Ngoài những nguyên tắc mới được
bổ sung nêu trên, BLTTHS năm 2015 còn
sửa đổi một số nguyên tắc cơ bản khác để
nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của
Tòa án. Cụ thể, bổ sung thêm vào nguyên tắc
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” quy định: “nghiêm cấm
cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình
thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của luật”. Sự bổ sung quy định
có tính chất mệnh lệnh, nghiêm cấm các
hành vi can thiệp vào việc xét xử cũng như
xác định chế tài bị áp dụng, thậm chí cả chế
tài hình sự là bảo đảm để hoạt động xét xử
của Tòa án thực sự độc lập, một trong các
yêu cầu quyết định đến chất lượng hoạt động
thực hiện quyền tư pháp của Tòa án.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 392 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự - Nền tảng cho việc bảo vệ công lý của tòa án khi thực hiện quyền tư pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 ghi
nhận: “Tòa án là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp” với một trong các nhiệm vụ của Tòa
án - nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu - là “bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người”.
Thực hiện quyền tư pháp, Tòa án tiến
hành hoạt động xét xử, lấy pháp luật làm cơ
sở tối thượng để hình thành phán quyết.
Trong hoạt động xét xử, Tòa án phải tuân
theo các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận
trong Hiến pháp như: xét xử sơ thẩm có Hội
thẩm tham gia; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xét xử
31
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
NGUYÏN TÙÆC CÚ BAÃN TRONG TÖË TUÅNG HÒNH SÛÅ -
NÏÌN TAÃNG CHO VIÏÅC BAÃO VÏÅ CÖNG LYÁ CUÃA TOÂA AÁN
KHI THÛÅC HIÏÅN QUYÏÌN TÛ PHAÁP
Nguyễn Hải Ninh*
* TS., Khoa Pháp luật hình sự - Đại học Luật Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: các nguyên tắc cơ
bản;bảo đảm tranh tụng trong
xét xử; xét xử kịp thời, công
bằng và công khai; suy đoán
vô tội; quyền tư pháp, Bộ
luật TTHS.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 29/03/2017
Biên tập: 06/04/2017
Duyệt bài: 11/04/2017
Article Infomation:
Keywords: basic principles,
assurance of litigation in
trial; timely, fair and public
judge; innocent speculation;
judicial power, the Criminal
Procedure Code.
Article History:
Received: 29 Mar. 2017
Edited: 06 Apr. 2017
Approved: 11 Apr. 2017
Tóm tắt:
Bài viết tập trung phân tích một số nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho việc
bảo vệ công lý của Tòa án khi thực hiện quyền tư pháp được sửa đổi, bổ sung
trong Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015. Ngoài việc phân tích, làm
rõ nội dung mới được sửa đổi hoặc bổ sung, bài viết cũng đưa ra ý kiến đánh
giá quy định của pháp luật về các nguyên tắc này.
Abstract:
This article concentrates on a couple of fundamental principles as the basis
for justice protection of the Courts’ judicial power execution according to
new provisions of the Criminal Procedure Code of 2015. Also, the article,
along with analysis and clarification of amended provisions of these
principles, brings out personal points in evaluating provisions on such
principles
công khai; xét xử tập thể và quyết định theo
đa số; bảo đảm tranh tụng trong xét xử; bảo
đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo
2. Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp,
Điều 2 BLTTHS năm 2015 xác định nhiệm
vụ của Toa án là: bảo đảm phát hiện chính
xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành
vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm. Bên cạnh đó, BLTTHS năm
2015 đã cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản
được ghi nhận trong Hiến pháp, trong đó có
những nguyên tắc làm nền tảng bảo vệ công
lý do chỉ đạo trực tiếp hoạt động thực hiện
quyền tư pháp của tòa án. Những nguyên tắc
điều chỉnh hoạt động xét xử của Tòa án lần
đầu tiên được ghi nhận trong BLTTHS năm
2015 gồm: nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử; nguyên tắc không ai bị kết án
hai lần vì một tội phạm; nguyên tắc xét xử
kịp thời, công bằng và công khai; nguyên tắc
suy đoán vô tội Việc bổ sung những
nguyên tắc này góp phần quan trọng điều
chỉnh hoạt động thực hiện quyền tư pháp
của Tòa án, bảo đảm phán quyết của Tòa án
là đúng đắn, bảo vệ được công lý, quyền con
người như đặt ra trong tiến trình cải cách tư
pháp hiện nay.
3. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử (Điều 26 BLTTHS năm 2015)
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong
xét xử được ghi nhận với các nội dung cơ
bản sau:
Thứ nhất, xác định các chủ thể có
quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu trong quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử bao
gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, người
khác co ́thẩm quyền tiến hành tô ́tuṇg, người
bị buộc tội, người bào chữa và người tham
gia tố tụng khác.
Khác với quy định trong BLTTHS
năm 2003, nội dung của nguyên tắc này có
những thay đổi cơ bản, đó là việc xác định
chủ thể có quyền bình đẳng được mở rộng
và đầy đủ hơn. Trong số chủ thể này không
chỉ có Kiểm sát viên và một số người tham
gia tố tụng mà bao gồm: Điều tra viên, kiểm
sát viên, người khác có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào
chữa và người tham gia tố tụng khác. Quyền
bình đẳng cũng không bị giới hạn trong giai
đoạn xét xử (trước Tòa án) mà được ghi
nhận bảo đảm trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử. Nội dung của quyền
bình đẳng không chỉ dừng lại ở bình đẳng
trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu như
trong BLTTHS năm 2003 mà còn bình đẳng
trong việc đánh giá chứng cứ.
Việc xác định Điều tra viên, người
khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng bình
đẳng với các chủ thể tham gia tố tụng khác
trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng
cứ, đưa ra yêu cầu trong quá trình tố tụng
tạo ra sự cân bằng giữa các chủ thể có chức
năng tố tụng khác nhau. Nội dung của quy
định này có ảnh hưởng quyết định đến quy
định về chứng cứ và chứng minh trong
TTHS. Nếu trong BLTTHS năm 2003, việc
thu thập chứng cứ quy định thuộc về cơ
quan tiến hành tố tụng, còn những người
tham gia tố tụng chỉ có thể đưa ra đồ vật tài
liệu, trình bày những vấn đề có liên quan
đến vụ án, thì theo quy định của BLTTHS
năm 2015, người tham gia tố tụng không chỉ
có quyền thu thập chứng cứ mà còn có
quyền đánh giá chứng cứ bình đẳng với
Điều tra viên, kiểm sát viên, người khác có
thẩm quyền tiến hành tố tụng.1 Đối với
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải
kiểm tra, đánh giá chứng cứ đầy đủ, khách
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
1 Xem Điều 26, 88 BLTTHS năm 2015.
quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập
được về vụ án (Khoản 2 Điều 108 BLTTHS
năm 2015).
Bình đẳng trong đánh giá chứng cứ
giữa các chủ thể đại diện cho nhà nước như
Điều tra viên, Kiểm sát viên với những
người tham gia tố tụng khác còn thể hiện rõ
trong quy định của BLTTHS năm 2015 về
thủ tục phiên tòa. Theo quy định của Điều
296 BLTTHS năm 2015, “trong quá trình
xét xử, khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét
xử có thể triệu tập Điều tra viên, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải
quyết vụ án và những người khác đến phiên
tòa”, để những người này trình bày ý kiến,
làm rõ những quyết định, hành vi tố tụng
trong gia đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Việc BLTTHS năm 2015 xác định
nguyên tắc bình đẳng trong đưa ra chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử
giữa các chủ thể đại diện cho Nhà nước bao
gồm Điều tra viên, kiểm sát viên, người
khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng với
người bị buộc tội, người bào chữa và người
tham gia tố tụng tạo cơ sở pháp lý quan
trọng, bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ
án hình sự khách quan, toàn diện và đầy đủ,
đặc biệt hạn chế việc làm oan người vô tội.
Bảo đảm được quyền bình đẳng cũng là tiền
đề để bảo đảm tranh tụng dân chủ, bình đẳng
trong xét xử.
Thứ hai, xác định rõ vai trò, trách
nhiệm của Tòa án trong quá trình xét xử để
bảo đảm tranh tụng dân chủ, bình đẳng.
BLTTHS năm 2015 xác định Tòa án
không phải là một trong các bên tham gia
tranh tụng, Tòa án điều khiển quá trình tranh
tụng. Cụ thể: Tòa án quyết định phiên tòa
xét xử có được tiến hành hay không khi có
chủ thể tham gia tranh tụng vắng mặt; nếu
phiên tòa được tiến hành Tòa án có trách
nhiệm tạo điều kiện cho các chủ thể thực
hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của họ để bảo
đảm tranh tụng được tiến hành dân chủ, bình
đẳng; phán quyết của Tòa án không chỉ căn
cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ
thể hiện trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát
chuyển đến mà phải căn cứ vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa.
Tòa án, chủ thể thực hiện quyền tư
pháp, để bảo đảm công lý được thực thi,
tránh oan, sai, khi ra bản án, quyết định, Tòa
án “phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh
giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên
tòa”. Điều 26 BLTTHS năm 2015 quy định:
“Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ
xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng
điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác
định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi
thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật
chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa
giải quyết vụ án đều phải được trình bày,
tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.”
Nguyên tắc này thể hiện đậm nét, đặc
trưng nhất trong các quy định tại phiên tòa
(sơ thẩm phúc thẩm) với nhiều nội dung cụ
thể2. Một số nội dung thể hiện nâng cao bình
đẳng trong tranh tụng tại phiên tòa: i) xác
định chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi,
quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ
tự hợp lý (khoản 1 Điều 307), Hội đồng xét
xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến
của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tranh luận tại phiên tòa để
đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của
vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến
của những người tham gia phiên tòa thì Hội
đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi
trong bản án; ii) cho phép bị cáo hỏi bị cáo
khác, người bị hại, người làm chứng khi
được chủ tọa đồng ý (Điều 309, 310, 311);
iii) Quy định trong quá trình xét xử, khi xét
thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể triệu
tập Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
2 Xem thêm Hoàng Anh Tuyên (2016), “Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự” trong “Những điểm mới
trong BLTTHS năm 2015” tlđd, tr. 318 - 322.
hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án và
những người khác đến phiên tòa để trình bày
các vấn đề liên quan đến vụ án (Điều 296)...
Việc ghi nhận nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong xét xử của BLTTHS năm
2015 đã định hướng rất rõ ràng cho Tòa án
trong hoạt động xét xử, bảo đảm bản án,
quyết định của Tòa án xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ
công lý, quyền con người, quyền công dân
4. Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời,
công bằng và công khai (Điều 25 BLTTHS)
Điểm mới trong BLTTHS năm 2015
là việc bổ sung hai yêu cầu khác của hoạt
động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của
Tòa án đó là yêu cầu phải xét xử kịp thời và
công bằng. Việc bổ sung hai yêu cầu này vào
tên gọi cũng như nội dung nguyên tắc tại
Điều 24 BLTTHS năm 2015 bảo đảm sự phù
hợp với Hiến pháp năm 2013, phù hợp với
chuẩn mực quốc tế, bảo đảm quyền con
người trong TTHS. Điều 9 Công ước về các
quyền dân sự, chính trị 1966 ghi nhận: “Bất
kỳ người nào bị bắt hoặc bị giam giữ vì một
tội hình sự phải được sớm đưa ra Tòa án
hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền
thực hiện chức năng tư pháp và phải được
xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả
tự do”; Điều 14 Công ước cũng khẳng định
“Mọi người đều có quyền xét xử công bằng
và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền,
độc lập, không thiên vị”3.
Bổ sung nguyên tắc kịp thời và công
bằng trong TTHS như một yêu cầu bắt buộc,
thể hiện rõ việc tôn trọng và bảo đảm quyền
con người trong TTHS hiện nay. Bởi lẽ, mặc
dù người bị buộc tội được coi là không có
tội cho đến khi được chứng minh theo trình
tự, thủ tục luật định và có bản án kết tội của
Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên,
không có nghĩa quyền cơ bản của họ không
bị ảnh hưởng. Trong quá trình tố tụng, các
biện pháp cưỡng chế tố tụng, biện pháp ngăn
chặn hoàn toàn có thể được áp dụng đối với
người bị buộc tội khi có căn cứ luật định,
dẫn đến một số quyền con người của họ bị
hạn chế. Do đó, quá trình giải quyết vụ án
hình sự càng kéo dài, việc xét xử không kịp
thời trong mọi trường hợp đều gây ảnh
hưởng bất lợi đến đối tượng bị buộc tội. Vì
vậy, yêu cầu Tòa án phải bảo đảm xét xử kịp
thời trong thời hạn luật định đã nguyên tắc
hướng tới bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong TTHS.
Ngoài việc bổ sung nội dung xét xử
kịp thời, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung
nội dung xét xử công bằng. Xét xử công
bằng được hiểu là xét xử “theo đúng lẽ phải,
không thiên vị”.4 Điều này có nghĩa là, trong
hoạt động xét xử, Tòa án phải bảo đảm xét
xử theo đúng quy định của pháp luật, không
phân biệt thành phần, địa vị xã hội, giới tính,
tôn giáo, dân tộc của người bị buộc tội. Trên
một phương diện nào đó, có thể coi đây là
sự cụ thể hóa nội dung của nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước pháp luật ghi
nhận tại Điều 9 BLTTHS năm 2015.
Theo mô hình tố tụng tranh tụng, quá
trình điều tra làm rõ vụ án diễn ra thông qua
phiên tòa công khai nên nguyên tắc xét xử
kịp thời, công bằng, công khai của Tòa án
sẽ bảo đảm cho toàn bộ tiến trình giải quyết
vụ án khẩn trương, nhanh chóng.
Trong mô hình tố tụng của Việt Nam,
với việc phân chia thành các giai đoạn5, việc
vụ án giải quyết chẫm trễ, kéo dài chủ yếu ở
giai đoạn khởi tố, điều tra. Vì vậy, để bảo
đảm công lý được thực thi nhanh chóng, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, tính
kịp thời trong việc xử lý không chỉ là yêu
cầu đối với hoạt động xét xử của Tòa án mà
34
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
3 Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - Quyền công dân, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), “Giới thiệu
các văn kiện quốc tế về quyền con người”, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, tr. 82, 83.
4 Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 207.
5 “Tổng quan những nội dung lớn sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật TTHS năm 2015”, trong: “Những nội dung mới trong
Bộ luật TTHS năm 2015”; tlđd, tr. 17.
là yêu cầu đối với toàn bộ quá trình tố tụng
từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử. Do
đó, BLTTHS năm 2015 bổ sung Điều 19
quy định về tuân thủ pháp luật trong hoạt
động điều tra trong đó có đề cập đến yêu cầu
phát hiện nhanh chóng, chính xác mọi hành
vi phạm tội.
5. Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần
vì một tội phạm (Điều 14 BLTTHS năm 2015)
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp
năm 2013, phù hợp với Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị 1966: “Không
ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ
hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị
kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp
với pháp luật và thủ tục TTHS của mỗi
nước” (Điểm 7 Điều 14), Điều 14 BLTTHS
năm 2015 quy định: “Không được khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà
hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực
hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà
Bộ luật hình sự quy định là tội phạm”.
Nguyên tắc “Không ai bị kết án hai lần vì
cùng một tội phạm” là kim chỉ nam cho hoạt
động của Tòa án trong bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Tuy nhiên, cũng cần
lưu ý rằng, việc xem xét lại tính có căn cứ
và hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật không phải là xét
xử lần thứ hai đối với hành vi phạm tội mà
họ đã được xét xử, không vi phạm nguyên
tắc này. Việc xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm là thủ tục có tính chất tương
đối đặc biệt để khắc phục sai lầm trong bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án và đưa ra phương án khắc phục những sai
lầm này không phải xét xử lần nữa với
người đã bị kết án.
6. Nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều
13 BLTTHS năm 2015)
Mặc dù có quan điểm cho rằng đây là
nguyên tắc hoàn toàn mới trên cơ sở quy
định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm
2013.6 Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng
nguyên tắc này là sự hoàn thiện quy định
của Điều 9 BLTTHS năm 20037. Việc hoàn
thiện quy định này với tên gọi mới “Nguyên
tắc suy đoán vô tội” là bước tiến lớn trong
tư duy lập pháp và có ảnh hưởng, tác động
đến quá trình thực thi pháp luật, đặc biệt là
hoạt động xét xử của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 9 BLTTHS
năm 2003, nguyên tắc được hiểu là “suy
đoán có tội”, vì nguyên tắc xác định khi nào
một người được coi là có tội. Quy định theo
cách này dẫn đến hệ quả là cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vận
dụng mọi phương pháp, cách thức để có kết
quả khẳng định đối tượng bị buộc tội phạm
tội, nó được coi như là mục đích cuối cùng
phải đạt được của các cơ quan tiến hành tố
tụng, mà nếu không chứng minh được đồng
nghĩa với việc “không hoàn thành nhiệm
vụ”. Nỗ lực chứng minh tội phạm của các
chủ thể tiến hành tố tụng dễ dẫn đến hệ quả
các vụ án oan.
Nguyên tắc “suy đoán vô tội” quy
định tại Điều 13 BLTTHS năm 2015 khẳng
định người bị buộc tội được coi là không có
tội cho đến khi được chứng minh theo trình
tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ
căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ
tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết
luận người bị buộc tội không có tội. Như
vậy, nội dung cơ bản, chủ yếu cần nắm được
và buộc trở thành nhận thức của người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng nói chung,
Thẩm phán, Hội thẩm nói riêng là luôn coi
người bị buộc tội là người không có tội
trong quá trình tố tụng cho đến khi có bản
án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Mục đích của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng là làm rõ sự thật khách
35
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
6 Đào Trí Úc (2016), “Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam theo Bộ luật TTHS năm 2015”, tlđd, tr. 72.
7 Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật”.
quan của vụ án hình sự và cho kết luận
người bị buộc tội có phạm tội hay không
phạm tội, không phải cố gắng chứng minh
sự có tội của người bị buộc tội.
Trong hoạt động xét xử của Tòa án,
nguyên tắc này định hướng và đưa ra yêu
cầu bắt buộc đối Thẩm phán, Hội thẩm trong
nhận thức phải xác định người bị buộc tội
vẫn là người vô tội để thực hiện hoạt động
xét xử khách quan, bình đẳng giữa các bên
tham gia tố tụng, trên cơ sở bảo đảm tranh
tụng dân chủ để đưa ra phán quyết đúng đắn
về vụ việc hình sự.
7. Ngoài những nguyên tắc mới được
bổ sung nêu trên, BLTTHS năm 2015 còn
sửa đổi một số nguyên tắc cơ bản khác để
nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của
Tòa án. Cụ thể, bổ sung thêm vào nguyên tắc
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” quy định: “nghiêm cấm
cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình
thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của luật”. Sự bổ sung quy định
có tính chất mệnh lệnh, nghiêm cấm các
hành vi can thiệp vào việc xét xử cũng như
xác định chế tài bị áp dụng, thậm chí cả chế
tài hình sự là bảo đảm để hoạt động xét xử
của Tòa án thực sự độc lập, một trong các
yêu cầu quyết định đến chất lượng hoạt động
thực hiện quyền tư pháp của Tòa án.
Việc ghi nhận một số nguyên tắc mới,
bổ sung một số nội dung vào các nguyên tắc
cơ bản trong TTHS, nhất là các nguyên tắc
trực tiếp định hướng hoạt động xét xử của
Tòa án nhằm bảo đảm về mặt pháp lý cho
Tòa án hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân
được đặt ra trong Hiến pháp n
36
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 08(336) T4/2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
Quản lý vĩ mô của Chính phủ ngày
nay không phải là sự nghiệp của một hay vài
nhóm người. Việc cập nhật, xử lý thông tin
trong nước và ngoài nước, sử dụng công
nghệ, sử dụng trí thức tìm kiếm các phương
tiện tối ưu cho cuộc sống làm cho công
việc quản lý trở nên thuận tiện hơn. Đây là
cách quản lý dân chủ, khoa học mà nhiều
quốc gia hiện nay đang áp dụng. Phương
pháp cai trị độc đoán, độc tài, chuyên chế
ngày càng bị lên án vì không có lợi cho sự
phát triển bền vững của các quốc gia9.
Một thử thách nữa của Chính phủ
kiến tạo là đối đầu với lợi ích nhóm. Chính
phủ kiến tạo rất dễ rơi vào tay một số người
có chung lợi ích cá nhân. Lợi ích nhóm luôn
tồn tại, vấn đề là không thể hy sinh lợi ích
của dân tộc hay của nhóm lớn hơn cho
nhóm bé hơn, nhóm đặc quyền, đặc lợi. Vấn
đề cũng không phải là loại bỏ lợi ích nhóm,
mà là làm sao hài hòa được lợi ích giữa các
nhóm, lợi ích giữa người dân và doanh
nghiệp, người dân và nhà nước. Tìm ra
được cách thức để họ có thể đàm phán,
thương lượng với nhau nhằm bảo đảm sự
hài hòa về lợi ích mới thực sự quan trọng.
Vì thế, Chính phủ phải công khai hóa quá
trình ban hành quyết định, mọi thông tin
đầu vào phải khách quan, trung thực. Mọi
quyết định đều phải chịu trách nhiệm giải
trình và phải giải trình được. Nếu không
giải trình được thì phải chịu trách nhiệm.
Mọi hoạt động tác động đến chính sách đều
phải được điều chỉnh và công khai hóa chứ
không thể “đi đêm”10 n
9 Hồ Sĩ Quý, Sđd, tr. 252.
10 Xem Nguyễn Sĩ Dũng, Sđd.
CHÑNH PHUÃ...
(TiÕp theo trang 6)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_tac_co_ban_trong_to_tung_hinh_su_nen_tang_cho_viec_ba.pdf