Nguyên nhân và kết quả điều trị lồng ruột tái phát ở trẻ em

Quan điểm về chỉ định phẫu thuật điều trị lồng ruột nói chung và LRTP nói riêng khi tháo lồng bằng các phương pháp không phẫu thuật thất bại hoặc khi phát hiện có NNTT được tất cả các tác giá đồng thuận(3,8). Tuy nhiên vẫn còn chưa có ý kiến thống nhất về chỉ định phẫu thuật điều trị LRTP nhiều lần mà không thấy NNTT. Trong nghiên cứu này, có 18 BN được chỉ định phẫu thuật do LRTP nhiều lần trong đó có 14 BN là do tái phát từ 3- 8 lần, 4 BN là do tái phát sớm lại 2-3 đợt sau TLBH trong vòng 24 giờ. Một số tác giả khác(7) chỉ định phẫu thuật cho BN bị LRTP là trẻ lớn và/hoặc tái phát lần thứ 5. Phẫu thuật nội soi đã được thực hiện trên 80% BN bị LRTP của chúng tôi với tỷ lệ tháo lồng thành công 93,8% đã cho thấy tính khả thi của phương pháp này cho trẻ bị LRTP, tương tự như ý kiến của một số tác giả khác(2). Tuy nhiên, phẫu thuật nội soi mặc dù tháo được khối lồng nhưng có hạn chế là có thể bỏ sót tổn thương trong mổ, đặc biệt là polyp trong lòng ruột, như trường hợp 1 BN của chúng tôi đã nhắc tới ở trên. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy ngay cả sau khi được điều trị phẫu thuật, tỷ lệ BN bị LRTP mà không có NNTT tái phát lại cũng là rất cao – tới 20%, cao hơn hẳn so tỷ lệ tái phát 0-4% của LR1 sau điều trị phẫu thuật đã được công bố trong y văn. Để hạn chế LRTP vô căn tái phát lại, kỹ thuật cố định hồi tràng vào manh tràng đã được nhiều tác giả ứng dụng(2,5). Tuy nhiên cũng có nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ LRTP giữa nhóm BN được ứng dụng kỹ thuật này và nhóm BN chỉ mổ tháo lồng đơn thuần (5). Các BN bị LRTP vô căn của chúng tôi được phẫu thuật tháo lồng và cố định manh tràng vào thành bụng phải. Có thể phải cần thêm những nghiên cứu so sánh mới để tìm ra kỹ thuật thực sự hiệu quả hạn chế tái phát sau mổ LRTP vô căn. Các BN bị LRTP lại sau phẫu thuật cũng vẫn có thể được TLBH thành công như đã thấy trong loạt BN của chúng tôi và theo báo cáo của các tác giả khác(7). Tóm lại, nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy đại đa số LRTP ở trẻ em là vô căn (không có NNTT) và có thể được TLBH thành công. Tuy nhiên tỷ lệ tái phát lại sau điều trị (cả TLBH hoặc phẫu thuật) của LRTP vô căn là cao hơn nhiều so với LR1. Do đó cần có thêm những nghiên cứu để tìm ra các phương pháp mới hạn chế tái phát lại sau điều trị lồng ruột nói chung và LRTP nói riêng.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 120 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên nhân và kết quả điều trị lồng ruột tái phát ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 104 NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LỒNG RUỘT TÁI PHÁT Ở TRẺ EM Trần Ngọc Sơn*, Trần Văn Quyết** TÓM TẮT Mục tiêu: Tìm hiểu nguyên nhân và đánh giá kết quả điều trị lồng ruột tái phát (LRTP) ở trẻ em Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu lại các bệnh nhân được điều trị LRTP (từ lần đầu tiên) tại bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 9/2009 đến tháng 9/2011. Kết quả: Có 66 bệnh nhân (BN) thuộc diện nghiên cứu (60,6% là trẻ nam) với tuổi trung bình 30,8 ± 2,4 tháng (dao động 4 tháng đến 8 tuổi). 64 BN bị LRTP sau tháo lồng bằng hơi (TLBH) và 2 BN – sau phẫu thuật tháo lồng cho lồng ruột tiên phát (LR1). 89,7% LRTP xảy ra trong vòng 12 tháng sau LR1 và 46,1% - trong vòng 6 tháng. Triệu chứng phố biến nhất của LRTP đau bụng 95,5%, nôn 57,6%, ỉa phân máu 23,3%. Siêu âm chẩn đoán xác định LRTP ở 100% các trường hợp. Ở 62 BN (94%) không tìm thấy nguyên nhân thực thể (NNTT). 2 BN được chỉ định phẫu thuật do có NNTT phát hiện trên siêu âm và phải cắt đoạn ruột. Tất cả 64 BN còn lại được TLBH thành công. Với thời gian theo dõi trung vị 21 tháng sau điều trị, LRTP lại tái phát ở 40,8% BN. Ở 22,7% BN, LRTP tái phát thêm 3 lần hoặc hơn và 2 BN trong nhóm này nội soi tiêu hóa phát hiện thấy và cắt polyp đại tràng. Đại đa số LRTP lại được TLBH (với tỷ lệ tháo thành công 100%), tuy nhiên ở 8% LRTP lại tái phát hơn 2 lần trong vòng 24 giờ. Các BN này và một số BN có LRTP từ 3 lần trở lên được chỉ định phẫu thuật tháo lồng và cố định manh tràng. Tổng cộng có 145 ca LRTP trên 66 BN được điều trị, 125 ca đươc TLBH (86,2%) và 20 ca được phẫu thuật (16 ca phẫu thuật nội soi). Tỷ lệ tái phát chung sau TLBH và phẫu thuật tương ứng là 48% và 20%. Kết luận: Đại đa số LRTP ở trẻ em là vô căn (không có NNTT) và có thể được TLBH thành công. Tuy nhiên tỷ lệ tái phát sau điều trị (cả TLBH hoặc phẫu thuật) của LRTP vô căn là cao hơn nhiều so với LR1. Từ khóa: Lồng ruột tái phát, trẻ em, nguyên nhân, điều trị. ABSTRACT TO STUDY ETIOLOGY AND TREATMENT RESULTS OF RECURRENT INTUSSUSCEPTIONS (RIS) IN CHILDREN Tran Ngoc Son, Tran Van Quyet* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 6 - 2014: 104 - 108 Objectives: To study etiology and treatment results of recurrent intussusceptions (RIs) in children Methods: Medical records of children treated for RI (from the first episode) at National Hospital of Pediatrics, Vietnam between September, 2009 and September, 2011 were reviewed. Results: 66 patients were identified (60.6% boys) with mean age 30.8±2.4 months (range: 4 months - 8 years). 64 patients had RI after air enema reduction (AER), and 2- after surgical reduction for primary intussusceptions (PI). 89.7% RI occurred within 12 months after PI and 46.1%- within 6 months. Most common symptoms of RIs were abdominal pain 95.5%, vomiting 57.6%, bloody stool 23.3%. Ultrasound detected RI in 100% cases. In 62 patients (94%) no pathologic lead point (PLP) was found. Two patients underwent surgery for PLP (detected by ultrasound) and intestinal resection was performed. All other 64 RIs were reduced successfully by AER. For a median follow up of 21 months, re-recurrence occurred in 40.8% of patients. In 22.7% of patients, intussusception re-recurred 3 times or more, and in two patients in this group, a colonic polyp was found and removed by colonoscopy. Most RIs were treated again by AER (successful reduction in 100%), but in 8% intussusception re-recurred more than 2 times within 24 hours. Those patients and some others with RI more than 3 times were indicated for surgery, which consisted of surgical reduction and caecopexy. Totally 145 RIs of * Bệnh viện NhiTrung Ương Tác giả liên lạc: TS. BS Trần Ngọc Sơn ĐT: 0904138502 Email: drtranson@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học 105 66 patients were treated, 125 - by AER (86.2%) and 20- by surgery (16 cases- by laparoscopic surgery). The overall re-recurrent rate after AER and surgery for RI was 48% and 20%, respectively. Conclusions: Most cases of RI in children were idiopathic (without PLP) and can be treated successfully by AER. However the recurrent rate after treatment (AER or surgery) for idiopathic RI is much higher than PI. Kewords: Recurrent intussusceptions, children, etiology, treatment. ĐẶT VẤN ĐỀ Lồng ruột là một trong những cấp cứu hay gặp nhất ở trẻ nhỏ, nếu không được phát hiện điều trị kịp thời có thể dẫn đến những biến chứng nặng thậm chí tử vong (3). Hầu hết các trường hợp lồng ruột tiên phát (LR1) ở trẻ nhỏ là không có nguyên nhân thực thể (NNTT) (1,3). Phương pháp điều trị chủ yếu cho LR1 là tháo lồng bằng các phương pháp không phẫu thuật (bằng bơm khí, bơm barit hoặc bơm nước qua hậu môn). Phẫu thuật tháo lồng cho LR1 thường được chỉ định khi các phương pháp trên thất bại, khi LR1 đã có biến chứng viêm phúc mạc, hoăc các trường hợp LR1 có nguyên nhân thực thể(3,8). Với sự tiến bộ của y học ngày nay tỷ lệ tử vong chung của các bệnh nhi bị lồng ruột ở các trung tâm lớn thường không vượt quá 0,1%. Tuy vậy tỷ lệ lồng ruột tái phát (LRTP) sau điều trị là tương đối cao từ 4-15%(3,4,6,7,9) . Mặc dù ở Việt nam và trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về lồng ruột tiên phát, cho đến nay vẫn chưa có nhiều báo cáo về lồng ruột tái phát ở trẻ em. Có những vấn đề về LRTP vẫn còn chưa được nghiên cứu nhiều như tỷ lệ LRTP có NNTT, tỷ lệ lại tái phát của LRTP sau điều trị và phương pháp điều trị tối ưu cho LRTP. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tỷ lệ bệnh nhân LRTP có NNTT và đánh giá kết quả điều trị LRTP ở trẻ em, qua đó đề xuất phương pháp tiếp cận điều trị hợp lý cho bệnh nhân (BN) bị LRTP. Mục tiêu nghiên cứu Tìm hiểu nguyên nhân và đánh giá kết quả điều trị lồng ruột tái phát (LRTP) ở trẻ em. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chúng tôi hồi cứu lại các BN bị LRTP được điều trị tại bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTW) từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 9 năm 2011. Tiêu chuẩn chọn lựa BN vào nghiên cứu này bao gồm các bệnh nhi có LRTP lần 1 trong thời gian trên và các BN này đã được chẩn đoán và điều trị LR1 cũng tại BVNTW, với hồ sơ đầy đủ dữ liệu. Chẩn đoán lồng ruột dựa trên tiêu chuẩn nhìn thấy đầu lồng trên màn hình tăng sáng sau khi bơm khí qua hậu môn hoặc nhìn thấy khối lồng trong phẫu thuật. Tháo lồng bằng bơm khí qua hậu môn (hay được gọi là tháo lồng bằng hơi – TLBH) được thực hiện dưới kiểm soát của màn hình tăng sáng. Chỉ định phương pháp phẫu thuật mổ mở hay nội soi phụ thuộc vào chủ quan của phẫu thuật viên. Cách thức phẫu thuật bao gồm tháo lồng và cắt đoạn ruột khi có NNTT, hoặc tháo lồng, cắt ruột thừa và cố định manh tràng vào thành bụng bên phải khi không thấy có NNTT. Các BN bị LRTP nhiều lần được chỉ định CT ổ bụng và nội soi đại tràng để tìm NNTT. Các số liệu được tập hợp bao gồm đặc điểm BN (tuổi, giới), phương pháp điều trị LR1, diễn biến lâm sàng, chẩn đoán, điều trị LRTP và kết quả. Các BN được theo dõi sau điều trị dựa trên dữ liệu hệ thống máy tính của bệnh viện và/hoặc gọi điện thoại. KẾT QUẢ Trong thời gian từ 01/9/2009 đến 31/8/2011 tại BVNTW đã có 119 BN vào viện với chẩn đoán là LR tái phát trong số 2257 bệnh nhân LR được chẩn đoán và điều trị. Tuy nhiên chỉ có 66 BN đáp ứng tiêu chuẩn lựa chon BN nghiên cứu. Trong số này có 40 trẻ nam (60,6%) và 26 trẻ nữ (39,4%) với tỷ lệ nam: nữ là 3:2. Tuổi trung bình của các BN là 30,8±2,4 tháng (dao động từ 4 tháng đến 8 tuổi). 64 (97%) BN bị LRTP sau điều trị LR1 với TLBH, chỉ có 2 BN là sau phẫu thuật tháo lồng cho LR1. 89,7% LRTP xảy ra trong vòng 12 tháng và 46,1% - trong vòng 6 tháng sau Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 106 LR1. Đặc biệt có 13 BN (19,6%) bị LRTP trong tháng đầu tiên sau LR1, trong đó 2 BN (3%) là sau 1 ngày và 3 BN (4,5%) là sau 1-7 ngày. Triệu chứng lâm sàng của LRTP chủ yếu là đau bụng - 63 BN (95,5%), nôn – 38 BN (57,6%), ỉa máu -18 BN (23,3%). Thăm khám lâm sàng sờ thấy khối lồng ở 58 BN (87,9%) , thăm trực tràng có máu ở 17 BN (25,8%) trong đó có 3 BN (4,5%) sờ thấy đầu khối lồng khi thăm trực tràng. Tất cả BN đều được siêu âm bụng và 100% đều thấy hình ảnh bia bắn điển hình của lồng ruột. 64 trên 66 BN bị LRTP lần 1 được điều trị tháo lồng bằng hơi (97%) với tỷ lệ tháo lồng thành công là 100%. Trong số này 58 BN (90,6%) tháo lồng thành công với 1 đơt bơm hơi, chỉ có 6 BN (9,4%) là phải cần tới bơm hơi đợt thứ 2. Sau tháo lồng bằng hơi 60 BN (94,7%) ra viện không có biến chứng, chỉ có 3 BN (4,7%) bị ỉa chảy và 1 BN (1,6%) bị sốt. 2 trên 66 BN (3%) đươc chỉ định phẫu thuật ngay do siêu âm phát hiện có nguyên nhân thực thể: 1 BN có u manh tràng, 1 BN có nang ruột đôi hồi tràng. 2 BN này được phẫu thuật tháo lồng (mổ mở), cắt đoạn ruột có nguyên nhân và nối ruột tận tân với kết quả tốt sau mổ. Theo dõi BN sau ra viện với thời gian từ 2 tháng đến 24 tháng (trung bình 10± 0,3 tháng) cho thấy Có 27/66 bệnh nhân bị LR tái phát lần 2, chiếm tỷ lệ 40,9%. Tất cả những bệnh nhân này, khi bị LRTP lần 1 đều được tháo lồng bằng hơi, 2 bệnh nhân LRTP lần 1 được mổ cắt đoạn ruột có nguyên nhân đều không tái phát. LRTP lần 2 cách lần 1 trong vòng 12 tháng ở 81,5%, trong vòng 6 tháng đầu ở 40,8%. 100% bệnh nhân LR tái phát lần 2 được điều trị tháo lồng bằng hơi. Có 23/27 (85,2%), bệnh nhân được bơm hơi tháo lồng thành công không tái phát ngay, 4 bệnh nhân (14,8%) được tháo lồng bằng hơi thành công nhưng sau đó tái phát nhanh và được chỉ định điều trị phẫu thuật. Sau điều trị LRTP lần 2, có 10 BN tiếp tục bị LRTP với tổng số lần LRTP từ 3 đến 8 lần (Bảng 1) Bảng 1: Tỷ lệ tái phát sau khi được điều trj LRTP lần 1. Số lần tái phát Số lượng bệnh nhân % 0 39 59,2 1 7 10,6 2 10 15,2 3 1 1,5 4 3 4,5 5 2 3,0 6 2 3,0 7 1 1,5 8 1 1,5 Tổng 66 100 * Nhận xét: Với 41 ca LRTP từ lần 3 trở lên (1 BN có thể có nhiều hơn 1 ca), 27 ca (65,9%) được TLBH và 14 ca (34,1%) được điều trị phẫu thuật. Tổng kết chung của điều trị LRTP với TLBH được trình bày ở bảng 2. Trên 118 ca LRTP được tháo lồng bằng hơi, tỷ lệ tái phát chung là 44,9%. Có 2 BN bị LRTP nhiều lần được nội soi đại tràng phát hiện và cắt polyp đại tràng, sau đó không còn bị tái phát. Bảng 2: Tổng kết điều trị lồng ruột tái phát với tháo lồng bằng hơi Tổng số đợt LRTP* Tái phát Số đơt LRTP* % LR tái phát lần 1 64 27 42,1 LR tái phát lần 2 27 18 66,7 LR tái phát lần 3 18 5 27,8 LR tái phát lần 4 6 1 16,7 LR tái phát lần ≥5 3 2 66,7 Tổng 118 53 44,9 *: một bệnh nhân có thể có nhiều hơn 1 đợt lồng ruột tái phát * Nhận xét: Khi chỉ định phẫu thuật, phẫu thuật nội soi được ứng dụng ở 80% các trường hợp so với 20% của mổ mở (Bảng 3). Tỷ lệ thành công của phẫu thuật nội soi là 15/16 BN (93,8%). Bảng 3: Chỉ định và phương pháp điều trị phẫu thuật cho LRTP. n % Chỉ định Tái phát ≥ 3 lần 14 70 Tái phát lại ≥ 2 lần/24 giờ 4 20 Có nguyên nhân thực thể 2 10 Phương pháp Mổ nội soi Thành công 15 80 Chuyển mổ mở 1 Mổ mở 4 20 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học 107 * Nhận xét: Trong tổng số 20 ca được phẫu thuật, lồng kiểu hồi – manh – đại tràng chiếm 55%, lồng hồi- đại tràng lên chiếm tỷ lệ 25%, tỷ lệ lồng hồi – hồi – đại tràng và đại – đại – tràng ít gặp hơn, chỉ chiếm 10%. Ngoại trừ 2 BN được phát hiện có NNTT trước mổ bằng siêu âm, ở 18 BN còn lại đều không tìm thấy có NNTT trong mổ. Sau phẫu thuật điều trị LRTP, có 25% có biến chứng sau mổ (15% viêm ruột và 10% sốt cao trên 390C ). Theo dõi sau khi ra viện của các BN được phẫu thuật LRTP, tỷ lệ tái phát sau mổ là khá cao, tới 20% (các BN này lại được TLBH thành công). Ngoài ra còn có 1 BN (5%) bị tắc ruột sau mổ được điều trị nội khoa có kết quả tốt. Tổng kết lại các NNTT dẫn đến LRTP (qua chẩn đoán hình ảnh, tìm thấy trong mổ, nội soi tiêu hóa), 94% các BN bị LRTP đều không có NNTT (bảng 4). Bảng 4: Nguyên nhân thực thể của lồng ruột tái phát. Nguyên nhân n % Không rõ nguyên nhân 62 94 Polyp ruột 2 3 Ruột đôi 1 1,5 U manh tràng 1 1,5 Tổng 66 100 BÀN LUẬN Tuổi trung bình của trẻ bị LRTP trong nghiên cứu này là 30,8 tháng, cao hơn so với một số báo cáo khác về LRTP(4,7). Các trẻ nam bị LRTP nhiều hơn với tỷ lệ nam:nữ là 1,5 tương tự như ở LR1 1,3. Nghiên cứu của Ransan N(7) trên 75 BN bị LRTP cũng cho thấy tỷ lệ nam:nữ là 1,3. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời gian bị LRTP phổ biến nhất là trong vòng 12 tháng đầu tiên sau LR1 phân bố tương đối đều giữa 6 tháng đầu và 6 tháng sau, với tỷ lệ trẻ bị LRTP trong khoảng từ 6-12 tháng sau LR1 là khá cao – 43,6%. Kết quả này khác kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác. Theo nghiên cứu của Ngô Đình Mạc(6), 89,7% (35/39 bệnh nhân) bị tái phát trong khoảng thời gian 6 tháng đầu. Theo báo cáo của Rangsan N (7), tỷ lệ bệnh nhân bị LRTP trong thời gian 6-12 tháng chỉ là 19,5%. Một số nghiên cứu về LRTP đã cho thấy các triệu chứng lâm sàng của LRTP là không khác biệt có ý nghĩa so với LR1 (4,7). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong khi tỷ lệ BN bị đau bụng và nôn là tương tự, tỷ lệ phân có máu của LRTP là thấp hơn so với LR1 (1). Điều này có thể là do bố mẹ của trẻ bị LRTP đã có kinh nghiệm hơn trong phát hiện triệu chứng bệnh và cho trẻ đến viện sớm hơn. Ở loạt BN của chúng tôi 55,2 BN bị LRTP đến viện trước 12 giờ từ khi bắt đầu có triệu chứng, tương tự như một số nghiên cứu khác(4,7). Chẩn đoán xác định LRTP dựa trên siêu âm và X-quang khi bơm hơi tháo lồng. Trong nghiên cứu này, siêu âm chẩn đoán chính xác lồng ruột ở 100% các trường hợp LRTP. Tuy nhiên chẩn đoán dược NNTT dẫn đến LRTP là khá khó khăn. Chỉ có 2 trên 4 BN có NNTT được phát hiện ra nguyên nhân bệnh lý dẫn đến LRTP (u manh tràng và nang ruột đôi) bằng chẩn đoán hình ảnh trước khi điều trị. 2 BN còn lại sau khi đã điều trị mà LRTP thêm nhiều lần được nội soi tiêu hóa mới phát hiện ra có polyp đại tràng và được cắt polyp cũng qua nội soi tiêu hóa. Điều đáng chú ý ở đây là 1 trong số 2 BN này đã được phẫu thuật nội soi tháo lồng nhưng trong mổ không phát hiện được polyp đại tràng. Kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy nội soi đại tràng nên được thực hiện ở những BN bị LRTP nhiều lần sau điều trị, kể cả đã được phẫu thuật nội soi ổ bụng. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy đại đa số các trường hợp (tới 94%) LRTP ở trẻ em là không có NNTT. Một nghiên cứu gần đây trên số lượng khá lớn BN bị LRTP cũng đã cho kết quả tương tự(7). Điều này ủng hộ cho quan điểm tiếp cận điều trị LRTP ở trẻ em tương tự như LR1. Các BN trong nghiên cứu này cũng đã được điều trị chủ yếu bằng phương pháp không phẫu thuật – TLBH. Điều đáng nói là tỷ lệ TLBH thành công của các trường hợp LRTP đạt tới 100%, có khác biệt so với LR1 khi mà tỷ lệ này Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 6 * 2014 108 chỉ khoảng 90%, tương tự như một số báo cáo khác(4,7). Tuy vậy đáng chú ý là tỷ lệ tái phát sau TLBH là rất cao, tới 44,9% so với tỷ lệ tái phát 10- 15% của LR1 đã được công bố. Điều này cho đến nay chưa được nghiên cứu nào đề cập. Quan điểm về chỉ định phẫu thuật điều trị lồng ruột nói chung và LRTP nói riêng khi tháo lồng bằng các phương pháp không phẫu thuật thất bại hoặc khi phát hiện có NNTT được tất cả các tác giá đồng thuận(3,8). Tuy nhiên vẫn còn chưa có ý kiến thống nhất về chỉ định phẫu thuật điều trị LRTP nhiều lần mà không thấy NNTT. Trong nghiên cứu này, có 18 BN được chỉ định phẫu thuật do LRTP nhiều lần trong đó có 14 BN là do tái phát từ 3- 8 lần, 4 BN là do tái phát sớm lại 2-3 đợt sau TLBH trong vòng 24 giờ. Một số tác giả khác(7) chỉ định phẫu thuật cho BN bị LRTP là trẻ lớn và/hoặc tái phát lần thứ 5. Phẫu thuật nội soi đã được thực hiện trên 80% BN bị LRTP của chúng tôi với tỷ lệ tháo lồng thành công 93,8% đã cho thấy tính khả thi của phương pháp này cho trẻ bị LRTP, tương tự như ý kiến của một số tác giả khác(2). Tuy nhiên, phẫu thuật nội soi mặc dù tháo được khối lồng nhưng có hạn chế là có thể bỏ sót tổn thương trong mổ, đặc biệt là polyp trong lòng ruột, như trường hợp 1 BN của chúng tôi đã nhắc tới ở trên. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy ngay cả sau khi được điều trị phẫu thuật, tỷ lệ BN bị LRTP mà không có NNTT tái phát lại cũng là rất cao – tới 20%, cao hơn hẳn so tỷ lệ tái phát 0-4% của LR1 sau điều trị phẫu thuật đã được công bố trong y văn. Để hạn chế LRTP vô căn tái phát lại, kỹ thuật cố định hồi tràng vào manh tràng đã được nhiều tác giả ứng dụng(2,5). Tuy nhiên cũng có nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ LRTP giữa nhóm BN được ứng dụng kỹ thuật này và nhóm BN chỉ mổ tháo lồng đơn thuần (5). Các BN bị LRTP vô căn của chúng tôi được phẫu thuật tháo lồng và cố định manh tràng vào thành bụng phải. Có thể phải cần thêm những nghiên cứu so sánh mới để tìm ra kỹ thuật thực sự hiệu quả hạn chế tái phát sau mổ LRTP vô căn. Các BN bị LRTP lại sau phẫu thuật cũng vẫn có thể được TLBH thành công như đã thấy trong loạt BN của chúng tôi và theo báo cáo của các tác giả khác(7). Tóm lại, nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy đại đa số LRTP ở trẻ em là vô căn (không có NNTT) và có thể được TLBH thành công. Tuy nhiên tỷ lệ tái phát lại sau điều trị (cả TLBH hoặc phẫu thuật) của LRTP vô căn là cao hơn nhiều so với LR1. Do đó cần có thêm những nghiên cứu để tìm ra các phương pháp mới hạn chế tái phát lại sau điều trị lồng ruột nói chung và LRTP nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bines JE, Liem NT, Justice FA, Son TN, Carlin JB, Campo MD, Jamsen K, Mulholland K, Barnett P, Barnes GL (2006). Validation of clinical case definition of acute intussusception in infants in Vietnam and Australia. Bulletin of the World Health Organisation;84(7):pp 569-575. 2. Boehm R, Till H (2003). Recurrent intussusceptions in an infant that were terminated by laparoscopic ileocolonic pexie. Surg Endosc. May;17(5):pp 831-2. 3. Daniel GY (1998). Intususception. In “Pediatric Surgery”, Edited by Jay Grosfeld. Mosby Year Book, Inc. pp 1185-1195. 4. Justice FA, Nguyen LT, Tran SN, Kirkwood CD, Thi NT, Carlin JB, Bines JE (2011). Recurrent intussusception in infants. J Paediatr Child HealthNov;47(11):pp 802-5. 5. Koh CC, Sheu JC, Wang NL, Lee HC, Chang PY, Yeh ML (2006). Recurrent ileocolic intussusception after different surgical procedures in children. Pediatr Surg Int. Sep;22(9):pp 725-8. 6. Ngô Đình Mạc, Lê Tẩy (1976). Lồng ruột lại sau tháo lồng bằng bơm không khí vào đại tràng. Ngoại khoa, 4(2): tr 49 - 53. 7. Niramis R, Watanatittan S, Kruatrachue A, Anuntkosol M, Buranakitjaroen V, Rattanasuwan T, Wongtapradit L, Tongsin A (2010). Management of recurrent intussusception: nonoperative or operative reduction? J Pediatr Surg. Nov;45(11):pp 2175-80. 8. Trần Ngọc Sơn (2011). Chẩn đoán và điều trị lồng ruột cấp ở trẻ em. Trong “Hướng dẫn điều trị tập III: Cấp cứu nhi khoa”, Bộ Y tế, NXB Y học., tr.170-174. 9. Yang CM, Hsu HY, Tsao PN, Chang MH, Lin FY (2001). Recurrence of intussusception in childhood. Acta Paediatr Taiwan. May-Jun;42(3):158-61. Ngày nhận bài báo 12-09-2014. Ngày phản biện đánh giá bài báo 08-10-2014. Ngày bài báo được đăng: 14-11-2014.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnguyen_nhan_va_ket_qua_dieu_tri_long_ruot_tai_phat_o_tre_em.pdf
Tài liệu liên quan