Những định hướng xây dựng môi
trường pháp lý kinh doanh đáp ứng các
đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền dân
chủ XHCN
Nhà nước pháp quyền theo Hiến pháp
năm 2013 là Nhà nước pháp quyền dân chủ
XHCN. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là một
định hướng quan trọng bậc nhất cần khẳng
định. Để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
cần phân tách rõ ràng việc vi phạm Điều lệ
và nguyên tắc, quy tắc của Đảng với vi phạm
pháp luật, nhất là đối với các đảng viên giữ
trọng trách trong bộ máy nhà nước. Trong
việc lãnh đạo Nhà nước, Đảng cần tập trung
vào hai vấn đề lớn hiện nay: thứ nhất, bảo
đảm Hiến pháp và pháp luật phải thể chế cho
được Cương lĩnh, đường lối, chính sách của
Đảng; thứ hai, xử lý kịp thời và đầy đủ các
hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan
nhà nước, nhân viên trong bộ máy nhà nước.
Để tạo nền tảng vững chắc cho việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền dân chủ
XHCN, cần (1) nhận thức đúng đắn về
Nhà nước pháp quyền dân chủ XHCN; (2)
không nên xem Nhà nước pháp quyền dân
chủ XHCN là một yếu tố tăng thêm cho
quyền lực của Nhà nước mà phải xem nó
là một phương thức hữu hiệu để kiềm chế
quyền lực nhà nước để bảo vệ cho tự do của
cá nhân con người và cho chính sự trường
tồn của Đảng; (3) xem xét lại mô hình bảo
hiến theo hướng làm cho Hiến pháp thể hiện
sự đồng lòng của dân chúng trong việc xây
dựng cộng đồng chính trị.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhà nước pháp quyền với môi trường pháp lý kinh doanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VỚI MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ KINH DOANH1
1 Bài viết là một phần kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Đồng bộ hóa luật tư trong
bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” do TS. Nguyễn Mạnh Thắng làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Hiện nay, môi trường pháp lý kinh doanh ở Việt Nam đã thể hiện
khá rõ nét và khá toàn diện các thành tố của Nhà nước pháp quyền
dân chủ XHCN và đã phát huy hiệu quả trong việc phát triển kinh
tế, xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những thành công đó, còn nhiều vấn
đề cần tiếp tục giải quyết trong thời gian tới.
TS. Nguyễn Mạnh Thắng*
* Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc
Công ty cổ phần Đầu tư đô thị và Khu công nghiệp Sông Đà 7
Abstract
The legal environment of business in Vietnam is presenting quite
clearly the comprehensive elements of the rule of law of the
Socialist Republic of Vietnam. It has also provided a positive
factor to the effectiveness of economic and social developments.
However, besides the successes, there are still a number of issues
that need to be reviewed and resolved in the near future.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Nhà nước pháp quyền Việt
Nam; môi trường pháp lý kinh doanh
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 15/5/2018
Biên tập : 22/05/2018
Duyệt bài : 31/05/2018
Article Infomation:
Keywords: the rule of law of Vietnam;
legal environment of business
Article History:
Received : 15 May 2018
Edited : 22 May 2018
Approved : 14 May 2018
1. Một số nhận thức chung
Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013
khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.
Điều này khẳng định rằng, nhà nước pháp
quyền có tính chất dân chủ XHCN là một
trong những nguyên tắc cao nhất đối với
toàn bộ sinh hoạt chính trị và pháp lý ở Việt
Nam. Tính chất dân chủ XHCN của Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam được hiểu bởi
khi nói Nhà nước của nhân dân, do nhân
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 11(363) T6/2018
dân, vì nhân dân, thường ngụ ý về một chế
độ dân chủ2.
Bảo vệ tự do của cá nhân con người
là động lực thúc đẩy cho sự ra đời của Nhà
nước pháp quyền với tính cách là một trong
những phương thức quan trọng nhất để chế
ngự quyền lực nhà nước - một thứ quyền lực
bao trùm toàn xã hội, luôn luôn đứng trên và
có khuynh hướng xa rời xã hội, và có khả
năng tác động lớn nhất tới tự do của cá nhân
con người. Vì thế tự do của cá nhân con người
là mục tiêu của Nhà nước pháp quyền. Tuy
nhiên, theo nguyên tắc hiến định nói trên,
tự do của cá nhân con người phải hòa đồng,
gắn bó và dựa trên nền tảng dân chủ XHCN.
Dù luận giải Nhà nước pháp quyền với tính
chất nào đi chăng nữa thì Nhà nước pháp
quyền không thể xa rời được một hạt nhân
lý luận quan trọng là Nhà nước pháp quyền
ràng buộc nhà nước bởi pháp luật, hay nói
cách khác, pháp luật giữ vị trí tối thượng so
với nhà nước trong Nhà nước pháp quyền3.
Vì vậy có quan điểm cho rằng, Nhà nước
pháp quyền đặt nhà nước dưới pháp luật và
xem nhà nước là một cấu trúc pháp lý. Và
với cách thức này, tự do của cá nhân con
người được bảo đảm. Ở đây cũng cho thấy
một cách hiểu khác, nhà nước được xem
bình đẳng với công dân. Quyền lực của nhà
nước có nguồn gốc từ nhân dân và cá nhân
con người có bản chất xã hội không thể tách
biệt từ một cộng đồng chính trị nhất định, do
đó việc khẳng định mối quan hệ giữa Nhà
nước pháp quyền và dân chủ XHCN là đúng
đắn. Dù nhấn mạnh tới mối quan hệ này,
2 Xem Ngô Huy Cương, Nền tảng để xây dựng hoặc sửa đổi Hiến pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8(216) tháng
4/2012, tr. 9.
3 Ngô Huy Cương, Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Tư pháp, 2006, tr. 140 - 141.
4 Barry M. Hager, The Rule of Law – Lexicon for Policy Makers, The Mansfield Center for Pacific Affairs, 1999, pp.
19 – 46.
5 Wolfgang Horn, The Fundamental Characteristics of the Rule of Law as Laid Down in the Basic Law, The Rule of Law,
Edited by Josef Thesing, Konrad - Adenauer - Stiftung, 1997, Germany, pp. 38 - 55.
nhưng Hiến pháp năm 2013 không xa rời
hạt nhân lý luận quan trọng của Nhà nước
pháp quyền. Do đó, bên cạnh sự khẳng định
nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 vẫn ràng
buộc “các tổ chức của Đảng và đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Để bảo đảm nhà nước bị ràng buộc
bởi pháp luật, người ta thường xem xét tới
các thành tố hay các yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền (với tính cách là một học thuyết
chính trị - pháp lý). Chẳng hạn Barry M.
Hager cho rằng, Nhà nước pháp quyền có
chín thành tố cơ bản, bao gồm: chủ nghĩa lập
hiến; pháp luật điều chỉnh chính quyền; tư
pháp độc lập; pháp luật phải được áp dụng
công bằng và thích hợp; pháp luật phải minh
bạch và có thể tiếp cận được đối với tất cả
mọi người; áp dụng pháp luật đầy đủ và
đúng lúc; các quyền tài sản và kinh tế được
bảo hộ (gồm cả hợp đồng); các quyền con
người và các quyền về trí tuệ (human and
intellectual rights) được bảo hộ; pháp luật
có thể thay đổi với quy trình được thiết lập
minh bạch và có thể tiếp cận được bởi mọi
người4. Trong khi đó Wolfgang Horn cho
rằng, Nhà nước pháp quyền có năm thành
tố chủ yếu bao gồm: Nhà nước pháp quyền
phải là một nguyên tắc hiến định; tự do và
bình đẳng trước pháp luật; kiềm chế và đối
trọng chính trị và phân chia quyền lực; bảo
đảm tính hợp pháp trong quản trị; bảo đảm
tài phán và bảo vệ pháp luật5. Tóm lại, dù
phân tích các thành tố cơ bản của Nhà nước
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 11(363) T6/2018
pháp quyền như thế nào đi chăng nữa, thì
các thành tố đó luôn bao gồm ba loại sau:
thứ nhất, các nguyên tắc chính trị - pháp lý
nền tảng tạo lập nhà nước và tổ chức bộ máy
nhà nước; thứ hai, tiêu chuẩn đối với pháp
luật; và thứ ba, tiêu chuẩn đối với thi hành
pháp luật.
Với các giá trị như vậy, Nhà nước
pháp quyền không thể không là một nguyên
tắc nền tảng của môi trường pháp lý kinh
doanh (với tính cách là tổng thể các nguyên
tắc và quy tắc pháp lý mà trong đó hoạt động
kinh doanh được tiến hành).
Môi trường pháp lý kinh doanh là một
thuật ngữ có phạm vi rất rộng bao trùm cả
luật công và luật tư. Tuy nhiên, để xây dựng
môi trường pháp lý kinh doanh tuân thủ
nguyên tắc Nhà nước pháp quyền thì việc
nhận thức tiêu chuẩn cơ bản của pháp luật
được yêu cầu bởi Nhà nước pháp quyền có
một vai trò rất lớn. Pháp luật được nói tới
trong Nhà nước pháp quyền thường được
xác định bởi hai tiêu chuẩn hay điều kiện,
bao gồm: (1) Các nguyên tắc và các quy
tắc pháp luật phản ánh các quyền tự nhiên
của con người mà không ai có thể phủ nhận
được và được đa số nhận thức và tán thành
với một quy trình hợp lý; (2) pháp luật phải
được giải thích thỏa đáng, cụ thể bởi tư pháp
với một thủ tục thích hợp.
2. Một số tiêu chí để đánh giá thực trạng
xây dựng Nhà nước pháp quyền
Như trên đã nói, mục tiêu bảo vệ tự
do của cá nhân con người sinh ra Nhà nước
pháp quyền với tính cách là một học thuyết
có hạt nhân lý luận quan trọng là ràng buộc
nhà nước bởi pháp luật. Do đó, bảo đảm tự
do theo phương châm “không có gì quý hơn
độc, tự do” luôn được xem là một tiêu chí
quan trọng để đánh giá thực trạng xây dựng
Nhà nước pháp quyền. Nói cách khác, đó
chính là tiêu chí để đánh giá có hay không
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, hay
Nhà nước pháp quyền có được xây dựng
thành công hay không. Các tự do nền tảng
chính là các quyền con người và các quyền
cơ bản của công dân. Trong các quyền đó,
quyền tự do kinh doanh là quyền có tính
cách nền tảng và xuyên suốt của môi trường
pháp lý kinh doanh.
Vì nhà nước chỉ là một cấu trúc pháp
lý theo Nhà nước pháp quyền (nói theo nghĩa
pháp lý đơn thuần), nên việc xem tổ chức bộ
máy nhà nước có hợp hiến hay không là một
tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá thực
trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đồng
thời với việc xem xét yếu tố này, cần phải
xem xét tới việc công dân có thể khởi kiện
cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước hay
không trong khi họ thực hiện các chức năng
của mình do pháp luật yêu cầu.
Để bảo đảm nhà nước bị ràng buộc
bởi pháp luật, thì tư pháp phải độc lập và
được tổ chức hợp lý để tiếp nhận đầy đủ các
tố quyền của người dân liên quan tới chính
quyền và trong tranh chấp giữa họ với nhau
là một tiêu chí không thể thiếu và không thể
không nhấn mạnh.
Như trên đã nói, việc tách bạch hẳn
Nhà nước pháp quyền với dân chủ là thiếu
hiện thực. Cho nên, nền tảng dân chủ phải
được xây dựng vững chắc mà trong đó
người dân phải được tham gia vào quy trình
thừa nhận và bảo vệ các quyền, cũng như
thiết kế và quyết định các chính sách. Đây là
một tiêu chí quan trọng, nhất là đối với Việt
Nam khi tiến hành xây dựng Nhà nước pháp
quyền dân chủ XHCN.
Quy trình xây dựng luật, cũng như
thiết kế và quyết định chính sách phải rõ
ràng, đáng tin cậy là một tiêu chí nhằm bảo
đảm cho tiến trình dân chủ. Cùng với nó, các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 11(363) T6/2018
tiêu chí bảo đảm tính tối thượng của pháp
luật như: người dân phải được giúp đỡ hữu
hiệu bởi luật sư, các tổ chức khác để bảo
vệ các quyền là các tiêu chí cần phải được
sử dụng trong việc phân tích hay đánh giá
thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền,
nhất là liên quan tới trong môi trường pháp
lý kinh doanh.
Tuy nhiên trong phạm vi của một bài
viết, khó có thể sử dụng đầy đủ các tiêu chí
này để đánh giá toàn bộ môi trường pháp lý
kinh doanh ở Việt Nam hiện nay dưới giác
độ Nhà nước pháp quyền dân chủ XHCN.
3. Sự thể hiện nguyên tắc Nhà nước pháp
quyền trong môi trường pháp lý kinh
doanh hiện nay ở Việt Nam
Hiến pháp năm 2013 có những cải
cách rất quan trọng liên quan tới việc ghi
nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người
(quyền tự nhiên), quyền cơ bản của công
dân, đồng thời với việc xác định vai trò bảo
vệ công lý của tư pháp và đề cao nguyên
tắc tranh tụng đang là những nhân tố cực kỳ
quan trọng trong việc bảo đảm các yêu cầu
của Nhà nước pháp quyền đối với pháp luật.
Các nguyên tắc liên quan tới các quyền tự
nhiên của con người được trình bày trong
Chương II của Hiến pháp năm 2013. Và việc
tạo lập nền tảng cho tư pháp độc lập và giải
thích pháp luật được quy định tại Chương
VIII của Hiến pháp năm 2013. Như vậy,
hai tiêu chuẩn của pháp luật do Nhà nước
pháp quyền yêu cầu đã được Hiến pháp năm
2013 xác định khá rành mạch. Tuy nhiên
tiêu chuẩn “pháp luật phải được giải thích
thỏa đáng, cụ thể bởi tư pháp với một thủ
tục thích hợp” sẽ được các đạo luật liên quan
quy định cụ thể hơn.
Góp phần đáp ứng các yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền, khoản 2 Điều 14 Bộ
luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định
nguyên tắc bất khả thụ lý: “Tòa án không
được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý
do chưa có điều luật để áp dụng”. Điều 4 Bộ
luật Tố tụng Dân sự (TTDS) năm 2015 cũng
có quy định nguyên tắc này nhưng gắn liền
với các nguyên tắc hiến định và được giải
thích thêm như sau:
“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ
luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án
dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại
Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc
của người khác.
2. Tòa án không được từ chối giải
quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều
luật để áp dụng.
Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp
dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời
điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan,
tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết
chưa có điều luật để áp dụng.
Việc giải quyết vụ việc dân sự quy
định tại khoản này được thực hiện theo các
nguyên tắc do BLDS và Bộ luật này quy
định”.
Theo một số tác giả, các quy định này
tiếp nối kinh nghiệm của BLDS Bắc Kỳ năm
1931. Nguyên tắc bất khả thụ lý theo BLDS
Pháp năm 1804 và BLDS Bắc Kỳ năm 1931
đặt ra nghĩa vụ cho thẩm phán không được
từ chối xét xử, chứ không đề cập tới tòa án,
và nguyên tắc này có những ý nghĩa sau: thứ
nhất, xác định quyền lực tư pháp nằm trong
tay thẩm phán chứ không nằm trong tay tòa
án; thứ hai, bảo đảm quyền tự do khởi kiện
và tiếp cận công lý của công dân; thứ ba,
khẳng định vai trò của tư pháp là bảo đảm sự
công bằng; thứ tư, bảo đảm nguyên tắc pháp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 11(363) T6/2018
trị; và thứ năm, thúc đẩy việc sử dụng các
loại nguồn khác ngoài văn bản quy phạm
pháp luật6. Như vậy, các quy định của BLDS
năm 2015 và Bộ luật TTDS năm 2015 đã rất
gần gũi với các đòi hỏi của Nhà nước pháp
quyền đối với pháp luật. Tuy nhiên về phần
tổ chức tư pháp cần có những suy tính thêm
để xác định vai trò của thẩm phán trong việc
thực hành quyền lực tư pháp.
Như trên đã nói, môi trường pháp lý
kinh doanh có phạm vi bao quát rất rộng. Ở
nước ta, mọi người có thể thấy các nguyên
tắc hiến định liên quan tới chế độ kinh tế
và các giải pháp lớn tác động tới toàn bộ
nền kinh tế trong bản văn Hiến pháp. Ví dụ,
Điều 51 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế;
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo
pháp luật.
3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều
kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá
nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh
doanh; phát triển bền vững các ngành kinh
tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất,
kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không
bị quốc hữu hóa”.
Điều 52 Hiến pháp năm 2013 quy định
các giải pháp mang tính nguyên tắc như sau:
“Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế
6 Ngô Huy Cương, Sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp tới luật tư ở Việt Nam, trong “Ảnh hưởng của truyền thống pháp
luật Pháp tới pháp luật Việt Nam” (Sách chuyên khảo), đồng chủ biên bởi Arnaud de Raulin, Jean-Paul Pastorel, Trịnh
Quốc Toản và Nguyễn Hoàng Anh, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr. 114 - 115.
kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn
trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân
công, phân cấp, phân quyền trong quản lý
nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng,
bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế
quốc dân”.
Các nguyên tắc hiến định này thể hiện
rất rõ các thành tố của Nhà nước pháp quyền
như thành tố tự do và bình đẳng trước pháp
luật; thành tố pháp luật phải được áp dụng
công bằng và thích hợp, pháp luật phải minh
bạch và có thể tiếp cận được đối với tất cả
mọi người, các quyền tài sản và kinh tế được
bảo hộ Đồng thời các nguyên tắc hiến
định này tạo ra nền tảng kinh tế quan trọng
để bảo đảm quyền con người.
Trong các quyền tự do hiến định,
thì quyền tự do kinh doanh được mở ra
rất rộng. Điều 33 Hiến pháp năm 2013
tuyên bố: “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp
luật không cấm”. Quyền này tuy có những
luận giải khác nhau phần nào về nội hàm,
nhưng tất cả đều hướng tới việc coi quyền
này như một quyền con người, hay như một
phương thức đáp ứng cho các nhu cầu sống
của con người. Quyền này có thể bao hàm:
quyền tự do trở thành thương nhân; quyền
tự do tạo lập doanh nghiệp; quyền tự do lựa
chọn ngành nghề kinh doanh; quyền tự do
lựa chọn quy mô kinh doanh; quyền tự do
quản trị và vận hành doanh nghiệp; quyền
tự do thuê mướn và sử dụng lao động; và
quyền tự do lựa chọn nơi và phương thức
cung cấp sản phẩm và dịch vụ của thương
nhân đồng thời gắn liền với chúng là
quyền chống lại các hành vi cấm đoán hoặc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 11(363) T6/2018
gây cản trở những quyền tự do nói trên7.
Theo các nội dung này, Điều 7 Luật Doanh
nghiệp năm 2014 quy định khá cụ thể về các
quyền của doanh nghiệp, bao gồm: (1) tự
do kinh doanh trong những ngành, nghề mà
luật không cấm; (2) tự chủ kinh doanh và
lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ
động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình
thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy
mô và ngành, nghề kinh doanh; (3) lựa chọn
hình thức, phương thức huy động, phân bổ
và sử dụng vốn; (4) chủ động tìm kiếm thị
trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; (5)
kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; (6) tuyển
dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu
kinh doanh; (7) chủ động ứng dụng khoa
học và công nghệ để nâng cao hiệu quả kinh
doanh và khả năng cạnh tranh; (8) chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh
nghiệp; (9) từ chối yêu cầu cung cấp nguồn
lực không theo quy định của pháp luật; (10)
khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật
về khiếu nại, tố cáo; (11) tham gia tố tụng
theo quy định của pháp luật. Các quyền này
được quy định chi tiết tại các quy định liên
quan của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và
nhiều đạo luật liên quan khác. Xét từ các
thành tố của Nhà nước pháp quyền, các quy
định này thể hiện rất rõ việc bảo đảm bằng
pháp luật đối với các quyền và bảo đảm việc
tiếp cận công lý của người dân. Tuy nhiên,
các quy định này vẫn còn chút lẫn lộn giữa
người dân có quyền với doanh nghiệp (tài
sản) do họ tạo lập nên.
Để bảo đảm quyền tiếp cận công lý
trong môi trường pháp lý kinh doanh, Bộ
luật TTDS năm 2015 đã liệt kê khá cụ thể
các loại tố quyền từ Điều 26 tới Điều 36.
Tuy nhiên, việc liệt kê không hoàn toàn
7 Ngô Huy Cương, Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận những vấn đề pháp lý chủ yếu, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, Số 13 (269)/tháng 07/2014, tr. 28.
nhằm mục đích nêu rõ các tố quyền để bảo
đảm quyền tự do khởi kiện và tiếp cận công
lý mà có lẽ chủ yếu nhằm phân định thẩm
quyền của tòa án. Vì vậy, đây có thể xem
là một việc chưa hoàn chỉnh lắm của môi
trường pháp lý kinh doanh theo nguyên tắc
Nhà nước pháp quyền.
Quyền tự do khởi kiện và nguyên tắc
bất khả thụ lý nói trên đã bù đắp lại những
khiếm khuyết trong việc nêu các tố quyền
hay các tranh chấp nói trên. Điều 186 Bộ
luật TTDS năm 2015 quy định khá rành
mạch về quyền tự do khởi kiện: “Cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông
qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ
án (sau đây gọi chung là người khởi kiện)
tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Các
thủ tục liên quan tới vụ kiện đã được “gọt
rũa” khá công phu theo những tiến bộ của
nhân loại. Tuy nhiên, Bộ luật TTDS năm
2015 vẫn có những quy định đề cao vai trò
của Viện Kiểm sát như một đặc trưng của
việc bảo đảm tuân thủ pháp luật hướng tới
Nhà nước pháp quyền dân chủ XHCN.
Các quyền tài sản và quyền hợp đồng
được bảo đảm khá đầy đủ thông qua BLDS
năm 2015, dù rằng có nhiều ý kiến khác
nhau về kỹ thuật pháp lý. Các cơ chế giải
quyết tranh chấp đủ khả năng đáp ứng các
nhu cầu về giải quyết tranh chấp. Chế định
luật sư ngày một phát triển và có triển vọng
rất đáng ghi nhận.
Như vậy, dù còn nhiều vấn đề cần cân
nhắc để cải thiện, nhưng có thể khẳng định:
hiện nay, môi trường pháp lý kinh doanh ở
Việt Nam đã thể hiện khá rõ nét và khá toàn
diện các thành tố của Nhà nước pháp quyền
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 11(363) T6/2018
dân chủ XHCN và đã phát huy hiệu quả trong
việc phát triển kinh tế, xã hội. Việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền dân chủ XHCN hiện
nay ở Việt Nam đã đạt được những thành
công lớn sau đây: thứ nhất, quyết tâm xây
dựng Nhà nước pháp quyền dân chủ XHCN
đã được triển khai rộng khắp; thứ hai, quyền
con người và quyền cơ bản của công dân
được chú ý, tôn trọng; thứ ba, người dân đã
có thể tiếp cận công lý một cách dễ dàng;
thứ tư, tài phán hành chính đã được thiết lập;
thứ năm, định chế luật sư đang phát triển rất
khả quan; và thứ sáu, nghiên cứu, phổ biến
và giáo dục về Nhà nước pháp quyền dân
chủ XHCN đã được tiến hành sâu, rộng.
Tuy nhiên bên cạnh những thành công
đó, còn những vấn đề cần tiếp tục cân nhắc
triển khai như sau: (1) cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ
chưa được hoàn thiện; (2) mô hình bảo hiến
chưa được chú trọng; (3) một số cơ quan
nhà nước và các nhân viên nhà nước còn
có thái độ đứng trên xã hội, xa rời dân, vi
phạm pháp luật hay không thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ (nhất là vi phạm ở
dạng không hành động) nhưng chưa có biện
pháp xử lý hữu hiệu; (4) quy trình xây dựng
pháp luật, thiết kế và quyết định chính sách
chưa hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện
nay; (5) đội ngũ thẩm phán chưa đáp ứng
được các đòi hỏi chuyên sâu của Nhà nước
pháp quyền dân chủ XHCN, chưa hoàn toàn
hướng tới công lý mà chủ yếu tập trung vào
nhiệm vụ xét xử đơn thuần.
4. Những định hướng xây dựng môi
trường pháp lý kinh doanh đáp ứng các
đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền dân
chủ XHCN
Nhà nước pháp quyền theo Hiến pháp
năm 2013 là Nhà nước pháp quyền dân chủ
XHCN. Do đó, sự lãnh đạo của Đảng trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật là một
định hướng quan trọng bậc nhất cần khẳng
định. Để bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
cần phân tách rõ ràng việc vi phạm Điều lệ
và nguyên tắc, quy tắc của Đảng với vi phạm
pháp luật, nhất là đối với các đảng viên giữ
trọng trách trong bộ máy nhà nước. Trong
việc lãnh đạo Nhà nước, Đảng cần tập trung
vào hai vấn đề lớn hiện nay: thứ nhất, bảo
đảm Hiến pháp và pháp luật phải thể chế cho
được Cương lĩnh, đường lối, chính sách của
Đảng; thứ hai, xử lý kịp thời và đầy đủ các
hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan
nhà nước, nhân viên trong bộ máy nhà nước.
Để tạo nền tảng vững chắc cho việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền dân chủ
XHCN, cần (1) nhận thức đúng đắn về
Nhà nước pháp quyền dân chủ XHCN; (2)
không nên xem Nhà nước pháp quyền dân
chủ XHCN là một yếu tố tăng thêm cho
quyền lực của Nhà nước mà phải xem nó
là một phương thức hữu hiệu để kiềm chế
quyền lực nhà nước để bảo vệ cho tự do của
cá nhân con người và cho chính sự trường
tồn của Đảng; (3) xem xét lại mô hình bảo
hiến theo hướng làm cho Hiến pháp thể hiện
sự đồng lòng của dân chúng trong việc xây
dựng cộng đồng chính trị.
Bên cạnh đó, cần chú ý tới các định
hướng: xem quyền lực tư pháp thuộc về các
thẩm phán, và bảo đảm cho sự độc lập của tư
pháp (do đó cải cách tư pháp tập trung vào
thẩm phán chứ không phải tập trung vào các
cấp tòa); bảo đảm tiếp nhận đầy đủ các tố
quyền của người dân; xây dựng quy trình làm
luật và thiết kế chính sách hợp lý mà người
dân dễ tiếp cận; và thi hành nghiêm chỉnh các
phán quyết của tòa án đối với các cơ quan,
nhân viên nhà nước vi phạm pháp luật■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 11(363) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nha_nuoc_phap_quyen_voi_moi_truong_phap_ly_kinh_doanh.pdf