Một số nhận xét:
Một là, bắt đầu từ Hiến pháp năm
2013, các khái niệm quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp đi liền với nó là
sử dụng các thuật ngữ cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp để chỉ các
cơ quan trong bộ máy nhà nước được chính
thức sử dụng rộng rãi. Đây là điểm mới đáng
ghi nhận của Hiến pháp năm 2013 so với
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, vì Hiến pháp
năm 1992 không khẳng định cơ quan nào là
cơ quan hành pháp, cơ quan nào là cơ quan
tư pháp. Không chỉ phân định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan với
nhau mà Hiến pháp mới cũng có những quy
định nhằm phân biệt trách nhiệm giữa các
cơ quan này với những con người hoạt động
trong cơ quan đó (phân biệt trách nhiệm tập
thể và trách nhiệm cá nhân), đặc biệt là trong
hoạt động của cơ quan hành pháp. Hiến pháp
xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính
phủ, cá nhân Thủ tướng Chính phủ và các
thành viên của Chính phủ trong hoạt động
quản lý.
Hai là, Hiến pháp năm 2013 bổ sung
thêm một nội dung mới về tổ chức quyền
lực nhà nước ở nước ta. Đó là quyền lực nhà
nước là thống nhất, không chỉ được phân
công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Đây là nguyên tắc chi phối
đến mối quan hệ giữa các cơ quan trong khi
thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp
và tư pháp cũng như tương quan quyền lực
giữa chúng với nhau. Đây là một bước tiến
lớn trong tư duy của các nhà lập hiến, bởi
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi không đặt ra
vấn đề kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh
quyền lực.
Ba là, Hiến pháp năm 2013 có nhiều
quy định mới, tiến bộ nhằm phát huy bản
tính thận trọng của Quốc hội, tôn trọng
pháp quyền và phát huy sự độc lập, chủ
động, kiến tạo mạnh mẽ và dám chịu trách
nhiệm của Chính phủ - cơ quan thực hiện
quyền hành pháp. Quốc hội đã không còn
là cơ quan có toàn quyền như trong cơ chế
tập quyền mà chỉ là cơ quan nắm giữ một
loại quyền lực trong cơ cấu quyền lực. Hiến
pháp năm 2013 đã đặt tính hành chính cao
nhất của Chính phủ lên trước tính chấp hành
và chính thức quy định Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp. Hiến pháp năm 2013 quy
định cho Chính phủ vị trí như thế là vì Chính
phủ trực tiếp nhận quyền hành pháp từ nhân
dân, chính nhân dân phân công Chính phủ
thực hiện quyền hành pháp chứ không phải
là Quốc hội như nhận thức trong cơ chế tập
quyền XHCN trước đây.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp qua các bản hiến pháp Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYÊN TẮC PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP VÀ KIỂM SOÁT GIỮA
CƠ QUAN LẬP PHÁP VÀ CƠ QUAN HÀNH PHÁP QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
Tóm tắt:
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền
lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà
quyền lực được Nhân dân ủy quyền và giao quyền. Vì thế, tất yếu
nảy sinh đòi hỏi tự nhiên và chính đáng là phải kiểm soát quyền
lực nhà nước. Quyền lực nhà nước thường được lượng hóa bằng
các quy định của Hiến pháp để phân định nhiệm vụ quyền hạn của
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc ghi nhận và phát
triển nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa cơ quan
lập pháp và cơ quan hành pháp qua các bản Hiến pháp gắn với đặc
điểm bối cảnh lịch sử của đất nước trong từng giai đoạn tương ứng.
Trần Ngọc Đường*
* GS. TS. Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội.
Abstract
In regime of democracy and the socialist rule of law, state power is
not the its self power, but the power is empowered and authorised
by the People. Therefore, it is inevitably required to control the state
power. The state power is often documented by the provisions in
the Constitution to define the mandates and rights of the legislative
power, the executive power and the judicial power. The recognition
and development of the principle of allocation, coordination and
controlling of powers between the legislation branch and the
executive one through the Constitutions are associated with the
historical contexts of the nation in each particular stage.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: cơ quan lập pháp, cơ quan
hành pháp, kiểm soát quyền lực, Hiến
pháp Việt Nam
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 28/05/2019
Biên tập : 10/06/2019
Duyệt bài : 19/06/2019
Article Infomation:
Keywords: Legislation entity;
execution entity; power controlling; the
Constitution of Vietnam
Article History:
Received : 28 May 2019
Edited : 10 Jun 2019
Approved : 19 Jun 2019
1. Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp tại
Hiến pháp năm 1946
Theo quy định của Hiến pháp năm
1946, Nghị viện nhân dân là cơ quan có
quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Chính phủ là cơ quan hành chính
cao nhất của toàn quốc. Cơ quan tư pháp gồm
tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa
án đệ nhị cấp và sơ cấp; thẩm phán do Chính
phủ bổ nhiệm. Các nhà lập hiến năm 1946
đã nhận thấy rằng, hành pháp là một trong
những nhánh quyền lực quan trọng và có
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 11(387) T6/2019
mối quan hệ mật thiết với hai nhánh quyền
lực còn lại. Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ông
Vũ Đình Hòe đã viết: “Toàn bộ quyền lực về
nguyên tắc phải tập trung vào tay cơ quan
đại diện tối cao Nghị viện nhân dân, nhưng
cơ cấu then chốt để thực hiện là Chính phủ
với cả bộ máy hành chính và chuyên môn”.
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5 năm - dài
hơn so với nhiệm kỳ 3 năm của Nghị viện.
Thủ tướng là người đứng đầu, điều hành Nội
các và chịu trách nhiệm trước Nghị viện về
đường lối chính trị của Nội các.
Hiến pháp năm 1946 cho thấy hai vấn
đề cốt lõi: một là, Hiến pháp đảm bảo tính
độc lập của quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp; hai là, khẳng định có tính nguyên tắc
rằng Nghị viện, Chính phủ và Tòa án nhân
dân đều là những cơ quan cao nhất có quyền
lực nhà nước, mỗi cơ quan nắm một bộ phận
quyền lực nhà nước. Những quy định này
thể hiện sự phân công lao động quyền lực
giữa các cơ quan cao nhất của quyền lực nhà
nước khá rạch ròi, thể hiện quyền lực nhân
dân là tối cao, quyền lực nhà nước phái sinh
từ quyền lực nhân dân.
Giữa lập pháp và hành pháp có sự phối
hợp để cùng thực hiện các chức năng của
Nhà nước. Biểu hiện của nó là cơ quan lập
pháp có quyền thành lập và giám sát hoạt
động của cơ quan hành pháp; hành pháp
có quyền trình dự án luật để lập pháp biểu
quyết thông qua; có sự chung nhân viên vì
thành viên của Chính phủ phải là thành viên
của Nghị viện.
Về kiểm soát giữa lập pháp với hành
pháp, lập pháp kiểm soát hành pháp thể hiện
ở chỗ: tham gia thành lập cơ quan hành pháp
qua việc bầu Chủ tịch nước, phê chuẩn sự lựa
chọn Thủ tướng của Chủ tịch nước và sự lựa
chọn Bộ trưởng của Thủ tướng; biểu quyết
các dự luật, sắc luật và ngân sách do Chính
phủ đệ trình; chuẩn y các hiệp ước mà Chính
phủ ký với nước ngoài. Nghị viện có quyền
kiểm soát, phê bình Chính phủ; chất vấn các
thành viên của Chính phủ; quyết định thành
lập tòa án đặc biệt để truy tố và xét xử Chủ
tịch nước, Phó Chủ tịch nước hay một nhân
viên Nội các khi phạm tội phản quốc; lật đổ
Chính phủ qua việc biểu quyết vấn đề tín
nhiệm Thủ tướng và Nội các. Hành pháp
kiểm soát lại lập pháp thể hiện ở chỗ: Chủ
tịch nước có quyền ban hành sắc lệnh có giá
trị gần như luật; yêu cầu Nghị viện thảo luận
lại dự luật mà Nghị viện đã thông qua; đưa
vấn đề tín nhiệm Nội các ra Nghị viện thảo
luận lại trong thời hạn 24 giờ Chủ tịch
nước không phải chịu một trách nhiệm nào
trước Nghị viện trừ tội phản quốc. Chính
phủ có quyền bắt giam các Nghị viên khi họ
phạm tội quả tang nhưng phải thông báo cho
Ban thường vụ chậm nhất là sau 24 giờ.
Một số nhận xét:
Một là, mối quan hệ giữa lập pháp và
hành pháp trong Hiến pháp năm 1946 được
hình thành trên cơ sở cần phải có một Chính
phủ mạnh để đối phó với một Nghị viện
đa đảng và để giải quyết có hiệu quả nhiều
vấn đề phức tạp của đất nước. Đánh giá về
Chính phủ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Chính phủ này là một Chính phủ chú trọng
thực tế và sẽ nỗ lực làm việc, để tranh thủ
quyền độc lập và thống nhất lãnh thổ cùng
xây dựng một Nhà nước Việt Nam mới”.
Hai là, mối quan hệ giữa lập pháp và
hành pháp trong Hiến pháp năm 1946 được
xây dựng trên cơ sở áp dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của học thuyết phân quyền
vào hoàn cảnh thực tế ở nước ta lúc bấy giờ,
để hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực
giữa lập pháp và hành pháp và tạo ra chế
độ hành pháp lưỡng đầu - cả Chủ tịch nước
và Thủ tướng cùng nắm hành pháp, chia sẻ
quyền hành pháp. Bản chất của phân quyền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 11(387) T6/2019
không có gì khác hơn chính là sự phân công,
phối hợp để tiến tới sự kiểm soát; dùng quyền
lực để kiểm soát quyền lực; nhằm mục đích
không để quyền lực đi đến chỗ lạm quyền.
Ba là, Hiến pháp năm 1946 không chỉ
phân công rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của các cơ quan mà còn đặt ra vấn
đề kiểm soát quyền lực giữa lập pháp và hành
pháp. Tuy có sự kiềm chế nhưng không đối
trọng quyết liệt mà khá ôn hòa. Cụ thể là: Nội
các có thể bị Nghị viện bất tín nhiệm tập thể
hoặc cá nhân nhưng không có chiều ngược
lại. Nghĩa là, Chính phủ không có quyền giải
tán Nghị viện. Nghị viện chỉ bị giải tán khi
chính Nghị viện tuyên bố tự giải tán. Quy
định này bảo đảm tính thống nhất của quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Trong vấn
đề bất tín nhiệm Nội các, Chủ tịch nước có
quyền yêu cầu xem xét lại, tuy nhiên, nếu
Nghị viện vẫn tiếp tục biểu quyết với tỷ lệ
như ban đầu thì Nội các đương nhiên phải
bị lật đổ. Chủ tịch nước có quyền phủ quyết
nhưng không tuyệt đối vì chỉ cần ½ Nghị
viên thông qua thì dự luật phải được công bố.
Như vậy, trong mọi trường hợp, dù Chủ tịch
nước có quyền kiềm chế các quyết định của
Nghị viện nhưng quyết định cuối cùng vẫn
thuộc về Nghị viện.
Bốn là, thông qua cơ chế phân quyền,
Hiến pháp năm 1946 đã thể hiện đúng bản
chất của cơ quan lập pháp và hành pháp.
Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền
quyết định những vấn đề liên quan đến vận
mệnh quốc gia và ban hành các đạo luật có
ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội.
Chế định Nghị viện nhân dân thể hiện hình
thức dân chủ mới của chính thể cộng hòa
lần đầu tiên được thiết lập ở một đất nước
phong kiến nửa thuộc địa. Bản chất, tổ chức
và phương thức hoạt động của Nghị viện là
1 Nguyễn Đăng Dung (1997), Luật Hiến pháp nước ngoài, tr. 68.
phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam
sau Tổng tuyển cử 1946, với sự tham gia của
nhiều lực lượng chính trị trong một cơ chế
dân chủ nhân dân.
Chính phủ theo Hiến pháp năm 1946
là một Chính phủ mạnh và dám chịu trách
nhiệm, độc lập trước Nghị viện và có khả
năng quay trở lại kiềm chế Nghị viện. Chủ
tịch nước vừa đứng đầu Nhà nước, vừa trực
tiếp chỉ đạo các hoạt động của Chính phủ.
Chức năng nguyên thủ quốc gia nhập lại với
chức năng hành pháp và Chủ tịch nước thực
sự nắm quyền hành pháp. Chính phủ thực
sự là cơ quan hành chính cao nhất của toàn
quốc. Giống với một số nước khác, trong
mỗi sắc lệnh của Chính phủ, bên cạnh chữ
ký của Chủ tịch nước phải có chữ ký phó thự
của một bộ trưởng và chính người trực tiếp
ký ấy mới phải chịu trách nhiệm trước Nghị
viện về hậu quả pháp lý của văn bản đó1.
Chính phủ phải từ chức nếu bị Nghị viện
bỏ phiếu bất tín nhiệm. Đây là trách nhiệm
chính trị chứ không phải là trách nhiệm pháp
lý thông thường. Chính những quy định về
chế độ trách nhiệm này là cơ sở tạo nên một
Chính phủ mạnh, bản lĩnh và quyết đoán.
2. Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp tại
Hiến pháp năm 1959
Theo quy định của Hiến pháp năm
1959, quyền hạn của Quốc hội đã được thể
chế một cách cụ thể hơn và quyền lực của
Quốc hội được tăng cường hơn nhiều so với
Nghị viện nhân dân trong Hiến pháp năm
1946: quyền lập hiến và lập pháp đều thuộc
về Quốc hội, phạm vi quyền lập pháp cũng
được mở rộng hơn; Quốc hội có quyền giám
sát việc thi hành Hiến pháp, làm luật, quyết
định chiến tranh và hòa bình, đại xá Khi
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 11(387) T6/2019
xảy ra chiến tranh hoặc các trường hợp bất
thường khác, Quốc hội có thể quyết định
kéo dài nhiệm kỳ của mình và có những
biện pháp cần thiết để đảm bảo hoạt động
của Quốc hội và của đại biểu Quốc hội.
Nguyên thủ quốc gia bị tách ra khỏi
hành pháp. Chủ tịch nước không có quyền
phủ quyết mà chỉ có quyền công bố luật về
mặt hình thức. Quyền hạn của Chủ tịch nước
bị thu hẹp rất nhiều, chỉ còn đại diện cho Nhà
nước, không còn điều hành hoạt động của
Chính phủ. Hoạt động của Chủ tịch nước chủ
yếu nghiêng về chức năng hành pháp tượng
trưng cho sự bền vững, thống nhất của dân
tộc. Vai trò quan trọng nhất của nguyên thủ
quốc gia lúc bấy giờ là phối hợp ba nhánh
quyền lực trong khi với Hiến pháp năm 1946
thì Chủ tịch nước không những nắm một
nhánh quyền lực, phối hợp các nhánh quyền
lực mà còn có quyền kiểm soát hoạt động của
các nhánh quyền lực.
Hội đồng Chính phủ được quy định là
cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của Việt Nam dân chủ
cộng hòa (Điều 71). Với tư cách là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, tính hành chính
của Hội đồng Chính phủ mờ nhạt hơn so với
Hiến pháp năm 1946. Hội đồng Chính phủ
có sự thay đổi rất lớn về mặt tổ chức, chức
năng và quyền hạn bị thu hẹp lại. Trong mối
quan hệ với lập pháp thì Hội đồng Chính
phủ trở thành một thiết chế yếu hơn hẳn.
Hiến pháp năm 1959 không đặt vấn đề
hành pháp kiểm soát lập pháp. Vị trí, vai trò
của Quốc hội được đề cao. Quốc hội thực
sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Không một cơ quan hay một chức danh nào
trong bộ máy nhà nước có quyền kiểm soát
2 Trần Ngọc Đường (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và ban hành Hiến pháp, Nxb. Chính trị quốc
gia, H., tr. 56.
hoạt động của Quốc hội. Hiến pháp năm
1959 đặt vấn đề lập pháp kiểm soát hành
pháp thông qua quy định: Hội đồng Chính
phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội (UBTVQH). Các Đại biểu Quốc hội có
quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ. Hội
đồng Chính phủ không bị Quốc hội lật đổ
bằng cơ chế bất tín nhiệm, thay vào đó là
chế định bãi miễn từng thành viên của Chính
phủ vì các nhà lập hiến trong giai đoạn này
cho rằng “giải tán Chính phủ sẽ dẫn đến sự
khủng hoảng chính trị, sự gián đoạn không
thông suốt, bế tắc quyền lực nên không bảo
đảm được sự thống nhất quyền lực”2.
Một số nhận xét:
Một là, mối quan hệ giữa lập pháp và
hành pháp trong Hiến pháp năm 1959 được
xây dựng trên nguyên tắc tập quyền XHCN.
Chỉ Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân mới có đầy đủ quyền lực nhà nước
và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Các cơ quan cấp cao khác của Nhà nước chỉ
là cơ quan hành chính và tư pháp của cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, nên đều trực
tiếp hoặc gián tiếp do Quốc hội lập ra và bãi
miễn, đều nhận được quyền lực từ Quốc hội,
phải báo cáo công tác và chịu trách nhiệm
trước Quốc hội.
Hai là, do sự phân công quyền lực
không rõ ràng nên tính độc lập của Hội đồng
Chính phủ bị hạn chế. Quốc hội được đề cao
và có rất nhiều quyền lực vì Hiến pháp do
chính Quốc hội làm ra. Hội đồng Chính phủ
chỉ là cơ quan hành chính cao nhất của Quốc
hội, bị động và lệ thuộc vào Quốc hội.
Ba là, do tổ chức bộ máy nhà nước theo
mô hình tập quyền, Hiến pháp đã đề cao vai
trò của Quốc hội nên sự kiểm soát giữa lập
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 11(387) T6/2019
pháp và hành pháp mờ nhạt hơn nhiều so với
Hiến pháp năm 1946. Chủ yếu là sự kiểm
soát của Quốc hội với Chính phủ, Chính
phủ không được quyền kiểm soát Quốc hội.
Các đại biểu Quốc hội chỉ bị bắt giam và
truy tố nếu có sự đồng ý của Quốc hội hoặc
UBTVQH khi Quốc hội không họp.
Bốn là, Hiến pháp năm 1959 không thể
hiện được bản chất cần phải có của cơ quan
lập pháp và hành pháp: Quốc hội không thể
hiện được là một thiết chế được kiểm soát
trong việc ban hành các đạo luật do Quốc
hội có toàn quyền trong việc lập hiến, lập
pháp; luật của Quốc hội không được Chủ
tịch nước yêu cầu xem xét lại. Hội đồng
Chính phủ được xác định là cơ quan chấp
hành của Quốc hội và tính hành chính bị lu
mờ. Hội đồng Chính phủ không còn nhiều
nhiệm vụ, quyền hạn như Chính phủ trong
Hiến pháp năm 1946. Cơ chế tín nhiệm
Chính phủ không còn được áp dụng. Vì thế,
Hiến pháp năm 1959 không lột tả được bản
tính quyết đoán và dám chịu trách nhiệm của
Chính phủ.
3. Nguyên tắc phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền hành pháp tại
Hiến pháp năm 1980
Theo quy định của Hiến pháp năm
1980, Quốc hội được quy định là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Quốc hội
bầu ra Hội đồng Bộ trưởng; quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát
tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Không những thế, Quốc hội còn có thể tự
định ra cho mình những nhiệm vụ, quyền
hạn khác khi xét thấy cần thiết. Có thể nói,
Hiến pháp năm 1980 là đỉnh cao của nguyên
tắc tập quyền XHCN, đỉnh cao của sự tập
trung quyền lực nhà nước vào Quốc hội.
Chính điều này làm cho mối quan hệ giữa
lập pháp và hành pháp trong Hiến pháp năm
1980 có sự nhập nhằng, khó phân định.
Quan hệ giữa Hội đồng Bộ trưởng và
Quốc hội là quan hệ một chiều. Hội đồng Bộ
trưởng không được quyền kiểm soát Quốc
hội mà chỉ có Quốc hội được quyền kiểm
soát Hội đồng Bộ trưởng vì nguyên tắc tập
quyền đã phủ nhận sự ngang quyền và kiềm
chế đối trọng lẫn nhau giữa lập pháp và
hành pháp.
Hiến pháp năm 1980 chỉ đặt vấn đề
lập pháp kiểm soát hành pháp thông qua các
hình thức: Hội đồng Bộ trưởng phải chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc
hội, Hội đồng Nhà nước. Đại biểu Quốc
hội chất vấn và yêu cầu thành viên của Hội
đồng Bộ trưởng phải trình bày hoặc cung
cấp tài liệu về các vấn đề cần thiết. Quốc
hội có quyền bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ
tịch và các thành viên khác của Hội đồng
Bộ trưởng... Trong quan hệ với Quốc hội,
Hội đồng Bộ trưởng chỉ có quyền ban hành
các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành
các văn bản của Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước; quyền trình dự án luật, dự án pháp
lệnh và các dự án khác, lập dự án kế hoạch
nhà nước và dự toán ngân sách nhà nước...
Hội đồng Bộ trưởng không thể kiểm soát và
đối trọng với Quốc hội. Bên cạnh đó, Hiến
pháp năm 1980 áp dụng cơ chế bãi nhiệm
như Hiến pháp năm 1959. Mọi quyết định
của Hội đồng Bộ trưởng đều được bàn bạc
tập thể và quyết định theo đa số, vai trò của
cá nhân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và các
Bộ trưởng rất mờ nhạt, phản ánh tư tưởng
làm chủ tập thể đã in đậm trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Hội đồng
Bộ trưởng bị trói buộc vào Quốc hội và tính
hành chính của Hội đồng Bộ trưởng khá
mờ nhạt.
Một số nhận xét:
Một là, do chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 11(387) T6/2019
của Hiến pháp XHCN, nên về phương diện
tổ chức bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm
1980 là đỉnh cao của sự tập trung quyền lực
nhà nước trong tay Quốc hội. Trong mối
quan hệ với các cơ quan nhà nước ở trung
ương, Quốc hội có ưu thế gần như tuyệt đối,
chỉ có Quốc hội mới có quyền giám sát và
phê bình hoạt động của các cơ quan khác mà
không có chiều ngược lại. Tư tưởng phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa
lập pháp và hành pháp là mờ nhạt nhất so
với hai bản Hiến pháp trước. Sự kém độc
lập giữa các chức năng dẫn đến sự vận hành
thiếu hiệu quả của bộ máy nhà nước và hiện
tượng không quy kết được trách nhiệm cho
các cơ quan, hoặc sự khó khăn trong việc
phối hợp công việc giữa các cơ quan nhà
nước. Có thể nói, với bản Hiến pháp này, tư
tưởng phân quyền và hạt nhân hợp lý của nó
hầu như bị phủ nhận hoàn toàn.
Hai là, mối quan hệ giữa lập pháp và
hành pháp trong Hiến pháp năm 1980 khó
phân định; có sự chồng chéo trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan. Quốc hội bao biện, ôm đồm,
can thiệp vào công việc quản lý của Hội
đồng Bộ trưởng. Mối tương quan giữa lập
pháp và hành pháp nghiêng hẳn về phía
Quốc hội. Hành pháp chỉ được quan niệm là
một bộ phận hoạt động dưới sự chỉ đạo của
cơ quan lập pháp. Hành pháp hầu như không
có khả năng kiểm soát nào với lập pháp. Các
phương thức mà Hiến pháp năm 1980 trang
bị cho Quốc hội giám sát tối cao Hội đồng
Bộ trưởng thì khá chung chung, không rõ
ràng và không mang tính khả thi.
Ba là, Hiến pháp năm 1980 cũng
không lột tả được bản chất cần phải có của
các thiết chế nhà nước khác nhau. Với một
mô hình Quốc hội có toàn quyền thì không
một chủ thể nào có quyền đề nghị Quốc hội
xem xét lại các quyết định của mình. Hội
đồng Bộ trưởng không còn toàn quyền ngay
cả trong lĩnh vực quản lý nhà nước. Vì thế,
nó cũng không thể là một cơ quan hành pháp
mạnh mẽ và quyết đoán. Hơn nữa, với tinh
thần làm chủ tập thể, vai trò của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng hoàn toàn mờ nhạt.
Hiến pháp năm 1980 không quy định quyền
hạn cụ thể của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Vì vậy, chức danh này không được xem là
một thiết chế quyền lực có tính độc lập như
người đứng đầu Chính phủ trong Hiến pháp
năm 1946. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
được xem như một vị trí đứng đầu của Hội
đồng, lãnh đạo điều phối hoạt động của Hội
đồng và quyền hạn cũng trong phạm vi của
Hội đồng. Hiến pháp năm 1980 cũng không
có cơ chế tín nhiệm Chính phủ, do đó không
thể phát huy tinh thần trách nhiệm của các
thành viên Hội đồng Bộ trưởng, cũng như
tạo điều kiện cho Quốc hội chủ động hơn
trong việc xử lý các thành viên của Hội đồng
Bộ trưởng.
4. Nguyên tắc phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp tại Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001)
Về sự phân công giữa lập pháp và
hành pháp, Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi
quy định quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với quy
định này, lần đầu tiên tên gọi của ba loại
quyền lực nhà nước theo tư tưởng phân
quyền được hiến định; từ đó thừa nhận sự
tồn tại của ba quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp trong Nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 có sự phân công,
phân nhiệm giữa Quốc hội - lập pháp và
Chính phủ - hành pháp rõ ràng hơn nhiều so
với Hiến pháp năm 1980. Cụ thể: quyền lập
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 11(387) T6/2019
pháp thuộc về Quốc hội, cơ quan đại diện cao
nhất của nhân dân và cũng là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất. Chính phủ được quy
định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ
quan hành chính cao nhất của đất nước, nên
Chính phủ không còn được coi là một bộ
phận của Quốc hội. Chính phủ mặc dù vẫn là
cơ quan phái sinh của Quốc hội nhưng Quốc
hội không ôm đồm, làm thay công việc quản
lý của Chính phủ. Việc quy định Chính phủ là
cơ quan hành chính cao nhất có ý nghĩa quan
trọng nhằm khẳng định tính độc lập tương
đối của Chính phủ. Chức năng của Chính phủ
là quản lý nhà nước. Công việc này phát sinh
hàng ngày hàng giờ nên cần những quyết định
nhanh chóng, kịp thời, mang tính thời sự, cần
có sự tập trung và thống nhất trong quá trình
quản lý. Hiến pháp năm 1992 đã nhận thức
rằng, việc trói chân một con ngựa sẽ hoàn
toàn khác so với việc đóng yên cương cho nó
và đã dần thay thế cơ chế trói chân Hội đồng
Bộ trưởng trong Hiến pháp năm 1980 bằng
cơ chế đóng yên cương cho Chính phủ.
Về sự phối hợp giữa lập pháp và hành
pháp: Chính phủ phải chấp hành Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của UBTVQH. Chính phủ trực
tiếp hoặc chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để
cụ thể hóa và hướng dẫn việc thực hiện Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của UBTVQHHoạt động
của Chính phủ cũng tác động trở lại với Quốc
hội như: Chính phủ có quyền trình dự án luật,
pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội,
UBTVQH; Thủ tướng Chính phủ có quyền
tham dự các kỳ họp của Quốc hội Hiến
pháp năm 1992 không quy định Quốc hội có
quyền tự định cho mình hoặc giao thêm cho
các cơ quan khác những nhiệm vụ, quyền
hạn ngoài Hiến pháp. Hiến pháp cũng ngăn
ngừa sự lạm quyền của UBTVQH bằng quy
định UBTVQH chỉ được quyền ban hành các
pháp lệnh nằm trong chương trình xây dựng
luật và pháp lệnh do Quốc hội quyết định.
Về sự kiểm soát giữa lập pháp và
hành pháp: Hiến pháp năm 1992 quy định
lập pháp kiểm soát hành pháp thông qua
các hình thức: Chính phủ phải báo cáo công
tác và chịu trách nhiệm trước Quốc hội; đại
biểu Quốc hội có quyền chất vấn Thủ tướng
Chính phủ và các thành viên khác của Chính
phủ; Quốc hội có quyền bãi nhiệm, miễn
nhiệm Thủ tướng Chính phủ; phê chuẩn
việc miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng,
bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ; đình chỉ thực hiện, bãi bỏ văn bản pháp
luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
nếu các văn bản đó trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội... Từ năm 2001,
Quốc hội được bỏ phiếu tín nhiệm đối với
các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê
chuẩn, trong đó có người đứng đầu và các
thành viên khác của Chính phủ. Người bị
Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm mà không
vượt quá (không đạt trên 50% số phiếu tín
nhiệm) sẽ bị đưa ra miễn nhiệm, bãi nhiệm
hoặc cách chức theo quy định. Với quy định
này, Quốc hội chủ động hơn trong việc xử
lý các thành viên của Chính phủ khi hoạt
động của họ không đáp ứng yêu cầu và từ đó
tăng cường trách nhiệm của các thành viên
Chính phủ.
Hiến pháp năm 1992 không đặt vấn đề
hành pháp kiểm soát lập pháp. Chính phủ
không có quyền phủ quyết các dự luật của
Quốc hội, không có quyền đề nghị xem xét
lại các quyết định của Quốc hội. Do vẫn còn
chịu ảnh hưởng của nguyên tắc tập quyền
nên Hiến pháp năm 1992 quy định về kiểm
soát quyền lực nhà nước đặc biệt là kiểm
soát các hoạt động của Quốc hội rất hạn chế.
Một số nhận xét:
Một là, cơ chế phân công nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 11(387) T6/2019
trong Hiến pháp năm 1992 đã được thể hiện
tương đối rõ nét. Quốc hội thực hiện chức
năng của cơ quan lập pháp; hành pháp - ở
mức độ nhất định - đã thuộc về Chính phủ.
Tuy nhiên, tính đến thời điểm trước khi
Hiến pháp năm 2013 ra đời thì quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp không được trao
một cách độc lập và bình đẳng cho cả ba cơ
quan khác nhau; chỉ có Quốc hội là duy nhất
được nắm quyền lập pháp, các quyền hành
pháp và tư pháp đều được thực hiện với sự
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước. Sự
phân công thực hiện quyền lực cũng không
được thực hiện một cách triệt để. Hiến pháp
không thể hiện rõ cơ quan nào là cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và cơ quan nào
thực hiện quyền tư pháp, vậy nên có sự nhập
nhằng giữa các cơ quan khi thực hiện quyền
lực của mình.
Hai là, với việc vận dụng những hạt
nhân hợp lý của học thuyết phân quyền để
xác lập mối quan hệ giữa lập pháp và hành
pháp theo cơ chế phân công và phối hợp
quyền lực, Hiến pháp năm 1992 đã có những
quy định nhằm thể hiện tính độc lập, dám
chịu trách nhiệm của Chính phủ. Bên cạnh
việc khẳng định Chính phủ là cơ quan hành
chính cao nhất của cả nước (chứ không phải
của Quốc hội), Hiến pháp đã có sự phân định
thẩm quyền giữa Chính phủ và người đứng
đầu Chính phủ là cá nhân Thủ tướng. Việc
quy định rõ ràng quyền hạn của Thủ tướng
Chính phủ trong Hiến pháp đã tạo cho Thủ
tướng một vị trí pháp lý độc lập và có thực
quyền trong cấu trúc quyền lực nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 đề cao trách nhiệm
cá nhân của Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng và các thành viên khác theo hướng
chú trọng về trách nhiệm cá nhân của từng
chức danh chứ không quy định một cách
chung chung về trách nhiệm tập thể như
trước đây.
5. Nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp tại
Hiến pháp năm 2013
Về cơ bản, khuôn khổ quy định của
Hiến pháp năm 1992 về cơ chế thi hành
quyền lực của Chính phủ tiếp tục được Hiến
pháp năm 2013 kế thừa và có bước hoàn
thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền. Tư tưởng xuyên suốt nội
dung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế
thực hiện quyền hành pháp và hành chính
của Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013
là làm rõ hơn và đề cao tính dân chủ pháp
quyền trong tổ chức và hoạt động của Chính
phủ theo hướng minh bạch, theo pháp luật,
được kiểm soát và bảo đảm tính thống nhất,
thông suốt trong thực hiện quyền lực. Bên
cạnh sự điều chỉnh, làm rõ hơn nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của từng thiết
chế Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến
pháp mới đã có một số đổi mới về cơ chế
thực thi quyền lực, phù hợp với tính chất,
vai trò của từng thiết chế này, nâng cao tính
minh bạch, linh hoạt, nhanh nhạy, đề cao
trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm
giải trình, đồng thời bảo đảm gắn kết chặt
chẽ giữa các thiết chế này trong thực hiện
quyền hành pháp và hành chính được giao.
Về sự phân công giữa lập pháp và
hành pháp: về cơ bản, Hiến pháp năm 2013
vẫn quy định Quốc hội có hai tính chất là cơ
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân và là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Tuy
nhiên, so với Điều 83 Hiến pháp năm 1992
thì Điều 69 Hiến pháp năm 2013 có hai điểm
mới cơ bản là có sự phân biệt giữa quyền lập
hiến và quyền lập pháp và không quy định
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp. Việc phân biệt giữa quyền
lập hiến, quyền lập pháp là một trong những
yêu cầu cốt lõi của dân chủ và pháp quyền.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 11(387) T6/2019
Trong nhà nước pháp quyền thì quyền lập
hiến phải thuộc về nhân dân. Nhân dân sử
dụng quyền lập hiến để thiết lập quyền lực
nhà nước, trong đó có quyền lập pháp3. Do
đó, quyền lập hiến phải đặt cao hơn quyền
lập pháp và Hiến pháp phải là văn bản có
hiệu lực pháp lý cao nhất, là công cụ trong
tay của nhân dân để phân công và kiểm soát
quyền lực nhà nước.
Hiến pháp quy định Chính phủ là cơ
quan hành chính nhà nước cao nhất, thực
hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp
hành của Quốc hội. So với Điều 109 Hiến
pháp năm 1992 thì Điều 94 Hiến pháp năm
2013 đã đặt tính hành chính cao nhất của
Chính phủ lên trước tính chấp hành, điều
này cho thấy Chính phủ phải được nhận thức
là cơ quan được lập ra trước hết là để thực
hiện chức năng điều hành, quản lý trên cơ
sở chấp hành đường lối, chủ trương trong
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội
chứ không phải là cơ quan được lập ra chỉ để
phục tùng và báo cáo công tác trước Quốc
hội. Hơn nữa, lần đầu tiên trong lịch sử lập
hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 chính
thức quy định Chính phủ thực hiện quyền
hành pháp. Theo nghĩa hiện đại, thực hiện
quyền hành pháp bao gồm các hoạt động
chủ yếu sau: hoạch định và điều hành chính
sách quốc gia; dự thảo và trình Quốc hội
các dự án luật; ban hành kế hoạch, chính
sách cụ thể, những văn bản dưới luật để
thực thi các chủ trương, chính sách, luật đã
được Quốc hội thông qua; chỉ đạo, hướng
dẫn, điều hành giám sát việc thực hiện các
kế hoạch, chủ trương, chính sách; thiết lập
trật tự hành chính trên cơ sở của luật; phát
hiện, xác minh, xử lý các vi phạm theo thẩm
quyền hoặc chuyển cho Tòa án nhân dân xét
xử theo trình tự, thủ tục tư pháp. Quy định
3 Trần Ngọc Đường (2014), Chế định Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013, Bình luận khoa học Hiến pháp Việt Nam năm
2013, Nxb. Lao động xã hội, H., tr. 309.
mới này thể hiện tư duy phân công rạch ròi
giữa các nhánh quyền lực, Chính phủ nắm
một loại quyền lực thực sự chứ không còn là
phái sinh từ Quốc hội. Chính phủ được độc
lập, chủ động và trách nhiệm hơn trong việc
điều hành, quản lý đất nước. Việc bổ sung
này không những thể hiện bước tiến trong
việc phân biệt các khái niệm hành pháp,
hành chính mà còn khẳng định hành pháp là
một trong ba nhánh quyền lực tương đối độc
lập, phù hợp với quan điểm và nguyên tắc
của tổ chức quyền lực nhà nước có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Về sự phối hợp giữa lập pháp và hành
pháp: Khác với Hiến pháp năm 1980 và
Hiến pháp năm 1992, nơi quy định nhiệm
vụ của Chính phủ về “bảo đảm việc thi hành
Hiến pháp và pháp luật”, Hiến pháp năm
2013 đã quy định “tổ chức thi hành pháp
luật” thành một thẩm quyền có tính độc lập
và đặc trưng của hệ thống hành pháp bao
gồm Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ trưởng và chính quyền địa phương các
cấp. Vai trò của tổ chức thi hành pháp luật
là bảo đảm cho “đầu ra” của sản phẩm lập
pháp; tạo sự gắn kết giữa chức năng làm
luật của Quốc hội với việc đưa pháp luật
vào cuộc sống của quyền hành pháp. Điều
này thể hiện mối quan hệ phân công, phối
hợp giữa hoạt động lập pháp với hoạt động
tổ chức thi hành pháp luật của hai thiết chế
mang quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Một số nhận xét:
Một là, bắt đầu từ Hiến pháp năm
2013, các khái niệm quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp đi liền với nó là
sử dụng các thuật ngữ cơ quan lập pháp, cơ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 11(387) T6/2019
quan hành pháp, cơ quan tư pháp để chỉ các
cơ quan trong bộ máy nhà nước được chính
thức sử dụng rộng rãi. Đây là điểm mới đáng
ghi nhận của Hiến pháp năm 2013 so với
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, vì Hiến pháp
năm 1992 không khẳng định cơ quan nào là
cơ quan hành pháp, cơ quan nào là cơ quan
tư pháp. Không chỉ phân định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan với
nhau mà Hiến pháp mới cũng có những quy
định nhằm phân biệt trách nhiệm giữa các
cơ quan này với những con người hoạt động
trong cơ quan đó (phân biệt trách nhiệm tập
thể và trách nhiệm cá nhân), đặc biệt là trong
hoạt động của cơ quan hành pháp. Hiến pháp
xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính
phủ, cá nhân Thủ tướng Chính phủ và các
thành viên của Chính phủ trong hoạt động
quản lý.
Hai là, Hiến pháp năm 2013 bổ sung
thêm một nội dung mới về tổ chức quyền
lực nhà nước ở nước ta. Đó là quyền lực nhà
nước là thống nhất, không chỉ được phân
công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Đây là nguyên tắc chi phối
đến mối quan hệ giữa các cơ quan trong khi
thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp
và tư pháp cũng như tương quan quyền lực
giữa chúng với nhau. Đây là một bước tiến
lớn trong tư duy của các nhà lập hiến, bởi
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi không đặt ra
vấn đề kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh
quyền lực.
Ba là, Hiến pháp năm 2013 có nhiều
quy định mới, tiến bộ nhằm phát huy bản
tính thận trọng của Quốc hội, tôn trọng
pháp quyền và phát huy sự độc lập, chủ
động, kiến tạo mạnh mẽ và dám chịu trách
nhiệm của Chính phủ - cơ quan thực hiện
quyền hành pháp. Quốc hội đã không còn
là cơ quan có toàn quyền như trong cơ chế
tập quyền mà chỉ là cơ quan nắm giữ một
loại quyền lực trong cơ cấu quyền lực. Hiến
pháp năm 2013 đã đặt tính hành chính cao
nhất của Chính phủ lên trước tính chấp hành
và chính thức quy định Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp. Hiến pháp năm 2013 quy
định cho Chính phủ vị trí như thế là vì Chính
phủ trực tiếp nhận quyền hành pháp từ nhân
dân, chính nhân dân phân công Chính phủ
thực hiện quyền hành pháp chứ không phải
là Quốc hội như nhận thức trong cơ chế tập
quyền XHCN trước đây.
Chế độ làm việc tập thể giúp Chính
phủ dân chủ hơn trong việc đưa ra các
quyết định. Tuy vậy, vai trò của Thủ tướng
- người đứng đầu Chính phủ vẫn được thể
hiện thông qua những nhiệm vụ, quyền
hạn riêng. Cơ chế chịu trách nhiệm của
các thành viên Chính phủ cũng có sự thay
đổi: Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước
Quốc hội về hoạt động của Chính phủ về
những nhiệm vụ được giao; báo cáo công
tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
trước Quốc hội. Quy định này kế thừa Điều
54 Hiến pháp năm 1946 (Thủ tướng chịu
trách nhiệm về con đường chính trị của Nội
các). Ngoài ra, Hiến pháp năm 2013 còn quy
định Thủ tướng sau khi được Quốc hội bầu
phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, với
Nhân dân và Hiến pháp. Phó Thủ tướng còn
phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về
những nhiệm vụ được giao. Các Bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ phải chịu trách
nhiệm cá nhân trước Thủ tướng, Chính phủ
và Quốc hội về ngành và lĩnh vực mà mình
phụ trách. Cũng như Thủ tướng, Bộ trưởng
còn phải báo cáo công tác trước Nhân dân về
những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm
quản lý. Những điểm mới này nhằm phát
huy năng lực cá nhân, quyết đoán và chịu
trách nhiệm của các thành viên Chính phủ,
như vậy mới đảm bảo cho các thành viên
Chính phủ dám nghĩ, dám làm và dám chịu
trách nhiệm
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 11(387) T6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_tac_phan_cong_phoi_hop_va_kiem_soat_giua_co_quan_lap.pdf