Kiến nghị về nguyên tắc giới
hạn quyền
Thứ nhất, cần hoàn thiện nguyên tắc
giới hạn quyền đồng thời trên hai khía cạnh:
giới hạn bởi nguyên tắc chung và giới hạn
cụ thể trong sự ghi nhận đối với mỗi quyền
(cần thiết). Nguyên tắc chung cần được thể
hiện theo hướng thiết lập hệ tiêu chí giới hạn
quyền có tính bao trùm cho tất cả mọi trường
hợp cần thiết phải giới hạn hoặc tạm đình chỉ
thực hiện quyền. Trên tinh thần bảo đảm tính
chất tương xứng(10), hệ tiêu chí ở nguyên tắc
chung phải hội đủ 3 tiêu chí thống nhất: (1)
giới hạn bởi luật hoặc văn bản dưới luật và
(2) trong trường hợp thật sự cần thiết và (3)
vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng
đồng. Nguyên tắc chung này là một bộ phận
không thể tách rời trong các nguyên tắc của
chế định quyền cơ bản trong Hiến pháp. Bên
cạnh nguyên tắc chung, đối với mỗi quyền
được ghi nhận trong Hiến pháp phải thể hiện
rõ có thể bị giới hạn bởi luật hay bởi văn bản
dưới luật. Đồng thời, Hiến pháp cũng phải
phân biệt quyền có thể bị giới hạn với quyền
có thể bị tạm đình chỉ thực hiện trong những
trường hợp cần thiết và vì lý do đã nêu trong
nguyên tắc chung.
Thứ hai, Nguyên tắc giới hạn quyền
trong Hiến pháp dù sao cũng luôn ở tầm khái
quát, mang tính trừu tượng cao(11) nên rất cần
được luật và các văn bản dưới luật quy định
chi tiết, thống nhất.
Thứ ba, việc xây dựng, hoàn thiện cơ
chế bảo hiến ở Việt Nam nên chú trọng giải
pháp bảo vệ Hiến pháp, giám sát tuân thủ Hiến
pháp bằng cơ chế tư pháp. Theo đó, cần trao
cho cơ quan tư pháp (Toà án) thẩm quyền giải
thích pháp luật (trong đó có Hiến pháp). Tính
khái quát, trừu tượng của Hiến pháp không
chỉ được giải quyết bởi lập pháp mà còn phải
thông qua cả hoạt động xét xử các tranh chấp,
giải quyết các vụ việc cụ thể, thông qua giải
thích pháp luật của Toà án.
Thứ tư, các giải pháp lập hiến, lập pháp,
áp dụng Hiến pháp và pháp luật về nguyên tắc
giới hạn quyền đều phải được xây dựng, triển
khai trên tinh thần phù hợp với luật nhân quyền
quốc tế cũng như xu hướng chung của nền lập
hiến tiên tiến ở các nước trên thế giới.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 220 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc giới hạn quyền trong các bản hiến pháp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Quan niệm nguyên tắc giới hạn quyền (quyền con người, quyền cơ
bản của công dân) trong Hiến pháp theo nghĩa rộng gồm nguyên
tắc chung về sự giới hạn đối với các quyền và nguyên tắc về sự giới
hạn đối với mỗi quyền cụ thể được xác lập khi ghi nhận quyền, tác
giả đã khảo cứu, so sánh sự thể hiện nguyên tắc giới hạn quyền
trong 5 bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm
2013, đưa ra nhận xét và kiến nghị về nguyên tắc giới hạn quyền
trong Hiến pháp Việt Nam.
Trần Thái Dương*
* TS. Trường Đại học Luật Hà Nội
Abstract
The principle of the limitation of rights (human rights - the
fundamental rights of citizens) in the Constitution, in the broaden
meaning, includes the general principle of the limitation of the
rights and the principle of limitation for each particular right
once being established, the author has studied, compared the
representation of the principle of right limitation in the five
Constitutions, from the Constitution of 1946 to the Constitution of
2013, provided comments and recommendations to the principle of
right limitations in the Constitution of Vietnam
Thông tin bài viết:
Từ khóa: giới hạn quyền; Hiến pháp;
nguyên tắc; Việt Nam
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 24/05/2018
Biên tập : 07/06/2018
Duyệt bài : 14/06/2018
Article Infomation:
Keywords: right limitation;
Constitution; principle; Vietnam
Article History:
Received : 24 May 2018
Edited : 07 Jun 2018
Approved : 14 Jun 2018
NGUYÊN TẮC GIỚI HẠN QUYỀN
TRONG CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
1. Quan niệm về nguyên tắc giới hạn
quyền trong Hiến pháp
Về mặt ngữ nghĩa, có thể hiểu: giới
hạn (danh từ) là “phạm vi, mức độ nhất định,
không thể hoặc không được phép vượt qua”
hoặc (động từ) là “quy định một giới hạn”,
chẳng hạn giới hạn vấn đề nghiên cứu; hạn
1 Xem: Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt; Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2002, các
trang: 405, 420, 694.
chế (động từ) là “giữ lại, ngăn lại trong một
giới hạn nhất định, không để cho vượt qua”;
nguyên tắc (danh từ) là “điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc
làm”(1). Qua đây cho thấy, tuy có những điểm
khác nhau về sắc thái nghĩa nhưng giữa giới
hạn với hạn chế lại có những nét gần gũi,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 13(365) T6/2018
giao thoa hay lồng ghép vào nhau, trong giới
hạn có sự hạn chế với một phạm vi, mức độ
nhất định và khi hạn chế điều gì đó thì bao
giờ cũng chỉ có ý nghĩa trong một giới hạn
nhất định, tức là phải vạch ra được ranh giới
của nó(2) . Trong nghiên cứu này, chúng tôi
sử dụng thuật ngữ “giới hạn quyền” với ý
nghĩa là sự giới hạn đối với quyền con người,
quyền công dân.
Nguyên tắc giới hạn hay hạn chế quyền
là một cách nói tắt. Thật ra phải gọi đầy
đủ lời văn theo quy định tại khoản 2 Điều
14 Hiến pháp năm 2013 mới đúng tên của
nguyên tắc: “Quyền con người, quyền công
dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng đồng”.
Hơn nữa, ở đây “nguyên tắc” là cách gọi của
khoa học Luật Hiến pháp, trong chừng mực
nhất định có thể nói các nhà Hiến pháp học
gán cho quy định đó cái tên gọi là “nguyên
tắc”. Nhưng với tính cách là luật cơ bản, các
quy định của Hiến pháp nói chung thường
mang tính khái quát rất cao và đó cũng chính
là tư tưởng, định hướng hay chính là những
nguyên tắc cho cả hệ thống pháp luật. Nhìn
nhận như vậy thì mới có thể thấy được một
cách đầy đủ bức tranh về nguyên tắc giới hạn
quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam.
2 Có tác giả đặt vấn đề cần phân biệt giới hạn quyền với hạn chế quyền vì “luật nhân quyền quốc tế đưa ra hai khái niệm
gồm: giới hạn quyền (limitations of rights) và hạn chế hay tạm đình chỉ việc thực hiện quyền (derogation of rights)”.
Xem: Lưu Đức Quang, Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người quyền công dân (sách tham khảo), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.75-76. Tuy vậy, quan điểm khác cho rằng: Giới hạn/sự hạn chế quyền con người (limitation
on human rights) được hiểu là việc nhà nước không cho phép các chủ thể có thể thực hiện quyền ở mức độ tuyệt đối (cao
nhất). Xem: Aharon Barak, Proportionality: Constitutional Rights and Their Limitations, Cambridge University Press,
2012, tr.102 (Dẫn theo: Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân
trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam; Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2015, tr. 178).
3 Xem:
- Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc
tế và pháp luật Việt Nam (sđd);
- Viện Nghiên cứu Lập pháp, Quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân – Thực trạng và giải pháp, Đề tài
khoa học cấp bộ năm 2016 - 2017;
- Lưu Đức Quang, Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người quyền công dân (sách tham khảo), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2016.
- Phạm Hữu Nghị, Vấn đề hạn chế quyền con người theo pháp luật quốc tế, Hiến pháp một số nước và Hiến pháp Việt
Nam năm 2013, Tạp chí Pháp luật về quyền con người, số 1/2018, tr.40.
4 Xem: Bùi Tiến Đạt, Nhận diện các mô thức giới hạn quyền con người trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 2, kỳ 2 tháng 01/2018, tr.3.
Đến nay, trong giới nghiên cứu luật
học đã có nhiều tác giả khẳng định rằng,
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên trong lịch
sử lập hiến Việt Nam quy định nguyên tắc
giới hạn quyền(3). Nếu thế thì phải chăng
đến Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam mới
có nguyên tắc về giới hạn đối với quyền?
Không hoàn toàn đồng tình với nhận định
trên, chúng tôi quan niệm nguyên tắc giới
hạn quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam
theo nghĩa rộng hơn, không phải chỉ có điều
khoản định hướng chung cho chế định quyền
cơ bản trong Hiến pháp mà còn là sự thể hiện
ngay trong chính điều khoản ghi nhận các
quyền cụ thể. Mặt khác, chúng ta đều biết
quyền không chỉ được ghi nhận trong Hiến
pháp mà còn có cả sự cụ thể hoá và sự ghi
nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật
dưới Hiến pháp. Do vậy, có thể coi giới hạn
được thiết lập trong quy định về mỗi quyền
ở Hiến pháp cũng chính là những nguyên tắc
về sự giới hạn đối với quyền đó. Với cách
thức xác lập nguyên tắc giới hạn quyền như
vậy nên trong 4 bản Hiến pháp từ năm 1946
đến năm 1992, cho dù chưa có một nguyên
tắc chung về giới hạn quyền thì tư tưởng về
giới hạn quyền vẫn được thể hiện trong Hiến
pháp và toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam
dưới những mô thức khác nhau(4). Thậm chí
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 13(365) T6/2018
đến Hiến pháp năm 2013, tuy đã có sự ghi
nhận một nguyên tắc chung về giới hạn đối
với quyền tại khoản 2 Điều 14 và dù được
coi là bước tiến bộ vượt bậc trong chế định
quyền con người, quyền công dân nhưng quy
định này vẫn cần phải có sự hỗ trợ của các
quy định có tính nguyên tắc chung khác cũng
như những quy định về giới hạn đối với các
quyền cụ thể.
2. Sự thể hiện nguyên tắc giới hạn quyền
trong các bản Hiến pháp
2.1 Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp năm 1946 chưa xác lập
nguyên tắc chung về giới hạn quyền và ở hầu
hết các quyền cụ thể đều không xác định giới
hạn quyền, tuy vậy cũng có một số quy định về
quyền đã thể hiện tư tưởng về giới hạn quyền.
Chẳng hạn, đối với quyền bất khả xâm phạm
thân thể, nhà ở, thư tín của công dân, Điều thứ
11 quy định: “Tư pháp chưa quyết định thì
không được bắt bớ và giam cầm người công
dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân
Việt Nam không ai được xâm phạm một cách
trái pháp luật”. Đối với quyền bầu cử, Điều thứ
18 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18
tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có
quyền bầu cử, trừ những người mất trí và người
mất công quyền. Người ứng cử phải là người
có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, phải biết
đọc, biết viết chữ quốc ngữ”. Hay quy định về
quyền học tập của công dân: “Trường tư được
mở tự do và phải dạy theo chương trình của
Nhà nước” (Điều thứ 15)(5). Như vậy, giới hạn
đối với các quyền nêu trên, theo quan điểm của
nhà lập hiến lúc này được thể hiện bởi quyết
định của cơ quan tư pháp, quy định pháp luật
hoặc những yếu tố khác như sự mất trí, mất
công quyền hay điều kiện về độ tuổi, trình độ
văn hoá của công dân, theo chương trình giáo
dục của Nhà nước...
5 Xem: Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân trong pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam, sđd, tr.134.
6 Xem: Lưu Đức Quang, Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người quyền công dân; sđd, tr.116.
2.2 Hiến pháp năm 1959
Tuy Hiến pháp năm 1959 chưa xác
lập nguyên tắc chung về giới hạn đối với các
quyền công dân nhưng đối với quyền sở hữu
ruộng đất và tư liệu sản xuất, của cải khác của
nông dân, những người làm nghề thủ công và
những người lao động riêng lẻ khác, của nhà
tư sản dân tộc (được quy định tại các Điều 14,
15, 16) thì Hiến pháp đã xác định một nguyên
tắc của việc Nhà nước trưng mua hoặc trưng
dụng, trưng thu đối với một trong các đối
tượng đó. Hiến pháp quy định: “Chỉ khi nào
cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng
mua, hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường
thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và
nông thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp
luật quy định” (Điều 20).
Như vậy, ở giai đoạn này, quyền sở
hữu đối với ruộng đất, tư liệu sản xuất (một
trong những đối tượng quan trọng nhất của
quyền tư hữu) của công dân là quyền có thể
bị giới hạn bởi việc Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng, trưng thu khi cần thiết vì lợi ích
chung. Pháp luật phải quy định phạm vi, điều
kiện của việc Nhà nước trưng mua hoặc trưng
dụng, trưng thu các đối tượng nêu trên. Hay
diễn đạt một cách khác, việc trưng mua hoặc
trưng dụng, trưng thu của Nhà nước đối với
các đối tượng nêu trên chỉ được coi là chính
đáng, hợp pháp khi tuân theo phạm vi, điều
kiện do pháp luật quy định. Có thể nói, đây
chính là trường hợp giới hạn quyền một cách
cụ thể, sự giới hạn được xác định rõ ràng, đồng
thời với việc Hiến pháp ghi nhận một quyền
nhất định. Hiến pháp năm 1959 lần đầu tiên
xác lập cách thức giới hạn có tính “truyền
thống”(6) đối với việc trưng mua, trưng dụng,
trưng thu các tư liệu sản xuất có bồi thường ở
Việt Nam.
Cùng với quyền sở hữu, đối với một
số quyền khác, Hiến pháp năm 1959 cũng
thể hiện tư tưởng về sự giới hạn quyền. Đó
là các quyền:
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 13(365) T6/2018
- Quyền bầu cử và ứng cử: Công dân
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, không
phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành
phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng
tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời
hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền
bầu cử, từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng
cử, trừ những người mất trí và người bị toà
án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử, ứng cử.
Công dân đang ở trong quân đội có quyền
bầu cử, ứng cử (Điều 23).
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể:
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu
không có sự quyết định của Toà án nhân dân
hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân
dân (Điều 27).
- Quyền được xét xử công khai, quyền
bào chữa của bị cáo (thuộc phạm vi nội dung
của quyền được xét xử công bằng): Việc xét
xử tại các Toà án nhân dân đều công khai,
trừ những trường hợp đặc biệt do luật định.
Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm
(Điều 101).
2.3 Hiến pháp năm 1980
Trong Hiến pháp năm 1980, nguyên
tắc giới hạn quyền cũng chưa được quy định
với tính cách là nguyên tắc chung của chế
định này. Nhưng cũng tương tự như Hiến
pháp năm 1959, đối với quyền sở hữu tài sản
của cá nhân (hoặc của tập thể), Hiến pháp
xác định giới hạn của quyền là: “Khi thật
cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể
trưng mua, trưng dụng hoặc trưng thu có bồi
thường tài sản của cá nhân hoặc của tập thể.
Thể thức trưng mua, trưng dụng, trưng thu
do pháp luật quy định” (Điều 28).
Nếu Hiến pháp năm 1959 xác định
giới hạn của việc Nhà nước trưng mua, trưng
dụng hoặc trưng thu có bồi thường thích
đáng đối với ruộng đất, tư liệu sản xuất nói
chung thì Hiến pháp năm 1980 quy định giới
hạn của việc Nhà nước trưng mua, trưng
dụng, trưng thu có bồi thường đối với tài sản
của cá nhân (hoặc của tập thể). Phải chăng
nguyên tắc giới hạn quyền sở hữu đã được
mở rộng hơn (đối với tất cả các loại tài sản
của cá nhân)? Thật ra không phải như vậy.
Tuy tài sản là khái niệm rộng hơn, bao hàm
trong đó cả tư liệu sản xuất nhưng Hiến pháp
năm 1980 không còn quy định quyền sở hữu
về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác,
bởi vì chế độ kinh tế của Nhà nước đã có sự
thay đổi.
Hiến pháp năm 1980 nhấn mạnh hơn
về lý do hạn chế quyền: “khi thật cần thiết vì
lợi ích chung”. Khác với quy định của Hiến
pháp năm 1959 - việc Nhà nước trưng mua
hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường
thích đáng “trong phạm vi và điều kiện
do pháp luật quy định”, Hiến pháp năm 1980
nêu rõ: “Thể thức trưng mua, trưng dụng,
trưng thu do pháp luật quy định”. Ngoài
quyền sở hữu, Hiến pháp năm 1980 cũng thể
hiện sự giới hạn đối với một số quyền khác.
Đó là các quyền:
- Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình:
Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do
biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa
xã hội và của nhân dân (Điều 67).
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo:
Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước
(Điều 68).
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể:
Không ai có thể bị bắt, nếu không có quyết
định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc
bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp
luật (Điều 69).
- Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở:
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác
nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp
được pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ
ở phải do đại diện cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành, theo quy định của pháp luật
(Điều 71).
- Quyền được xét xử công khai, quyền
được bào chữa (của bị cáo) - thuộc phạm vi
nội dung của quyền được xét xử công bằng:
Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường
hợp do luật định. Quyền bào chữa của bị cáo
được bảo đảm (Điều 133).
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 13(365) T6/2018
2.4 Hiến pháp năm 1992
Trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi,
bổ sung năm 2001), nguyên tắc giới hạn
quyền chưa được ghi nhận một cách trực
diện. Mặc dù vậy, quy định giới hạn quyền
trong các bản Hiến pháp trước tiếp tục được
thể hiện trên tinh thần kế thừa, phát triển cho
phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
đất nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến
Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 tuyên bố
tôn trọng quyền con người, nhấn mạnh vai
trò của những văn bản có hiệu lực và giá trị
pháp lý cao nhất là Hiến pháp và luật trong
việc ghi nhận quyền con người, quyền công
dân. Tuy nhiên, nhà lập hiến lúc này lại quan
niệm (1) quyền con người được hoà chung
với quyền công dân, thể hiện ở quyền công
dân và (2) quyền được quy định trong Hiến
pháp và luật. Chúng tôi cho rằng, đây cũng
là sự thể hiện tư tưởng giới hạn quyền ở tầm
nguyên tắc chung cho chế định quyền cơ bản
trong Hiến pháp.
Bên cạnh đó Hiến pháp còn thể hiện sự
giới hạn quyền cụ thể như sau:
- Quyền sở hữu (Điều 23): Tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu
hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc
gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng
có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ
chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng
mua, trưng dụng do luật định. So với Hiến
pháp năm 1980, quyền sở hữu của công dân
theo Hiến pháp năm 1992 đã được mở rộng
phạm vi nội dung. Diện các loại tài sản thuộc
sở hữu của công dân không còn bị giới hạn
như trước mà được mở rộng hơn để phục vụ
cho việc phát triển nền kinh tế thị trường có
nhiều thành phần tham gia (Điều 58).
Tuy nhiên, sự giới hạn quyền sở hữu
tài sản của công dân (cá nhân, tổ chức) được
hiến định bằng việc Nhà nước có thể trưng
mua, trưng dụng vì lý do chính đáng là quốc
phòng, an ninh và lợi ích quốc gia. Ở đây,
tuy cũng có điểm giống như tinh thần trong 2
bản Hiến pháp trước là việc trưng mua, trưng
dụng phải có sự bồi thường nhưng là sự bồi
thường phải theo giá thị trường. Mặt khác,
nếu trong các bản Hiến pháp trước có 3 hình
thức trưng mua, trưng dụng và trưng thu thì
nay chỉ còn 2 hình thức là trưng mua và trưng
dụng. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định
rõ thể thức trưng mua, trưng dụng tài sản do
luật quy định, chứ không phải do pháp luật
quy định như trong Hiến pháp năm 1980.
Như vậy, đối với quyền sở hữu tài sản của
công dân, Hiến pháp năm 1992 đã thiết lập
nguyên tắc giới hạn quyền một cách chặt chẽ
hơn nhằm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền
sở hữu cá nhân của công dân phù hợp với
những đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng nền
kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền
XHCN.
- Quyền tự do kinh doanh (Điều 57):
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo
quy định của pháp luật. Quyền này là quyền
phái sinh từ quyền sở hữu tư nhân. Bản chất
của nền kinh tế thị trường đòi hỏi ghi nhận
quyền tự do kinh doanh của công dân, quyền
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các
chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiên, cách
quy định của Hiến pháp như vậy làm quyền
tự do kinh doanh bị hạn chế, không đúng với
nghĩa của “tự do”.
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
(Điều 70): Không ai được lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của Nhà nước.
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm (Điều 71):
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của
Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn
của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ
người phải đúng pháp luật.
- Quyền được suy đoán vô tội (Điều 72):
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật. Đây là quyền mới, lần đầu tiên
được ghi nhận trong Hiến pháp.
- Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở,
quyền được bảo đảm an toàn, bí mật về thư
tín, điện thoại, điện tín (Điều 73): Việc khám
xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ
thư tín, điện tín của công dân phải do người
có thẩm quyền tiến hành theo quy định của
pháp luật.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 13(365) T6/2018
- Quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 74):
Nghiêm cấm việc lợi dụng quyền khiếu nại,
tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980
chưa ghi nhận sự giới hạn đối với quyền này.
- Quyền được xét xử công khai, quyền
bào chữa của bị cáo (thuộc nội dung quyền
được xét xử công bằng): Toà án nhân dân
xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định
(Điều 131); Quyền bào chữa của bị cáo được
bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa cho mình (Điều 132).
2.5 Hiến pháp năm 2013
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt
Nam, một nguyên tắc chung về giới hạn quyền
với tính cách là tư tưởng chủ đạo, định hướng
cho việc xác định giới hạn đối với tất cả các
quyền (cần thiết và có thể) đã được quy định
tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã
hội, sức khoẻ của cộng đồng”.
Nguyên tắc giới hạn quyền được quy
định như vậy, cho dù đã hoàn toàn phù hợp
với luật nhân quyền quốc tế hay chưa thì đây
vẫn được coi là điểm sáng rực rỡ nhất, thể
hiện sự tiến bộ, phát triển vượt bậc trong chế
định quyền cơ bản của Hiến pháp năm 2013.
Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên
tắc về giới hạn quyền trước hết thể hiện quan
niệm của các nhà lập hiến Việt Nam về bản
chất của quyền con người, quyền công dân.
Theo đó, quyền con người tuy mang tính tự
nhiên, vốn có và không phải có ai ban phát
cho chủ thể các quyền đó nhưng cũng không
phải mọi quyền đều có ý nghĩa tuyệt đối và
không phải trong mọi trường hợp đều có thể
thực hiện (hưởng thụ) quyền một cách tuyệt
đối. Bởi lẽ, con người hoặc công dân sinh
ra và sống, hưởng thụ các quyền trong một
cộng đồng xã hội. Các quyền tuy là của cá
nhân mỗi con người hoặc công dân nhưng
không thể đối lập, loại trừ, hay xâm hại cho
quyền của cá nhân khác hay những lợi ích
của cộng đồng. Nói cách khác, vì lợi ích
chung, trong những trường hợp cần thiết,
quyền con người, quyền công dân có thể bị
giới hạn. Với tính cách là luật cơ bản, Hiến
pháp phải vạch rõ, hiến định nguyên tắc của
việc giới hạn này. Việc quy định một nguyên
tắc cho việc giới hạn quyền trong Hiến pháp
mang hai ý nghĩa sau: (1) xác lập tiêu chí
để sự giới hạn quyền được chính đáng, tránh
sự tuỳ tiện trong hoạt động của bộ máy nhà
nước làm triệt tiêu, vô hiệu hoá hay giảm
ý nghĩa của quyền; (2) bảo đảm tính hiện
thực của quyền vì sự giới hạn đối với quyền
con người, quyền công dân là một giải pháp
được lựa chọn cuối cùng khi không có giải
pháp nào khác phù hợp hơn. Trên tinh thần
đó, suy cho cùng, nguyên tắc giới hạn quyền
cũng nhằm mục đích tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm quyền con người, quyền công dân. Vì
thế, liền ngay trước khi ghi nhận nguyên tắc
giới hạn quyền, khoản 1 Điều 14 Hiến pháp
năm 2013 đã long trọng tuyên bố: “Ở nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hoá, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp
và luật”.
Nguyên tắc giới hạn quyền trong Hiến
pháp năm 2013 không chỉ là nguyên tắc cho
chế định quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp
(Chương II) mà còn là nguyên tắc cho cả bản
Hiến pháp và cũng là nguyên tắc chung cho
cả hệ thống pháp luật.
Có thể khẳng định nguyên tắc giới
hạn quyền không tồn tại một cách biệt lập
mà trong mối liên hệ thống nhất với các
nguyên tắc khác được quy định tại Điều 15:
Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ
công dân (khoản 1); Mọi người có nghĩa vụ
tôn trọng quyền của người khác (khoản 2);
Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
đối với Nhà nước và xã hội (khoản 3); Việc
thực hiện quyền con người, quyền công dân
không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân
tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác (khoản 4). Ở chừng mực nhất định và
từng khía cạnh cụ thể, các nguyên tắc trên
cũng thể hiện tư tưởng giới hạn quyền. Tuy
nhiên, những nguyên tắc này hướng đến điều
chỉnh hành vi của các chủ thể có quyền, còn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 13(365) T6/2018
nguyên tắc giới hạn quyền lại hướng đến
chủ thể có nghĩa vụ, trách nhiệm công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền, chính là
Nhà nước.
Trong việc ghi nhận các quyền cụ thể,
Hiến pháp năm 2013 cũng kế thừa, phát triển
cách thức ghi nhận quyền và kèm theo đó là
giới hạn của quyền trong các bản Hiến pháp
trước. Bên cạnh những quyền đã từng được
ghi nhận, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận
thêm một số quyền mới. Nhìn chung, cách
thức thể hiện tư tưởng giới hạn các quyền cụ
thể như sau:
- Quyền sống: Mọi người có quyền
sống. Tính mạng con người được pháp luật
bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng
trái luật (Điều 19). Đây là quyền mới được
ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp Việt Nam,
phù hợp với luật nhân quyền quốc tế. Tuy
là quyền có ý nghĩa tuyệt đối nhưng tính có
giới hạn của quyền sống được thể hiện ở chỗ
không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp
luật. Trong điều kiện Việt Nam còn phải duy
trì án tử hình đối với một số tội phạm đặc biệt
nguy hiểm, luật xác định rõ các loại tội phạm
này. Việc thi hành án tử hình cũng được luật
quy định hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Tuy
nhiên, trên tinh thần tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm quyền con người, quyền công dân, luật
hình sự Việt Nam thời gian gần đây đã thu
hẹp số lượng các tội danh có khung hình phạt
với mức cao nhất là tử hình. Luật hình sự
cũng quy định không áp dụng hình phạt tử
hình, không thi hành án tử hình đối với người
bị kết án đối với người dưới 18 tuổi khi phạm
tội hoặc đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc
khi xét xử, phụ nữ đang có thai hoặc phụ nữ
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi(7)
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự
và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực,
truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối
xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khoẻ,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm: Không ai bị
bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân
7 Xem: Các khoản 2, 3 Điều 40 BLHS năm 2015.
dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện
kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội
quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật
định (khoản 2 Điều 20). Những giới hạn
của quyền này được Hiến pháp năm 2013
kế thừa, phát triển về cách thức quy định
của các bản Hiến pháp trước đây. Nếu Hiến
pháp năm 1992 quy định “việc bắt, giam,
giữ người được thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật” thì nay Hiến pháp năm
2013 quy định việc bắt, giam, giữ người do
luật định. Như vậy, giới hạn quyền được quy
định một chặt chặt chẽ hơn, phạm vi giới hạn
được thu hẹp lại. Tuy nhiên, đây là quyền
con người, không phải quyền riêng của công
dân (chủ thể quyền được mở rộng). Hơn nữa
phạm vi quyền này cũng được mở rộng hơn
ở chỗ mọi người có quyền không bị tra tấn,
bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm. Thân thể của con
người không chỉ là đối tượng vật chất (cơ
thể) mà còn có cả các giá trị tinh thần như
danh dự, nhân phẩm.
- Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người
và hiến xác (khoản 3 Điều 20): Đây là quyền
mới được ghi nhận lần đầu trong Hiến pháp
Việt Nam. Tính bị giới hạn của quyền này thể
hiện ở chỗ theo quy định của luật. Nếu được
diễn đạt: “Việc thực hiện quyền này theo quy
định của luật” thì phù hợp hơn, như vậy quyền
này mới không bị giới hạn bởi luật.
- Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện
tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng
tư khác: Không ai được bóc mở, kiểm soát,
thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và
các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của
người khác (đoạn 2 khoản 2 Điều 21). Điểm
mới trong việc giới hạn đối với quyền này
là sự giới hạn bằng luật chứ không phải giới
hạn bởi pháp luật như Hiến pháp năm 1992
(Điều 73). Mặt khác, phạm vi quyền được
mở rộng hơn, không chỉ bất khả xâm phạm
quyền riêng tư qua các đối tượng như thư tín,
điện thoại, điện tín mà là bất kỳ hình thức
trao đổi thông tin riêng tư nào.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 13(365) T6/2018
- Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở:
Việc khám xét chỗ ở do luật định (khoản
3 Điều 22). Trong khi đó, Hiến pháp năm
1992, 1980 quy định việc khám xét chỗ ở
do người có thẩm quyền tiến hành theo quy
định của pháp luật (Điều 73); Hiến pháp năm
1959 quy định pháp luật bảo đảm nhà ở của
công dân không bị xâm phạm.
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo:
Không ai được lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để vi phạm pháp luật (khoản 3 Điều
24). Giới hạn này cũng tương tự như giới
hạn được quy định trong các bản Hiến pháp
trước: Hiến pháp năm 1992 - làm trái
pháp luật, chính sách của Nhà nước (Điều
70); Hiến pháp năm 1980 (Điều 68), Hiến
pháp năm 1959 không quy định giới hạn đối
với quyền này (Điều 26). Hiến pháp năm
1946 ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng và
không xác định giới hạn đối với quyền này.
- Quyền khiếu nại, tố cáo: Nghiêm
cấm lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để
vu khống, vu cáo làm hại người khác (khoản
3 Điều 30). Cách thức giới hạn quyền cũng
kế thừa cách thức giới hạn quyền trong Hiến
pháp năm 1992 (Điều 74). Hiến pháp năm
1959 không quy định giới hạn với quyền này.
Hiến pháp năm 1946 chưa ghi nhận quyền
khiếu nại, tố cáo.
- Quyền được suy đoán vô tội: Người
bị buộc tội được coi là không có tội cho đến
khi được chứng minh theo trình tự luật định
và có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật (khoản 1 Điều 31). Giới hạn
đối với quyền này có sự kế thừa và phát triển
cách quy định trong Hiến pháp năm 1992
(Điều 72)(8). Bên cạnh việc xác định chính
xác, đầy đủ hơn chủ thể có quyền là người bị
buộc tội(9) Hiến pháp năm 2013 còn ghi nhận
chặt chẽ hơn với đồng thời 2 điều kiện cho
sự giới hạn đối với quyền được suy đoán vô
8 Đoạn 1 Điều 72 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa
có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.”
9 Trước đó, Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.” Điều luật này được quy định với tên là: “Không
ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” mà chưa khẳng định rõ là
“Suy đoán vô tội” (một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS) như quy định tại Điều 13 Bộ luật TTHS
năm 2015.
tội. Đó là: (1) đến khi được chứng minh theo
trình tự luật định và (2) đến khi có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Các
Hiến pháp năm 1980, 1959, 1946 chưa ghi
nhận quyền được suy đoán vô tội.
- Quyền sở hữu tài sản: Trường hợp
thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp,
phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua
hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của
tổ chức, cá nhân theo giá thị trường (khoản
3 Điều 32) - đó là quan điểm giới hạn đối
với quyền này của nhà lập hiến. So với Hiến
pháp năm 1992, quy định của Hiến pháp năm
2013 về quyền sở hữu tài sản, quyền sở hữu
tư nhân là sự kế thừa và phát triển. Bên cạnh
quyền thừa kế tài sản, quyền sở hữu tư nhân
được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, chủ thể
của quyền được mở rộng thành “mọi người”
đồng thời cách thức giới hạn quyền này cũng
đã thay đổi. Trong Hiến pháp năm 1992, tư
tưởng giới hạn quyền này nằm ở chương chế
độ kinh tế (Điều 23), không phải là giới hạn
quyền được xác định đồng thời với việc ghi
nhận quyền (Điều 58). Để khẳng định tài sản
thuộc sở hữu cá nhân, tổ chức không bị quốc
hữu hoá, Điều 23 Hiến pháp năm 1992 đã
ghi rõ: “Trong trường hợp thật cần thiết vì
lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc
gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có
bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức
theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua,
trưng dụng do luật định”.
Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng hơn
các lý do của việc trưng mua hoặc trưng
dụng tài sản của cá nhân, tổ chức. Khả năng
bị giới hạn tăng lên đồng nghĩa với phạm vi
quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức bị
thu hẹp hơn so với quy định trong Hiến pháp
năm 1992. Tuy nguyên tắc giới hạn này cũng
phải được nhận thức trong mối liên hệ với
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 13(365) T6/2018
nguyên tắc hạn chế quyền được quy định tại
khoản 2 Điều 14 nhưng về mặt kỹ thuật lập
hiến, chúng tôi cho rằng, Hiến pháp vẫn cần
có sự diễn đạt rõ ràng hơn, ở đây là ghi rõ
việc trưng mua, trưng dụng do luật định như
cách quy định của Hiến pháp năm 1992.
- Quyền tự do kinh doanh: Mọi người
có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm (Điều
33). Quyền này đã được mở rộng về chủ
thể, thành quyền của mọi người (quyền con
người). Giới hạn quyền này có một chuyển
biến mang tính cách mạng so với các quy định
trong Hiến pháp năm 1992. Trừ khoảng cấm
của pháp luật, còn lại là tự do kinh doanh.
Đây là điều kiện cần thiết để xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường, tăng khả
năng thu hút đầu tư, kinh doanh, cạnh tranh
kinh tế ở Việt Nam. So với cách quy định
trong Hiến pháp năm 1992 thì đây là một
bước tiến vượt bậc về ghi nhận quyền tự do
kinh doanh trong Hiến pháp Việt Nam. Tuy
vậy, chúng tôi cho rằng, trong mối liên hệ với
nguyên tắc giới hạn quyền ở khoản 2 Điều 14
thì cách thức quy định về giới hạn quyền tự
do kinh doanh ở Điều 33 vẫn có những hạn
chế. Thứ nhất, việc quy định những ngành
nghề bị cấm kinh doanh phải được thực hiện
bởi luật chứ không phải là pháp luật. Thứ hai,
hiện nay bên cạnh ngành nghề bị cấm kinh
doanh còn có những ngành nghề kinh doanh
có điều kiện và các quy định cụ thể về từng
điều kiện kinh doanh. Đây cũng là một trong
những giới hạn của quyền tự do kinh doanh
nhưng Hiến pháp năm 2013 lại chưa có quy
định gì về điều kiện kinh doanh. Trên thực
tế, danh mục ngành nghề kinh doanh có điều
kiện và các điều kiện kinh doanh đang được
quy định bởi Luật Đầu tư (Phụ lục IV). Riêng
đối với điều kiện kinh doanh, nhìn từ góc độ
xác định giới hạn quyền tự do kinh doanh có
thể được quy định bởi văn bản dưới luật, như
vậy mới bảo đảm được tính hiện thực. Tuy
thế, trong luật phải chỉ rõ thẩm quyền và hình
thức văn bản quy phạm pháp luật được phép
quy định điều kiện kinh doanh (chẳng hạn
nghị định của Chính phủ) và phải thống nhất
với các lý do giới hạn quyền như nguyên tắc đã
được quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp
năm 2013.
3. Nhận xét và kiến nghị về nguyên tắc giới
hạn quyền trong Hiến pháp
3.1 Nhận xét về nguyên tắc giới
hạn quyền
Nghiên cứu sự thể hiện nguyên tắc giới
hạn quyền qua 5 bản Hiến pháp Việt Nam,
có thể rút ra được một số điểm có tính khái
quát sau:
Một là: Nhìn chung, tư tưởng giới hạn
quyền được thể hiện phù hợp với yêu cầu
lập hiến ở mỗi giai đoạn phát triển của đất
nước và ngày càng hoàn thiện, tiến bộ hơn
trong quá trình phát triển chung của nền
lập hiến Việt Nam. Sự giới hạn quyền ngày
càng hướng đến mục tiêu bảo vệ các quyền
một cách tốt hơn, theo bản chất của quyền
đồng thời cũng bảo đảm cho tính hiện thực
của quyền.
Hai là: Tuy đến Hiến pháp năm 2013
mới có một quy định xác định nguyên tắc
chung về giới hạn quyền cho chế định quyền
cơ bản trong Hiến pháp nhưng ở các bản Hiến
pháp trước đây, tư tưởng về giới hạn quyền
vẫn được xác lập tương ứng với mỗi quyền
cụ thể được ghi nhận.
Ba là: Cho dù đã xác lập nguyên tắc
chung về giới hạn quyền nhưng Hiến pháp
vẫn cần phải có giới hạn riêng đối với mỗi
quyền cụ thể (nếu cần thiết và có thể). Bên
cạnh đó, nguyên tắc giới hạn quyền cũng cần
có sự hỗ trợ của những nguyên tắc chung
khác của chế định trong một thể thống nhất.
Bốn là: Giới hạn quyền không chỉ được
thể hiện ở việc vạch định phạm vi nội dung
quyền mà còn được thể hiện ở cách thức ghi
nhận quyền (kỹ thuật lập hiến). Theo đó, giới
hạn quyền thường được thể hiện ở sự ghi
nhận, xác định phạm vi chủ thể có quyền,
chủ thể có nghĩa vụ hoặc ở cách thức xác
định phạm vi các hình thức pháp lý ghi nhận
quyền hay cụ thể hoá việc thực hiện quyền
(văn bản luật hay pháp luật).
Năm là: Hiến pháp Việt Nam khi xác
định giới hạn quyền vẫn chưa thể hiện rõ ràng
về quyền tuyệt đối (không được giới hạn) và
quyền có thể bị giới hạn; chưa phân biệt giới
hạn quyền với tạm đình chỉ việc thực hiện
quyền (trong một số trường hợp).
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 13(365) T6/2018
3.2 Kiến nghị về nguyên tắc giới
hạn quyền
Thứ nhất, cần hoàn thiện nguyên tắc
giới hạn quyền đồng thời trên hai khía cạnh:
giới hạn bởi nguyên tắc chung và giới hạn
cụ thể trong sự ghi nhận đối với mỗi quyền
(cần thiết). Nguyên tắc chung cần được thể
hiện theo hướng thiết lập hệ tiêu chí giới hạn
quyền có tính bao trùm cho tất cả mọi trường
hợp cần thiết phải giới hạn hoặc tạm đình chỉ
thực hiện quyền. Trên tinh thần bảo đảm tính
chất tương xứng(10), hệ tiêu chí ở nguyên tắc
chung phải hội đủ 3 tiêu chí thống nhất: (1)
giới hạn bởi luật hoặc văn bản dưới luật và
(2) trong trường hợp thật sự cần thiết và (3)
vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khoẻ cộng
đồng. Nguyên tắc chung này là một bộ phận
không thể tách rời trong các nguyên tắc của
chế định quyền cơ bản trong Hiến pháp. Bên
cạnh nguyên tắc chung, đối với mỗi quyền
được ghi nhận trong Hiến pháp phải thể hiện
rõ có thể bị giới hạn bởi luật hay bởi văn bản
dưới luật. Đồng thời, Hiến pháp cũng phải
phân biệt quyền có thể bị giới hạn với quyền
10 Xem thêm:
- Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc
tế và pháp luật Việt Nam (sđd).
- Bùi Tiến Đạt, Hiến pháp hoá nguyên tắc giới hạn quyền con người: cần nhưng chưa đủ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
số 6/2015, tr.3.
- Bùi Tiến Đạt, Nguyên tắc giới hạn quyền con người: Ý nghĩa, nhu cầu giải thích và định hướng áp dụng, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, kỳ 1 tháng 10/2017, tr.13.
11 Xem: Trương Hồng Quang, Nhu cầu giải thích quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp
năm 2013, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2018, tr.3.
có thể bị tạm đình chỉ thực hiện trong những
trường hợp cần thiết và vì lý do đã nêu trong
nguyên tắc chung.
Thứ hai, Nguyên tắc giới hạn quyền
trong Hiến pháp dù sao cũng luôn ở tầm khái
quát, mang tính trừu tượng cao(11) nên rất cần
được luật và các văn bản dưới luật quy định
chi tiết, thống nhất.
Thứ ba, việc xây dựng, hoàn thiện cơ
chế bảo hiến ở Việt Nam nên chú trọng giải
pháp bảo vệ Hiến pháp, giám sát tuân thủ Hiến
pháp bằng cơ chế tư pháp. Theo đó, cần trao
cho cơ quan tư pháp (Toà án) thẩm quyền giải
thích pháp luật (trong đó có Hiến pháp). Tính
khái quát, trừu tượng của Hiến pháp không
chỉ được giải quyết bởi lập pháp mà còn phải
thông qua cả hoạt động xét xử các tranh chấp,
giải quyết các vụ việc cụ thể, thông qua giải
thích pháp luật của Toà án.
Thứ tư, các giải pháp lập hiến, lập pháp,
áp dụng Hiến pháp và pháp luật về nguyên tắc
giới hạn quyền đều phải được xây dựng, triển
khai trên tinh thần phù hợp với luật nhân quyền
quốc tế cũng như xu hướng chung của nền lập
hiến tiên tiến ở các nước trên thế giới..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Tiến Đạt, Hiến pháp hoá nguyên tắc giới hạn quyền con người: Cần nhưng chưa đủ, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp số 6/2015, tr.3.
2. Bùi Tiến Đạt, Nguyên tắc giới hạn quyền con người: Ý nghĩa, nhu cầu giải thích và định hướng áp dụng, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp, kỳ 1 tháng 10/2017, tr.13.
3. Bùi Tiến Đạt, Nhận diện các mô thức giới hạn quyền con người trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 2, kỳ 2 tháng 01/2018, tr.3.
4. Phạm Hữu Nghị, Vấn đề hạn chế quyền con người theo pháp luật quốc tế, Hiến pháp một số nước và Hiến pháp
Việt Nam năm 2013, Tạp chí Pháp luật về quyền con người, số 1/2018, tr.40.
5. Lưu Đức Quang, Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người quyền công dân (sách tham khảo), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2016.
6. Trương Hồng Quang, Nhu cầu giải thích quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp
năm 2013, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2018, tr.3.
7. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn chính đáng đối với quyền con người, quyền công dân trong pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2015.
8. Viện Nghiên cứu Lập pháp, Quy định về hạn chế quyền con người, quyền công dân – Thực trạng và giải pháp,
Đề tài khoa học cấp bộ năm 2016 – 2017.
9. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt; Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2002.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 13(365) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_tac_gioi_han_quyen_trong_cac_ban_hien_phap_viet_nam.pdf