trọc như hiện nay. Tăng dân số đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất để sản xuất thêm lương thực phẩm đáp ứng với cuộc sống của con người. Và những người dân sinh sống ở miền núi họ không thể mở rông diện tích đất canh tác xuống vùng đồng bằng được vì theo thói quen sinh sống của họ, thói quen trong sản xuất, hơn nữa diện tích đồng bằng chỉ chiếm một phần rất nhỏ không đủ để họ tiến hành canh tác. Cho nên người dân phải lấn sâu vào rừng để mở rộng đất sản xuất và họ tiếp tục đốt nương rừng tạo rẫy canh tác. Diện tích rừng cứ thế được đốt cháy nhưng lại không có sựđầu tư cũng không có sự tái tạo thì chắc chắn diện tích rừng sẽ dần bị co hẹp lại theo thời gian. Ngày nay, thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết Định về chính sách hỗ trợ định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007-2010 trên phạm vi cả nước để có thể dần khôi phục diện tích rừng và với 70% số điểm định canh, định cư tập trung có đủ các công trình cơ sở hạn tầng thiết yếu, phù hợp với quy hoạch chung, bao gồm: đường giao thông, điện thuỷ lợi nhỏ, lớp học, nhà mẫu giáo, nhà sinh hoạt cộng đồng và một số công trình thiết yếu khác; 100% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh du cư được tổ chức định canh định cư theo quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt…để dần không còn hộ đói, mỗi năm giảm 2-3% số hộ nghèo. Tuy đã có chính sách hỗ trợ nhưng theo thói quen trong sản xuất, trong sinh hoạt, bước đầu họ khó thích nghi với cuộc sống mới nên tình trạng khai thác rừng vẫn diễn ra. Cùng với sự gia tăng dân số, cùng với sự hiểu biết ít của mình thì tập quán du canh du cư của những người dân sinh sống tại miền núi cũng đang là nguyên nhân trực tiếp gây nên hiện tượng suy thoái rừng, làm giảm sự đa dạng của rừng.
2.8-Các nguyên nhân khác.
Ngoài các nguyên nhân nêu trên còn có một số nguyên nhân khác như:
- Nhận thức của người dân chưa cao.
- Chăn thả gia súc và sự xâm lấn của các loài ngoại lai.
- Chính sách của nhà nước chưa có hiệu quả, công tác quản lý còn kém.
- Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường.
3.Hậu quả của suy thoái rừng
Đa dạng sinh học ở việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới,do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà đa dang sinh học ở VN đang suy giảm nghiêm trọng mà tiêu biểu là suy thoai rừng với những hậu quả nghiêm trọng do nó mang lại.
Mất rừng ngập mặn là mất nơi sống, nơi sinh sản, vườn ươm của nhiều loài động vật dưới nước và trên cạn. Nghiên cứu đầm tôm bỏ hoang ở cửa Nam Triệu (Hải Phòng) cho thấy sinh khối động vật đáy giảm tới 9 lần so với vùng lân cận còn rừng ngập mặn. Nhiều loài động vật ở cạn như bò sát, khỉ, đặc biệt là chim tụ tập rất đông ở trong vùng rừng ngập mặn, nhờ có nguồn thức ăn phong phú là tôm, cua, cá, sò trên bãi triều. Khi không còn rừng thì các động vật trên cũng bỏ đi nơi khác. Việc phá rừng ngập mặn làm đầm tôm không chỉ làm suy giảm tài nguyên đa dạng sinh học tại chỗ, mà còn làm mất nguồn thức ăn phong phú của nhiều sinh vật vùng triều, hậu quả là sản lượng cá, tôm, cua đánh bắt ở ngoài biển cũng giảm. Ở một số địa phương, những người nuôi tôm đã thải nước bẩn có hoá chất độc từ các đầm tôm ra rừng ngập mặn, làm cho cây chết.
Do suy thoái tài nguyên rừng nghiêm trọng, kèm theo đó là dân số tăng nhanh làm lượng khí thải ra ngoài môi trường ngày càng nhiều gây ra hiệu ứng nhà kính dẫn đến biến đổi khí hậu toàn cầu. VN thuộc các nước bị ảnh hưởng nặng nhất do biến đổi khí hậu hoàn cầu. Thách thức lớn nhất của VN là chưa có chiến lược, chính sách phù hợp
VN được xem là một trong những nước sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất do biến đổi khí hậu (BÐKH) toàn cầu. Theo dự báo, BÐKH sẽ làm cho các trận bão ở VN có mức độ tàn phá nghiêm trọng hơn. Ðường đi của bão dịch chuyển về phía nam và mùa bão dịch chuyển vào các tháng cuối năm. Lượng mưa giảm trong mùa khô (tháng 7 và 8), và tăng trong mùa mưa (tháng 4 và 11); mưa lớn thường xuyên hơn gây lũ lớn và nhiều hơn ở miền Trung và miền Nam.
Sự suy thoái tài nguyên rừng dẫn đến biến đổi khí hậu.Hạn hán xảy ra ở phần lớn các khu vực của cả nước. Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1 đến 0,30 độ C/ thập kỷ. Nhiệt độ tăng và lượng mưa thay đổi sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp và nguồn nước. Băng tan,mực nước biển có khả năng dâng cao 1m vào cuối thế kỷ, lúc đó VN sẽ mất hơn 12% diện tích đất đai, nơi cư trú của 23% số dân. Hậu quả do BÐKH toàn cầu gây ra ngày một rõ ràng, trong đó có tác động đến ÐDSH, nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. Dựa vào một số nghiên cứu đã thực hiện trên thế giới và điều kiện tự nhiên của VN, dự báo hậu quả của BÐKH sẽ tác động mạnh lên hai vùng đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng, các vùng dọc bờ biển và các hệ sinh thái rừng trong cả nước. Nước biển dâng sẽ ảnh hưởng vùng đất ngập nước của bờ biển VN, nghiêm trọng nhất là khu vực rừng ngập mặn của Cà Mau, TP. Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nam Ðịnh.Hai vùng đồng bằng và ven biển nước ta, trong đó có rừng ngập mặn và hệ thống đất ngập nước rất giàu có về các loài sinh vật, là những hệ sinh thái rất dễ bị tổn thương. Mực nước biển dâng lên cùng với cường độ của bão sẽ làm thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn và mức độ ô nhiễm của nước, làm suy thoái và đe dọa sự sống còn của rừng ngập mặn và các loài sinh vật trong đó. Khi mực nước biển dâng cao, khoảng một nửa trong số 68 khu đất ngập nước sẽ bị ảnh hưởng nặng; nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào đất liền, giết chết nhiều loài động, thực vật nước ngọt, ảnh hưởng nguồn nước ngọt cung cấp cho sinh hoạt và trồng trọt của nhiều vùng. 36 khu bảo tồn, trong đó có tám vườn quốc gia, 11 khu dự trữ thiên nhiên sẽ bị ngập.
Nam bộ là một trong những nơi ở VN bị ảnh hưởng nhiều do biến đổi khí hậu
Các thay đổi diễn ra sẽ đe dọa sự phát triển, đe dọa cuộc sống của tất cả các loài, các hệ sinh thái. BÐKH với các hệ quả của nó như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, xói mòn và sụt lở đất sẽ thúc đẩy sự suy thoái ÐDSH nhanh hơn, trầm trọng hơn, nhất là những hệ sinh thái rừng nhiệt đới không còn nguyên vẹn, tăng nguy cơ diệt chủng của động, thực vật, làm biến mất các nguồn gien quý, hiếm, bệnh dịch mới có thể phát sinh (Thông báo quốc gia lần thứ nhất). BÐKH tăng một số nguy cơ đối với người bệnh, thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trái đất nóng lên có thể sẽ làm hơn 150 nghìn người chết và năm triệu người bị mắc các chứng bệnh khác nhau. Con số trên có thể tăng gấp hai lần vào năm 2030.
Nhiệt độ trung bình ngày càng tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần thể sinh vật của nhiều hệ sinh thái. Nhiệt độ tăng còn làm gia tăng khả năng cháy rừng, nhất là các khu rừng trên đất than bùn vừa gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa gia tăng lượng phát thải khí nhà kính làm gia tăng biến đổi khí hậu.
Tác động của BÐKH trong những năm qua không loại trừ quốc gia nào, dù cho nước đó không góp nhiều vào nguyên nhân gây nên BÐKH. Riêng ở nước ta, trong những năm gần đây, hạn hán, mưa lũ, sụt lở đất, lũ quét xảy ra dồn dập, nhất là năm 2007, đã gây thiệt hại rất nặng nề về người và của. Chúng ta đã và đang cố gắng làm mọi cách nhằm giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai, cả bằng khoa học kỹ thuật và các biện pháp xã hội. Thách thức lớn nhất của VN hiện nay là chưa có chiến lược, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp sự biến đổi hết sức nhanh chóng của khí hậu toàn cầu.
Hạn hán và lũ lụt thường xuyên xẩy ra
Bão số 9 mạnh cấp 13 đổ bộ vào các tỉnh miền Trung. Nhiều địa phương đã bị cô lập, con số thiệt hại ngày càng gia tăng.
Gia đình ông Huỳnh Thành ở sát cửa biển Sa Cần, xã Bình Thạnh, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) vớt vát những gì còn sót lại sau bão lũ
Những đợt cháy rừng như tại miền Tây Canada mùa hè năm ngoái, có thể gây ô nhiễm ôzôn đến mức độ gây tác hại cho sức khỏe. (Ảnh: Cameron S. McNaughton)
Ôzôn ở tầng bình lưu đem lại lợi ích cho sự sống trên Trái Đất bằng cách chặn tia cực tím từ Mặt Trời. Ngược lại, ôzôn ở vùng khí quyển thấp hơn có thể đem lại một số vấn đề về sức khỏe, từ ho và đau họng đến những vấn đề nghiêm trọng hơn như hen suyễn, viêm phế quản và khí thũng. Ô nhiễm ôzôn mặt đất cũng làm tổn hại đến cây trồng và các thực vật khác.
Một trong những nguyên nhân khiến người ta phá rừng là để có đủ đất làm rẫy, làm ruộng. Việc đốt rừng làm rẫy khiến đất bị phô ra trần trụi dưới sức nóng của mặt trời nhiệt đới và dưới những cơn mưa lũ liên tu bất tận. Việc này làm cho đất bị chai hơn, độ màu mỡ và phì nhiêu của đất bị giảm đi, trong khi lượng độc chất aliminium lại gia tăng; tất cả những yếu tố này làm đất trở nên khô cằn hơn và khó trồng trọt hơn. Trong những vùng rừng khô, hiện tượng đất đai bị suy thoái đang ngày càng trở thành một vấn đề nghiêm trọng, tạo ra hiện tượng sa mạc hóạ. Hiện tượng sa mạc hóa ảnh hưởng tới khoảng từ 3.000 tới 3.500 triệu mẫu đất, tức khoảng1/41/4 1/4 số đất đai của thế giới; đồng thời đe dọa đời sống của 900 triệu người tại 100 quốc gia trong thế giới đang phát triển. Tại Việt Nam, người ta cũng thấy hiện tượng này tại một số vùng ở miền Trung, nơi được mệnh danh vùng đất cày lên sỏi đá, khi cát phủ dần dần một số đất đai trồng trọt và nhà cửa. Hiện tượng sa mạc hóa là hậu quả của sự thay đổi khí hậu và việc sử dụng đất đai .
Nước là tài nguyên bị tác động nhiều nhất từ khai thác tài nguyên rừng. Rừng góp phần giữ ổn định nguồn cấp nước, giảm thiểu nguy cơ hạn hán cũng như lũ lụt. Rừng còn giúp cân bằng dòng chảy cố định cho các hệ sinh thái và các trung tâm đô thị. Nước là tài nguyên bị tác động nhiều nhất từ khai thác tài nguyên rừngkhai thác gỗ làm suy giảm khả năng cung cấp nước do mất rừng – yếu tố đảm bảo cân bằng nước cho toàn lưu vực. Đây là mối quan tâm đặc biệt bởi nước đang ngày càng trở thành một món hàng khan hiếm trên thế giới, do sức ép từ dân số, các công trình thủy lợi, hay tính bất thường của khí hậu do ảnh hưởng của hiện tượng nóng lên toàn cầu. Hiện đang diễn ra tình trạng thiếu nước trong mùa khô và lũ lụt trong suốt mùa mưa ở ngay trong chính các vùng rừng. Những hiện tượng này một phần do suy thoái rừng và tác động của biến đổi khí hậu.
4.Các biện pháp khắc phục
Chúng ta đang đứng trước nguy cơ suy thoái tài nguyên rừng và đất rừng. Do vậy phục hồi rừng và những vùng đất bị suy thoái đang là mối quan tâm của nhiều người, nhiều tổ chức và cá nhân.
Nâng cao nhận thức. Nâng cao nhận thức cho lãnh đạo từ cấp tỉnh đến các cấp chính quyền địa phương thông qua hội thảo bảo tồn và phát triển. Đối với người dân tổ chức các hội thảo chuyên đề về tầm quan trọng của đa dạng sinh học và bảo tồn có sự tham gia của người dân cho từng nhóm đối tượng, để sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, phổ biến pháp luật, giáo dục môi trường... Tổ chức các nhóm tuyên truyền do lực lượng thanh niên làm nòng cốt có sự tham gia của cộng đồng. Để làm được điều này cần thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như sách báo, áp phích, pa nô, phim ảnh... Xây dựng các điểm văn hóa, các tủ sách phổ biến kiến thức tại trung tâm cộng đồng thôn, bản, đặc biệt là ở nhà của trưởng bản, nhà văn hóa cộng đồng. Khuyến khích người dân xây dựng tủ sách kiến thức gia đình, mua sắm các phương tiện thông tin như đài, báo, ti vi.
Nâng cao đời sống cộng đồng. Quy hoạch vùng dân cư có sự tham gia của cộng đồng sẽ đảm bảo đất ở, đất sản xuất cho cộng đồng theo chính sách giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào thiểu số tại chỗ Tây Nguyên với diện tích đất ở 400m2, rẫy là 1.000m2, ruộng một vụ là 500m2 ruộng 2 vụ 300m2. Thực tế từ ngàn đời nay cộng đồng phải sống dựa vào rừng. Do vậy không thể cấm triệt để người dân vào rừng thu hái lâm sản phụ theo phong tục tập quán. Ngoài việc quy hoạch đất đai cần cho phép họ sử dụng nguồn tài nguyên theo một số nguyên tắc nhất định do Vườn quốc gia Yok Đôn và cộng đồng thỏa thuận trên cơ sở quy định của pháp luật. Hạn chế việc khai thác quá mức làm suy giảm nguồn tài nguyên, tạo các sản phẩm thay thế tương ứng. Thu hút cộng đồng đặc biệt lớp trẻ có trình độ tham gia công tác bảo vệ rừng. Chuyển giao khoa học kỹ thuật, giống, vật nuôi, cây trồng có năng suất cao cho cộng đồng trong sản xuất, chăn nuôi. Xây dựng mô hình trang trại rừng, thúc đẩy phát triển kinh tế cho các hộ gia đình trong buôn, thôn cộng đồng dân cư vùng đệm 7 xã, 3 huyện, 2 tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông thông qua việc thành lập các nhóm hộ gia đình thực hiện các chương trình khuyến nông, khuyến lâm trên địa bàn.
Tăng cường phổ biến thể chế pháp luật cho cộng đồng. Cùng với các cấp, các ngành chức năng đề xuất thay đổi một số chính sách phù hợp với lòng dân. Có những chính sách hỗ trợ đối với người dân thông qua kế hoạch hoạt động trên nguyên tắc có sự quản lý, giám sát thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (hệ thống mở). Đề xuất xây dựng, hoàn thiện khung thể chế, tăng cường năng lực quản lý, bảo tồn cho các đơn vị, ngành liên quan. Đặc biệt chú trọng xây dựng quy chế phối kết hợp trong công tác bảo vệ rừng với buôn, làng, chính quyền địa phương (ban lâm nghiệp xã) và các đơn vị trên địa bàn tham gia công tác bảo tồn. Tiến hành xây dựng hương ước quản lý bảo vệ rừng cho cộng đồng nhằm chia sẻ quyền lợi, trách nhiệm trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Thi hành luật pháp một cách nghiêm túc triệt để trong công tác bảo tồn.
Kiểm soát nhu cầu thị trường. Tăng cường lực lượng kiểm lâm cả số lượng và chất lượng cũng như trang thiết bị, phương tiện cho công tác tuần tra, kiểm soát bảo vệ rừng một cách hiệu quả các vùng, mùa trọng điểm tác động. Xây dựng các tổ, đội tuần rừng theo buôn, xã theo các chương trình trồng rừng. Xây dựng đội cơ động với nhiều thành phần cùng tham gia của các ban, ngành chức năng trong công tác bảo vệ rừng. Căn cứ vào hiện trạng nguồn tài nguyên hiện có của địa phương, hạn chế khai thác đối với các nguồn đang trong giai đoạn phục hồi, nghiêm cấm khai thác các nguồn đã bị cạn kiệt, song song với việc khai thác, tiến hành thuần hóa và áp dụng khoa học, công nghệ để nhân giống, phát triển nguồn tài nguyên ở bên ngoài rừng (bằng các mô hình kinh tế vườn rừng, trang trại, bảo tồn chuyển vị...), đó là biện pháp hữu ích của sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên. Dựa vào nhu cầu thị trường để tiến hành sản xuất, xây dựng một số mô hình sản phẩm thay thế nhằm hạn chế sử dụng tài nguyên từ rừng tự nhiên (gỗ, lâm sản ngoài gỗ, chất đốt...).
C. KẾT LUẬN
Diện tích rừng nhiệt đới không chỉ ở trên thế giới mà ở Việt Nam vẫn đang tiếp tục biến mất với tốc độ đáng sợ. Trên thực tế, mặc dù thế giới đã tiến hành không ít cuộc hội thảo, những nỗ lực quốc tế nhằm ngăn chặn tình trạng này những tốc độ chặt phá rừng vẫn cao, ảnh hưởng nghiêm trọng môi trường toàn cầu.Và ở VN, chính phủ cũng đã đưa ra rất nhiều những gjải pháp nhằm ngăn chặn nạn phá rừng và khắc phục những hậu quả do các nguyên nhân này gây ra.Và mỗi chúng ta. Những thế hệ tương lai của đất nước, chúng ta cần phải nâng cao ý thức của mình trong việc bảo vệ rừng, hạn chế việc khai thác rừng một cách bừa bãi, không có kế hoạch, ngay bây giờ, khi chúng ta đang ngồi trên ghế giảng đường, phải cố gắng học tập cho thật tốt, tham gia đầy đủ vào các buổi ngoai khoá, đội tình nguyện giúp người dân có trình độ nhận thức kém hiểu và biết về tâm quan trọng của rừng và lợi ích của việc trồng rừng. tất cả chúng ta hãy cùng chung tay bảo vệ và tái tạo tài nguyên rừng, như vậy là bảo vệ môi trường sống cho chính bản thân chúng ta, giảm thiểu được tối đa hậu quả nghiêm trọng do vấn đề này mang lại, bảo vệ lợi ích quốc gia và ngân khố của nhà nước.
CHÚNG TA HÃY BẢO VỆ RỪNG-LÁ PHỔI XANH CỦA NHÂN LOẠI
Bài viết dài dòng
Không chịu tìm tòi số liệu mới mà copy ở phần của cô Thùy quá nhiều
6
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tai_nguyen_rung_7691.doc