Nguyên tắc của luật phòng, chống tham những và một số kiến nghị sửa đổi

Một số kiến nghị Để góp phần hoàn thiện vấn đề nguyên tắc trong xây dựng pháp luật nói chung và Luật PCTN nói riêng, xin được kiến nghị: - Một là, trong các đạo luật nói chung, khi sửa đổi hoặc ban hành mới, chúng ta nên thật sự lưu tâm tới các khía cạnh của vấn đề nguyên tắc như đã trình bày ở trên, đặc biệt là cần chú ý liều lượng và mức độ nội dung của nguyên tắc, hình thức thể hiện của nguyên tắc cũng như chú ý cơ sở để đề ra nguyên tắc trong đạo luật. - Hai là, sửa đổi điều khoản về nguyên tắc trong Luật PCTN sau này theo hướng: Chỉ quy định những gì là nguyên tắc ở phần đầu của Luật PCTN, nên đưa nội dung có tính nguyên tắc trong Mục I về Công khai, minh bạch của Chương II lên phần đầu trong Chương I hoặc nếu giữ nguyên thì các Mục còn lại phải bổ sung các điều khoản tương tự như Điều 11 của Luật hiện hành; nội dung nguyên tắc cần được bổ sung mảng phòng ngừa tham nhũng, về cơ bản phải quán triệt quan điểm của Đảng ta về phòng ngừa tham nhũng; chú ý tư tưởng chỉ đạo về mảng phòng ngừa của nguyên tắc trong Luật sao cho các biện pháp phòng ngừa khi cụ thể hóa (trên cơ sở quán triệt nguyên tắc) phải có tính toàn diện, logic, thống nhất và liên hoàn để tạo sức mạnh tổng hợp, hiệu quả nhiều tầng, lớp khác nhau trong phòng ngừa, vì nguyên lý của phòng ngừa chủ yếu là bịt kín các sơ hở, lọt lưới này sẽ còn lưới khác - Ba là, trước mắt, khi chưa sửa đổi kịp điều khoản về nguyên tắc trong Luật PCTN thì trong thực tiễn tổ chức thi hành, áp dụng Luật PCTN, các nhà hành pháp, các quan tòa hoặc trong hoạt động tổng kết đánh giá cần lưu tâm đến các nội dung là nguyên liệu phòng ngừa (cơ sở của nguyên tắc phòng ngừa như đã trình bày ở trên) để triển khai thực hiện các hoạt động phòng ngừa hoặc đánh giá tổng kết thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật PCTN phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng. - Bốn là, cần tiếp tục nghiên cứu để bổ sung vào Luật Ban hành VBQPPL những quy định về điều khoản nguyên tắc của đạo luật khi xây dựng một đạo luật cụ thể. Hiện nay, chúng ta đã xây dựng xong Luật Ban hành VBQPPL 2015 và sẽ có hiệu lực 01/07/2016, do đó cần tiếp tục nghiên cứu để bổ sung trong tương lai. Nội dung của một đạo luật có nhiều vấn đề và hình thức thể hiện cũng đa dạng, khác nhau, song điều khoản về nguyên tắc của một đạo luật như là ‘bộ não’ chỉ huy toàn “cơ thể” của đạo luật, do đó cần khẳng định trong Luật Ban hành VBQPPL như là một ràng buộc chắc chắn cho các đạo luật khác khi xây dựng và ban hành

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 138 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc của luật phòng, chống tham những và một số kiến nghị sửa đổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyïn tùæc cuãa Luêåt Phoâng, chöëng tham nhuäng vaâ möåt söë kiïën nghõ sûãa àöíi NGUYỄN NGỌC TOÁN* Điều khoản về nguyên tắc trong văn bản luật có ý nghĩa quan trọng về định hướng cho toàn bộ nội dung và thực tiễn thi hành đạo luật, trong đó có Luật Phòng, chống tham nhũng (PCTN). Bài viết đề cập các vấn đề cần lưu ý khi xây dựng điều khoản nguyên tắc trong văn bản luật gắn với bình luận vấn đề này trong Luật PCTN ở nước ta, từ đó nêu kiến nghị góp phần hoàn thiện việc xây dựng điều khoản nguyên tắc trong một đạo luật nói chung và Luật PCTN nói riêng. * ThS. Học viện Hành chính Quốc gia. 1 Đạo luật được hiểu là một loại văn bản pháp luật do Quốc hội nước ta ban hành, được quy định tại khoản 1 Điều 2 và khoản 2 Điều 11 Luật Ban hành VBQPPL 2008. 2 Như Nghị định 24/2009/NĐ-CP ngày 05/03/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Ban hành VBQPPL; hoặc trong Bộ tiêu chí thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL; Danh mục câu hỏi tham khảo khi xây dựng báo cáo thẩm định VBQPPL của Bộ Tư pháp hiện hành (Bộ 122 thủ tục nghiệp vụ về Soạn thảo, thẩm định, kiểm tra, rà soát hệ thống hoá và hợp nhất VBQPPL, nghiepvu.aspx? ItemId=47, truy cập 19/04/2015) dù rất chi tiết nhưng chưa thấy có nội dung hướng dẫn cụ thể cho điều khoản về nguyên tắc. 3 Giáo trình các môn Luật chuyên ngành (Dân sự, Hình sự, Tố tụng dân sự, Tố tụng hình sự) của các cơ sở đào tạo đại học ngành luật nước ta đều có nội dung những nguyên tắc/nguyên tắc cơ bản 1. Vấn đề nguyên tắc trong đạo luật Nội dung nguyên tắc trong một đạo luật1 thường được thể hiện ở những điều khoản đầu tiên, thường là trong phần Những quy định chung, có tính chất định hướng, làm cơ sở định hướng cho các quy định cụ thể sau đó. Do đó, điều khoản về nguyên tắc của văn bản luật thường được coi trọng và chú ý thiết kế công phu cả về nội dung và hình thức thể hiện trong một đạo luật. Trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2008 và các hướng dẫn thi hành2, thậm chí cả trong Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 (sẽ có hiệu lực từ 01/07/2016) chưa thấy có quy định cụ thể những yêu cầu, tiêu chí về nội dung và hình thức thể hiện điều khoản về nguyên tắc trong đạo luật. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng và thi hành pháp luật ở nước ta cũng như trong công tác giảng dạy3 về pháp luật đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nguyên tắc trong một đạo luật cũng như những khía cạnh về nội dung và cách thức thể hiện nguyên tắc trong một đạo luật cụ thể. Trong số đó, nhiều nguyên tắc trong một văn bản luật cụ thể đã trở thành những tư tưởng chủ đạo của cả ngành/lĩnh vực pháp luật như Dân sự, Hình sự, Tố tụng hình sự, Bảo vệ môi trường ở nước ta. 50 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(305) T1/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT Về nội dung của nguyên tắc trong đạo luật, vì có tính chất định hướng, chỉ đạo nên nội dung của nguyên tắc thường rất khái quát, cô đọng, ngắn gọn nhưng phải đảm bảo thể hiện được sự bao quát, toàn diện các vấn đề trung tâm của đạo luật để làm cơ sở cho các điều khoản cụ thể tiếp theo của đạo luật quán triệt và chi tiết hóa những ý tưởng trong điều khoản nguyên tắc, đồng thời được quán triệt trong thực tiễn tổ chức thi hành pháp luật. Về hình thức thể hiện của nguyên tắc4 trong đạo luật, để ‘tải’ được nội dung của nguyên tắc, tùy theo quy mô của đạo luật, nguyên tắc có thể được thiết kế trong nhiều điều luật5, một điều luật6, nhiều khoản trong một đạo luật. Về ngôn ngữ, nguyên tắc của đạo luật thường được chứa đựng trong những từ ngữ ngắn gọn, có tính chất định tính hoặc định lượng như ‘công khai’, ‘minh bạch’, ‘đảm bảo dân chủ’, ‘khách quan’, ‘công bằng’, ‘kịp thời’ Và vị trí của điều khoản nguyên tắc thường được tập hợp tại phần Những quy định chung hoặc những điều khoản đầu tiên của đạo luật. Vai trò của nguyên tắc trong đạo luật được chủ yếu thể hiện trên hai phương diện cơ bản là: (i) đóng vai trò định hướng cho toàn bộ các điều khoản chi tiết sau đó của đạo luật và (ii) tư tưởng chỉ đạo trong thực tiễn tổ chức thực hiện và áp dụng đạo luật. Với vai trò (i) các nhà lập pháp sẽ phải chú ý quán triệt và chuyển hóa nội dung tinh thần của nguyên tắc trong các điều luật cụ thể cho phù hợp, với vai trò (ii) các nhà hành pháp và quan tòa sẽ phải lĩnh hội và để tâm đến những nội dung tinh thần của nguyên tắc trong đạo luật khi tiến hành các hoạt động tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật, như ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết, áp dụng các quy định cụ thể trong quản lý và trong hoạt động xét xử Về cơ sở của nguyên tắc trong các đạo luật, dẫu rằng nguyên tắc là cơ sở cho các điều khoản chi tiết kế tiếp của đạo luật, song những nguyên tắc của luật cũng cần có ‘nguyên liệu’. Thực tiễn xây dựng luật ở nước ta cho thấy, về cơ bản, cơ sở để xây dựng các nguyên tắc trong luật thường là quan điểm của Đảng ta, quy tắc pháp luật ngoài nước có liên quan tới lĩnh vực/đạo luật mà chúng ta cam kết thực hiện, các đặc thù của đối tượng điều chỉnh (các quan hệ xã hội) thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo luật. Nhìn chung, bất kỳ đạo luật nào cũng cần lưu ý đến những khía cạnh của điều khoản về nguyên tắc như đã đề cập đến ở trên. Luật PCTN hiện hành7 của nước ta là đạo luật quan trọng nên cũng không nằm ngoài khung cảnh trên. 51NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(305) T1/2016 CHÚC MừNG NăM MớI - 2016 4 Trong Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật (Nguyễn Cảnh Hợp chủ biên), Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức, TPHCM., 2014 có nhắc đến nội dung nguyên tắc được thể hiện trong văn bản pháp luật ở phần chung (trang 171) và nhiều nội dung về cách thức trình bày, thể hiện, diễn đạt các quy phạm pháp luật cụ thể trong văn bản pháp luật (trang 128, 143, 161, 169) nhưng vấn đề hình thức thể hiện cụ thể riêng cho điều khoản về nguyên tắc của văn bản pháp luật thì chưa được giáo trình đề cập. 5 Như Bộ luật Dân sự 2005 (Những nguyên tắc cơ bản, từ Điều 4 đến 13), Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (Những nguyên tắc cơ bản, từ Điều 3 đến 24) 6 Luật Thanh tra 2010, Điều 7, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, Điều 3 7 Luật PCTN được bình luận là văn bản Luật PCTN hợp nhất 2012 do Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội ký xác thực văn bản hợp nhất ngày 12/12/2012. 2. Nội dung quy định về nguyên tắc trong Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành và một số nhận xét Về nội dung quy định nguyên tắc Luật PCTN hiện hành đã được ban hành hơn 10 năm, sửa hai lần vào các năm 2007 và 2012, được tổ chức thi hành và đã đạt được nhiều kết quả đáng trân trọng. Tuy nhiên, đây là đạo luật được đánh giá bị sửa đổi hơi nhanh và hơi nhiều nhưng cả nội dung và hình thức đều cần được tiếp tục hoàn thiện8 trong thời gian tới, theo đó, chúng tôi cho rằng, có cả vấn đề trong điều khoản quy định về nguyên tắc của Luật. Trong Luật PCTN năm 2012, quy định nội dung về nguyên tắc như sau: Chương 1. Những quy định chung “Điều 4. Nguyên tắc xử lý tham nhũng 1. Mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh. 2. Người có hành vi tham nhũng ở bất kỳ cương vị, chức vụ nào phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. 3. Tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật. 4. Người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước khi bị phát hiện, tích cực hạn chế thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, tự giác nộp lại tài sản tham nhũng thì có thể được xem xét giảm nhẹ hình thức kỷ luật, giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 5. Việc xử lý tham nhũng phải được thực hiện công khai theo quy định của pháp luật. 6. Người có hành vi tham nhũng đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác vẫn phải bị xử lý về hành vi tham nhũng do mình đã thực hiện”. Chương 2. Phòng ngừa tham nhũng “Điều 11. Nguyên tắc và nội dung công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị 1. Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công khai, minh bạch, bảo đảm công bằng, dân chủ. 2. Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ”. Ngoài ra, không thấy chỗ nào có thêm chữ ‘nguyên tắc’ trong đạo Luật này. Một số nhận xét về phần quy định nguyên tắc trong Luật PCTN năm 2012 Với dung lượng về nguyên tắc được quy định trong Luật như trên có thể có một số nhận xét như sau: - Thứ nhất, điều khoản về nguyên tắc trong Luật PCTN có sự phát triển nhất định so với quy định tương tự trong pháp luật trước đó. Pháp lệnh số 03/1998/PL-UBTVQH10 ngày 26/02/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc Chống tham nhũng (Pháp lệnh), dù không nêu đích danh tên gọi nguyên tắc, song có thể thấy điều khoản về nguyên tắc trong Pháp lệnh này được quy 8 Xem bài Ba “nút thắt cổ chai” trong PCTN, đăng trên phapluattphcm.online, truy cập ngày 29/10/2014, trong đó, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Nguyễn Đức Lượng cho biết, khi soạn thảo luật cũng có nhiều ý kiến khác nhau nên “Dự kiến năm 2016, chúng tôi sẽ sửa đổi cơ bản, toàn diện Luật PCTN”. 52 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(305) T1/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT định cụ thể tại Điều 4: “Mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện kịp thời. Người có hành vi tham nhũng bất kỳ ở cương vị, chức vụ nào đều phải bị xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật; tài sản bị chiếm đoạt do hành vi tham nhũng phải được thu hồi; tài sản do tham nhũng mà có phải bị tịch thu; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại thì phải bồi thường” và tại Điều 5: “Người có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, tích cực hạn chế thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, nộp lại tài sản đã tham nhũng, thì tuỳ từng trường hợp mà được xem xét giảm nhẹ hoặc miễn xử lý kỷ luật, giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; người có hành vi tham nhũng mà dùng thủ đoạn xảo quyệt để che giấu hành vi vi phạm, cản trở cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý thì bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật”. Về cơ bản, nguyên tắc của Pháp lệnh đã được Luật PCTN năm 2012 kế thừa, tuy có thay đổi nhưng chủ yếu là về hình thức thể hiện. - Thứ hai, liều lượng, tính chất nội dung của điều khoản về nguyên tắc chưa tương thích với tên và tư tưởng chung của đạo Luật. Về tên, tên gọi của Luật là Luật PCTN và định hướng nội dung của Luật gồm hai “mặt trận” rõ rệt là phòng và chống (phát hiện + xử lý) tham nhũng, trong khi nguyên tắc chỉ ghi là nguyên tắc xử lý tham nhũng và nội dung của điều khoản về nguyên tắc (Điều 4) chỉ hướng đến việc xử lý tham nhũng (trừ Điều 11). Về tư tưởng, nội dung chi tiết của Luật quy định cơ bản hai mảng lớn là phòng ngừa và chống tham nhũng, trong khi nguyên tắc cơ bản chỉ hướng đến mặt trận chống tham những, còn tư tưởng chủ đạo của mặt trận phòng chưa thấy được thể hiện trong nội dung của điều luật về nguyên tắc. Vấn đề ở chỗ là, nội dung chi tiết của điều khoản về nguyên tắc trong văn bản luật có nhất thiết phải bao quát hết các nhóm vấn đề được điều chỉnh trong luật hay không và tên của nguyên tắc có nhất thiết phải trùng với tên của đạo luật hay không. Như chúng tôi đã phân tích, hiện nay chưa có chuẩn mực pháp lý cụ thể để xác định câu trả lời cho vấn đề này, nhưng quan sát các đạo luật hiện hành, ta có thể thấy về cơ bản, có hai khuynh hướng như sau: (i) nội dung của nguyên tắc bao trùm toàn bộ nội dung quy định của đạo luật và (ii) nội dung của nguyên tắc định hướng một phần nội dung của đạo luật. Chẳng hạn, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, trong điều khoản về nguyên tắc có viết nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính tại Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có viết nguyên tắc bảo vệ môi trường tại Điều 4 và nội dung của các Luật này quy định tất cả những nội dung hướng đến mục tiêu như tên của đạo luật đã xác định là những biểu hiện cho khuynh hướng (i). Còn các luật như Luật Thanh tra năm 2010 nhưng lại viết về nguyên tắc hoạt động thanh tra và nội dung của Luật này quy định hai mảng lớn cơ bản là hệ thống tổ chức thanh tra (gồm cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra từ trung ương đến địa phương) và hoạt động thanh tra (gồm trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành), Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 có viết nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ (tại Điều 14) dù Luật này quy định về hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài, từ nước ngoài vào Việt Nam; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá 53NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(305) T1/2016 CHÚC MừNG NăM MớI - 2016 nhân tham gia hoạt động chuyển giao công nghệ; thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước; các biện pháp khuyến khích, thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ (tại Điều 1) Các Luật này là những biểu hiện cho khuynh hướng (ii). Trong khi đó, Luật PCTN cơ bản thể hiện rõ hai mảng lớn cần quy định điều chỉnh là (a) các hoạt động nhằm phòng ngừa tham nhũng xảy ra và (b) các hoạt động nhằm phát hiện, xử lý tham nhũng nếu có xảy ra như Điều 1 đã xác định là Luật này quy định về phòng ngừa, phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong PCTN. Theo đó, mảng (a) được coi là cốt yếu và quan trọng nhất của đạo luật, do đó cần có những tư tưởng chỉ đạo (tức là các nguyên tắc) cho hệ thống các biện pháp phòng ngừa cụ thể trong luật, nhưng lại chưa được thể hiện (trừ Điều 11 của Luật), còn mảng (b) cũng rất quan trọng nhưng chủ yếu là quy định các biện pháp xử lý cơ bản về hành chính và trách nhiệm vật chất khác. Hơn nữa, để xử lý hành vi tham nhũng ở mức độ tội phạm, chúng ta còn có luật hình sự và chúng có những nguyên tắc riêng mang màu sắc của luật hình sự (có nghĩa rằng, nguyên tắc xử lý tham nhũng trong Luật PCTN không phải là tư tưởng chỉ đạo duy nhất để xử lý tham nhũng). Như vậy, dù có quy định thêm về nguyên tắc công khai, minh bạch ở Điều 11 của Luật PCTN, song xét về tên và tư tưởng của đạo luật thì toàn bộ nguyên tắc của Luật chưa bao quát được cả hai mảng cơ bản của Luật là phòng và chống như nói trên, mà đang chủ yếu hướng đến mảng xử lý tham nhũng. Ngoài ra, đối chiếu với quan điểm của Đảng ta9 về đấu tranh PCTN thì nội dung của nguyên tắc trong Luật cũng chỉ sử dụng phần nguyên liệu là chống còn phần nguyên liệu phòng chưa được chú trọng, dù rằng các biện pháp phòng ngừa cụ thể có chú ý tới vấn đề này. - Thứ ba, sự phân bố (cách trình bày) điều khoản về nguyên tắc trong Luật chưa hợp lý, vì ngoài quy định trong Điều 4 ở Phần chung của Luật thì còn có thêm ở phần cụ thể trong Chương II, Mục I Công khai, minh bạch ở Điều 11. Theo logic, nếu tư tưởng chỉ đạo cho các biện pháp phòng ngừa vắng mặt trong Điều 4 (và giả sử Điều 4 chỉ dành cho xử lý tham nhũng) thì các phần còn lại trong Chương II quy định các biện pháp phòng ngừa tham nhũng phải có nội dung đồng dạng với Điều 11 Nhóm các biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn lại trong Chương II cần có những tư tưởng chỉ đạo nhất định để định hướng chúng (các biện pháp phòng ngừa) thành tổ hợp những biện pháp phòng ngừa logic, thống nhất để phát huy tác dụng tổng hợp, liên hoàn chứ không phải rời rạc, mỗi ‘mũi tên’ một hướng. - Thứ tư, việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc của Luật PCTN trong thực tiễn PCTN cho đến nay là chưa toàn diện và chưa hiệu quả. Hệ quả trong quán triệt, cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn, thực tiễn triển khai thi hành những biện pháp phòng ngừa là thiếu thực tế, không phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội và nền hành chính nhà nước, hiệu quả thu được rất thấp, rất yếu kết quả 54 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(305) T1/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 9 Trong các văn kiện của Đảng, như Nghị quyết trung ương III khóa X, Nghị quyết ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Trung ương ương IV khóa XI đều nhấn mạnh cả hai mặt trận phòng và chống tham nhũng. không như mong đợi10 Những biện pháp phòng ngừa như công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, tổ chức đơn vị, minh bạch tài sản thu nhập của cán bộ, công chức khi thi hành kiểu gì cũng được coi là đã thi hành tốt nhưng tham nhũng vẫn tràn lan, hầu như không ngày nào không có thông tin phản hồi về tình trạng tham nhũng trên các phương tiện truyền thông ở trung ương cũng như ở địa phương; báo cáo của ngành thanh tra về PCTN hàng năm cho thấy tình trạng tham nhũng không thuyên giảm. Tham nhũng vẫn xảy ra nhiều hơn trước về số vụ và mức độ nghiêm trọng, thậm chí tham nhũng có thể xâu chuỗi, bao che, bảo vệ nhau11, có nghĩa là, các biện pháp phòng ngừa và xử lý mà chúng ta đã triển khai chưa hiệu quả. Trong đấu tranh PCTN, nếu phòng ngừa không vững chắc, kín kẽ sẽ không thể xử lý nổi nếu xảy ra quá nhiều hành vi tham nhũng và hơn nữa, khi xử lý tham nhũng là đã thiệt hại về tài sản, cán bộ và quan trọng là thiệt hại về lòng tin vào hệ thống công quyền - Thứ năm, sự quan tâm của các nhà lập pháp và công chúng tới điều khoản nguyên tắc của Luật PCTN từ khi xây dựng Luật cho đến nay chưa được chú trọng. Sự khác biệt không lớn giữa Dự thảo Luật PCTN và văn bản Luật PCTN chính thức từ khi soạn thảo cho đến nay cho thấy chúng ta chưa để ý nhiều đến điều khoản nguyên tắc của Luật. Gần đây, khi Luật PCTN chưa phát huy được tác dụng thì chúng ta chủ yếu tìm kiếm sự hạn chế từ những điều khoản cụ thể12 chứ ít để ý đến những điều khoản chung như nguyên tắc của Luật - là cơ sở của các điều khoản cụ thể. Tóm lại, điều khoản về nguyên tắc của Luật PCTN hiện hành cần được hoàn thiện hơn khi sửa đổi Luật trong thời gian tới. 3. Một số kiến nghị Để góp phần hoàn thiện vấn đề nguyên tắc trong xây dựng pháp luật nói chung và Luật PCTN nói riêng, xin được kiến nghị: - Một là, trong các đạo luật nói chung, khi sửa đổi hoặc ban hành mới, chúng ta nên thật sự lưu tâm tới các khía cạnh của vấn đề nguyên tắc như đã trình bày ở trên, đặc biệt là cần chú ý liều lượng và mức độ nội dung của nguyên tắc, hình thức thể hiện của nguyên tắc cũng như chú ý cơ sở để đề ra nguyên tắc trong đạo luật. - Hai là, sửa đổi điều khoản về nguyên tắc trong Luật PCTN sau này theo hướng: Chỉ quy định những gì là nguyên tắc ở phần 55NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(305) T1/2016 CHÚC MừNG NăM MớI - 2016 10 Trong Đề cương tuyên truyền Luật PCTN sửa đổi năm 2012 tại mục 1. Những bất cập, hạn chế của Luật PCTN năm 2005 có đoạn nhận xét về hạn chế của LPCTN 2005 (sửa 2007) có đoạn: “ Về việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị: Nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước, Luật quy định còn chung chung, khó thực hiện; có lĩnh vực còn chưa quy định về công khai, minh bạch; Về minh bạch tài sản, thu nhập: Công tác kê khai tài sản, thu nhập tuy đã được triển khai trên diện rộng nhưng còn hình thức, tác dụng phòng ngừa tham nhũng còn hạn chế, hiệu quả thấp; Về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị: Việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng chưa được quan tâm đúng mức...” chính là những hạn chế của các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. 11 Xem bài Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Tham nhũng xâu chuỗi, bao che, bảo vệ nhau, phapluattphcm.online truy cập Thứ tư, ngày 3/12/2014 - 07:00. 12 Xem bài Ba “nút thắt cổ chai” trong PCTN, đăng trên phapluattphcm.online, truy cập ngày 29/10/2014, trong đó Ông Jairo cố vấn chính sách, quản trị công và PCTN của UNDP Việt Nam đã ví von Luật PCTN của Việt Nam giống một chú “hổ giấy” ; và Bà Trần Thị Lan Hương, chuyên gia quản trị nhà nước của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, đặt vấn đề Việt Nam có rất nhiều quy định pháp luật về PCTN hay nói cách khác “thế giới có gì thì Việt Nam có vậy”, thế nhưng các báo cáo của Chính phủ đều nhận định việc thực hiện các quy định này vẫn là yếu kém và các chiến lược của Chính phủ đề cập đến rất nhiều mũi nhọn nhưng nhiều mũi nhọn quá thành ra “chiến lược quả mít”. đầu của Luật PCTN, nên đưa nội dung có tính nguyên tắc trong Mục I về Công khai, minh bạch của Chương II lên phần đầu trong Chương I hoặc nếu giữ nguyên thì các Mục còn lại phải bổ sung các điều khoản tương tự như Điều 11 của Luật hiện hành; nội dung nguyên tắc cần được bổ sung mảng phòng ngừa tham nhũng, về cơ bản phải quán triệt quan điểm của Đảng ta về phòng ngừa tham nhũng; chú ý tư tưởng chỉ đạo về mảng phòng ngừa của nguyên tắc trong Luật sao cho các biện pháp phòng ngừa khi cụ thể hóa (trên cơ sở quán triệt nguyên tắc) phải có tính toàn diện, logic, thống nhất và liên hoàn để tạo sức mạnh tổng hợp, hiệu quả nhiều tầng, lớp khác nhau trong phòng ngừa, vì nguyên lý của phòng ngừa chủ yếu là bịt kín các sơ hở, lọt lưới này sẽ còn lưới khác - Ba là, trước mắt, khi chưa sửa đổi kịp điều khoản về nguyên tắc trong Luật PCTN thì trong thực tiễn tổ chức thi hành, áp dụng Luật PCTN, các nhà hành pháp, các quan tòa hoặc trong hoạt động tổng kết đánh giá cần lưu tâm đến các nội dung là nguyên liệu phòng ngừa (cơ sở của nguyên tắc phòng ngừa như đã trình bày ở trên) để triển khai thực hiện các hoạt động phòng ngừa hoặc đánh giá tổng kết thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật PCTN phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng. - Bốn là, cần tiếp tục nghiên cứu để bổ sung vào Luật Ban hành VBQPPL những quy định về điều khoản nguyên tắc của đạo luật khi xây dựng một đạo luật cụ thể. Hiện nay, chúng ta đã xây dựng xong Luật Ban hành VBQPPL 2015 và sẽ có hiệu lực 01/07/2016, do đó cần tiếp tục nghiên cứu để bổ sung trong tương lai. Nội dung của một đạo luật có nhiều vấn đề và hình thức thể hiện cũng đa dạng, khác nhau, song điều khoản về nguyên tắc của một đạo luật như là ‘bộ não’ chỉ huy toàn “cơ thể” của đạo luật, do đó cần khẳng định trong Luật Ban hành VBQPPL như là một ràng buộc chắc chắn cho các đạo luật khác khi xây dựng và ban hành n 56 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(305) T1/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnguyen_tac_cua_luat_phong_chong_tham_nhung_va_mot_so_kien_ng.pdf
Tài liệu liên quan