Nhận biết sớm trẻ có nguy cơ với rối loạn tăng động giảm chú ý dựa trên thang đo Vanderbilt ADHD dành cho giáo viên và bố mẹ

Phân tích đơn biến giữa các yếu tố về đặc điểm chung của học sinh, bố mẹ, gia đình, những trải nghiệm bất lợi của thời kỳ mang thai, thơ ấu và mối quan hệ của với nguy cơ RLTĐGCY. Nghiên cứu chúng tôi chưa tìm thấy sự khác biệt của hầu hết các yếu tố khảo sát [Bảng 4, 5], điều này có thể lý giải do các yếu tố khảo sát trong vòng 6 tháng tới thời điểm khảo sát, các yếu tố được hồi cứu lại do vậy nhiều yếu tố bị mất thông tin. Bảng 5 - Phân tích các yếu tố liên quan với nhóm có nguy cơ với RLTĐGCY, dựa vào mô hình hồi quy logistic đa biến có 4 yếu tố được kết hợp ở mô hình cuối cùng sau khi loại bỏ các biến độc lập khác dựa trên phương pháp backward conditional (p < 0,25). RLTĐGCY có khả năng thường gặp nhiều hơn ở nhóm trẻ em là nam giới cao gấp 4,6 lần so với nhóm trẻ em là nữ giới. Do RLTĐGCY là một rối loạn thuộc vào thời kỳ phát triển của trẻ, nguyên nhân do yếu tố sinh học đóng vai trò quan trọng và thường có tỷ lệ cao ở nam giới. Nhiều nghiên cứu cũng tìm thấy điều tương tự, nghiên cứu của Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ, tỷ lệ trẻ em nam mắc RLTĐGCY cao hơn 2,57 lần so với trẻ em nữ (nam là 10,3% và 4,0%) [7]. RLTĐGCY thường gặp ở trẻ em nam hơn so với nữ, với tỷ suất gặp là 2 - 3 so với 1 trong trong cộng đồng [9]. Thứ tự sinh của học sinh cũng là một yếu tố cần được xét xét khi khả năng RLTĐGCY có xu hướng gặp cao hơn 2,25 lần ở nhóm trẻ là con đầu lòng (5,6% so với 2,5% ở con thứ), tuy nhiên chưa có ý nghĩa về mặt thống kê (p = 0,089). Mặc dù điều này còn rất hạn chế trong y văn hiện nay. Trong các mối quan hệ của học sinh, yếu tố có bạn thân được tìm thấy có ý nghĩa với RLTĐGCY; trẻ không có bạn thân có khả năng có RLTĐGCY gấp 5 lần (2,13 - 12,24) so với nhóm còn lại.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận biết sớm trẻ có nguy cơ với rối loạn tăng động giảm chú ý dựa trên thang đo Vanderbilt ADHD dành cho giáo viên và bố mẹ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
85 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019 NHẬN BIẾT SỚM TRẺ CÓ NGUY CƠ VỚI RỐI LOẠN TĂNG ĐỘNG GIẢM CHÚ Ý DỰA TRÊN THANG ĐO VANDERBILT ADHD DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ BỐ MẸ Lê Đình Dương1, Võ Văn Thắng1, Nguyễn Thị Mai2, Võ Thị Hân1, Nguyễn Hữu Châu Đức1, Hoàng Hữu Hải1, Đặng Ngọc Thanh Thảo3 (1)Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế (2)Trung tâm Y tế Quận Liên Chiểu, Đà Nẵng (3)Trung tâm Y tế học đường tỉnh Thừa Thiên Huế Tóm tắt Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và một số yếu tố liên quan với rối loạn tăng động giảm chú ý ở học sinh tiểu học dựa trên thang đo Vanderbilt ADHD dành cho giáo viên và bố mẹ. Phương pháp: Thiết kế mô tả cắt ngang trên 564 học sinh tiểu học được chọn ngẫu nhiên từ 4 trường tiểu học tại thành phố Huế. Thang đo Vanderbilt ADHD dành cho giáo viên và bố mẹ được sử dụng để nhận biết trẻ có nguy cơ với RLTĐGCY. Kết quả: Tỷ lệ có nguy cơ với RLTĐGCY là 4,1% (2,44% - 5,72%) trong đó 4,6% và 4,8% lần lượt dựa trên đánh giá của giáo viên và bố mẹ. RLTĐGCY thường gặp hơn ở học sinh nam (OR adj: 4,64; KTC 95%: 1,53 - 14,05) và nhóm không có bạn thân (OR adj: 5,11; KTC 95%: 2,13 – 12,24). Kết luận: Thang đo Vanderbilt ADHD dành cho giáo viên và bố mẹ là công cụ có thể xem xét sử dụng để phát hiện sớm trẻ có có nguy cơ với RLTĐGCY. Từ khóa: Rối loạn tăng động giảm chú ý, Vanderbilt ADHD, giáo viên, bố mẹ, học sinh tiểu học. Abstract EARLY RECOGNIZATION OF THE CHILDREN WITH ATTENTION DEFICIT HYPERACTIVITY DISORDER BY VANDERBILT ADHD RATING SCALE FOR TEACHERS AND PARENTS Le Dinh Duong1, Vo Van Thang1, Nguyen Thi Mai2, Vo Thi Han1, Nguyen Huu Chau Duc1, Hoang Huu Hai1, Dang Ngoc Thanh Thao3 (1) Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University (2) Danang, Lien Chieu Medical Central (3) Trung tâm Y tế học đường tỉnh Thừa Thiên Huế Objectives: The study aims to explore the prevalence of attention deficit hyperactivity disorder and to examine the associated factors with ADHD among primary students by Vanderbilt ADHD rating scale for teacher and parents. Methods: A cross-sectional study design was conducted in 564 students who selected randomly in 4 primary schools in Hue city. Vanderbilt ADHD rating scale for parents and teachers were applied to evaluate the ADHD of children over 6 months ago. Results: The overall prevalence of children who had high risk with ADHD was 4.1% (95%CI: 2.44 - 5.72), including 4.6% and 4.8% in the rating of teachers and parents, respectively. Male was more likely to have ADHD than female (OR adj: 4.64 (95%CI: 1.53 - 14.05) and lack of closely friend (OR adj: 5.11 (95% CI: 2.13 - 12.24). Conclusion: Vanderbilt ADHD diagnosis rating scale for teachers and parents can be used to early recognization children with a high risk of ADHD. Keywords: ADHD, Vanderbilt, ratings scale, teacher, parent, children. Địa chỉ liên hệ: Lê Đình Dương, email: ledinhduong@huemed-univ.edu.vn Ngày nhận bài: 21/4/2019, Ngày đồng ý đăng: 16/6/2019; Ngày xuất bản: 1/7/2019 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Rối loạn tăng động giảm chú ý (RLTĐGCY) là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất ở trẻ em, ảnh hưởng đến khoảng 5% trẻ em và thanh thiếu niên trên thế giới(Polanczyk, de Lima, Horta, Biederman, & Rohde, 2007). Rối loạn này được đặc trưng bởi giảm khả năng duy trì sự chú ý và tăng hoạt động quá mức, có hành vi xung động so với trẻ cùng lứa tuổi, cùng mức độ phát triển. Rối loạn tăng động giảm chú ý thường xuất hiện sớm ở lứa tuổi nhỏ, khi mới bắt đầu đi học và đem lại những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về tâm lý và các hành vi nhân cách của trẻ. Do đó, phát hiện sớm, chăm sóc và điều trị thích hợp có vai trò quan trọng đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ trong tương lai. DOI: 10.34071/jmp.2019.4.12 86 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019 Tại Việt Nam, mặc dù chương trình Mục tiêu Quốc gia về sức khỏe tâm thần của Bộ Y tế đã có nhiều hoạt động, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế đặc biệt là nguồn nhân lực trong hệ thống chăm sóc sức khỏe tâm thần, tư vấn chăm sóc ban đầu nhất là trong môi trường học đường. Chính vì vậy, việc nhận biết sớm trẻ RLTĐGCY dựa vào cộng đồng mà cụ thể nhất là giáo viên và bố mẹ có vai trò rất quan trọng, đảm bảo tính hiệu quả và bền vững trong bối cảnh hiện nay. Thang đo Vanderbilt ADHD được sử dụng rất rộng rãi ở nhiều quốc gia và đã chứng minh được hiệu quả trong sàng lọc sớm trẻ có nguy cơ cao với rối lọan này. Tuy nhiên hiện nay vẫn rất ít nghiên cứu tại Việt Nam đề cập đến vấn đề này. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu để xác định tỷ lệ học sinh có nguy cơ và các yếu tố liên quan với ADHD ở học sinh tiểu học bằng thang đo Vanderbilt ADHD hiệu chỉnh dành cho giáo viên và phụ huynh. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu tiến hành trên 564 học sinh có tuổi từ 6 - 12 tuổi tại 4 trường tiểu học trên địa bàn thành phố Huế trong năm học 2017 - 2018. Có tổng cộng 72 giáo viên và 564 bố mẹ của học sinh tham gia đánh giá. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Từ tháng 1/2018 đến tháng 4/2018 tại 4 trường tiểu học Ngự Bình, Thuận Lộc, Phú Cát, Trường An, thành phố Huế. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang 2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu Cỡ mẫu: áp dụng công thức ước tính một tỷ lệ nghiên cứu: Trong đó: p = 9,3% (Nguyễn Thị Thu Hiền, 2012) [4], chọn sai số là 5%, hệ số thiết kế mẫu là 4. Chúng tôi mời 600 học sinh và bố mẹ tham gia nghiên cứu, thực tế cỡ mẫu cuối cùng là 564 (94,0%). Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu chùm ngẫu nhiên nhiều giai đoạn. Giai đoạn 1: Chọn trường, thành phố Huế có 38 trường tiểu học, trong đó bờ Nam có 19 trường, bờ Bắc có 19 trường. Mỗi bên chọn ngẫu nhiên 2 trường. Giai đoạn 2: Chọn học sinh tiểu học: Tại mỗi trường tiểu học, chọn ra 150 học sinh tương ứng với 5 khối học (từ khối 1 đến khối 5). Lập danh sách từng khối học sinh của mỗi trường, chọn mẫu ngẫu nhiên đơn để chọn ra 30 học sinh của mỗi khối. Trong tổng số 600 học sinh được mời tham gia nghiên cứu, có 564 chiếm tỷ lệ 94% được đưa vào mẫu phân tích. Tỷ lệ không tham gia nghiên cứu là 6% trong đó do bố mẹ từ chối, không hoàn thành phiếu thông tin và không đúng người trả lời lần lượt 1,3%; 1,7% và 3,0%. Sơ đồ 1. Mẫu nghiên cứu 2.2.3. Nội dung nghiên cứu Nguy cơ RLTĐGCY được xác định dựa vào thang đánh giá Vanderbilt ADHD chuẩn hóa dành giáo viên và bố mẹ của trẻ [1]. Thời gian đánh giá trong vòng 6 tháng tính tới thời điểm nghiên cứu. Trẻ được xác định có nguy cơ với RLTĐGCY khi có biểu hiện RLTĐGCY đồng thời từ đánh giá từ giáo viên và bố mẹ. Khảo sát các yếu tố liên quan với RLTĐGCY ở trẻ bao gồm: đặc điểm chung của học sinh, bố mẹ, đặc điểm trải nghiệm trong thời kì mang thai của người mẹ và thời kỳ thơ ấu của trẻ. 2.2.4. Phương pháp thu thập thông tin Bộ công cụ được thử nghiệm và hiệu chỉnh trước khi tiến hành nghiên cứu bởi nhóm nghiên cứu với nhiều chuyên ngành khác nhau về Nhi khoa, Tâm thần và Y tế Công cộng. Sử dụng bộ công cụ tự đánh giá dành cho giáo viên và bố mẹ của học sinh. Giáo viên chủ nhiệm lớp và bố mẹ được hướng dẫn về phương pháp tự đánh giá dựa vào thang đo ADHD Valderbilt do bác sỹ chuyên khoa tâm thần của 87 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019 3. KẾT QUẢ 3.1. Tỷ lệ học sinh có nguy cơ với rối loạn tăng động giảm chú ý Bảng 1. Tỷ lệ RLTĐGCY theo đánh giá của giáo viên và bố mẹ Đánh giá Các dạng RLTĐGCY Giáo viên Bố mẹ Cả 2 kênh n % (KTC: 95%) n % (KTC: 95%) n % (KTC: 95%) Giảm chú ý 37 6,6 (4,51 – 8,61) 30 5,3 (3,46 – 7,18) 24 4,3 (2,58 – 5,93) Tăng động 29 5,1 (3,31– 6,97) 39 6,9 (4,81 – 9,01) 23 4,1 (2,44 – 5,72) Phối hợp 26 4,6 (2,87 – 6,35) 27 4,8 ( 3,02 – 6,55) 23 4,1 (2,44 – 5,72) Trong tổng số 564 học sinh, có 23 học sinh (4,1%) có nguy cơ với rối loạn tăng động giảm chú ý, trong đó dạng trội giảm chú ý là 4,3% và tăng động là 4,1%. Tỷ lệ nguy cơ với rối loạn tăng động giảm chú ý theo đánh giá của giáo viên và bố mẹ lần lượt là 4,6% và 4,8%. 3.2. Mức độ đồng thuận giữa đánh giá của giáo viên và bố mẹ Bảng 2. Hệ số Kappa và tỷ lệ đồng thuận giữa đánh giá của giáo viên và bố mẹ Giáo viên Hệ số kappa Mức độ đồng thuận (%) p Tăng động 0,656 96,10 < 0,001 Giảm chú ý 0,699 96,63 < 0,001 RLTĐGCY 0,861 98,76 < 0,001 Hệ số kappa theo đánh giá của giáo viên và bố mẹ trên cả 3 nhóm tăng động, giảm chú ý và RLTĐGCY đều tốt, lần lượt là 0.656; 0.699 và 0,861. Tỷ lệ đồng thuận dựa trên các quan sát là trên 95% ở cả 3 yếu tố. 3.3. Một số yếu tố liên quan đến rối loạn tăng động giảm chú ý ở học sinh tiểu học 3.3.1. Liên quan giữa đặc điểm chung và các trải nghiệm bất lợi của trẻ với nguy cơ RLTĐGCY Bảng 3. Đặc điểm về RLTĐGCY ở học sinh tiểu học RLTĐGCY Yếu tố Có (n = 23) Không (n = 541) Tổng (n = 564) p Giới Nam 19 (6,7) 265 (93,3) 284 (50,4) 0,002 Nữ 4 (1,4) 276 (98,6) 280 (49,6) Tuổi trẻ 9,14 ± 1,48 9,26 ± 1,29 9,15 ± 1,47 0,706 Thứ tự sinh Con đầu 16 (5,6) 271 (94,4) 287 (50,9) 0,057 Con thứ 5 (5,0) 96 (95,1) 101 (17,9) Con út 2 (1,1) 174 (98,9) 176 ( 31,2) nhóm nghiên cứu thực hiện. 2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu được được nhập và làm sạch bằng phần mềm Epidata 3.1, xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê Stata 14.0. Tỷ lệ trẻ có nguy cơ với RLTĐGCY được mô tả bằng tỷ lệ % và khoảng tin cậy 95%. Hệ số Kappa được sử dụng để đo lường mức độ lặp lại trên 2 đánh giá của giáo viên và bố mẹ của học sinh. Mô hình phân tích hồi quy logistic đa biến được sử dụng để tìm yếu tố liên quan với rối loạn này ở trẻ. 2.2.6. Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu có sự đồng ý cho phép thực hiện của Trường Đại học Y Dược Huế, trung tâm y tế học đường tỉnh Thừa Thiên Huế, Ban giám hiệu của 4 trường tiểu học tham gia nghiên cứu. Tôn trọng sự đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu của học sinh, giáo viên và bố mẹ học sinh. Các thông tin và số liệu thu được chỉ dành cho mục đích nghiên cứu khoa học, không được phép dùng cho các mục đích khác. 88 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019 Tuổi mẹ 37,82 ± 5,77 37,68 ± 5,43 37,82 ± 5,74 0,910 Tuổi bố 41,37 ± 6,30 40,57 ± 6,25 41,33 ± 6,29 0,551 Tình trạng hôn nhân Bố mẹ sống cùng nhau 20 (3,9) 492 (96,1) 512 (90,8) 0,518 Khác 3 (5,8) 49 (94,2) 52 (9,2) Kinh tế gia đình Nghèo (< 1,3 tr) 9 (5,7) 149 (94,3) 158 (28,0) 0,278 Trung bình (1,3 - 1,95 tr) 6 (5,0) 113 (95,0) 119 (21,1) Trên trung bình (> 1,95 tr) 8 (2,8) 279 (97,2) 287 (50,9) Tiền sử gia đình có RLTT Có 2 (13,3) 13 (86,7) 15 (2,7) 0,066 Không 21 (3,8) 528 (96,2) 549 (97,3) Bất lợi thời kỳ mang thai và thơ ấu Không 7 (3,0) 224 (97,0) 231 (41,0) 0,295 Có** 16 (4,8) 317 (95,2) 333 (59,0) Mẹ uống rượu, bia (n = 552)* 0 (0,0) 13 (100,0) 13 (2,4) N/A Mẹ Hút thuốc lá thụ động (n = 457)* 9 (5,6) 153 (94,4) 162 (35,5) 0,260 Mẹ bị cảm cúm trong 3 tháng đầu (n = 495)* 2 (8,0) 23 (92,0) 25 (5,1) 0,167 Tuổi mẹ ≥ 35 4 (4,9) 78 (95,1) 82 (14,5) 0,863 Trẻ sinh nhẹ cân (n = 444)* 4 (4,7) 82 (95,3) 86 (19,4) 0,095 Tuổi thai khi sinh dưới 37 tuần 2 (2,9) 66 (97,1) 68 (12,1) 0,613 Tiền sử động kinh* (n = 541) 1 (5,6) 17 (94,4) 18 (3,3) N/A Tiến sử viêm màng não* (n = 552) 1 (12,5) 7 (87,5) 8 (1,5) N/A Tiền sử chấn thương vùng đầu* (n = 550) 0 (0,0) 28 (100,0) 28 (5,1) N/A Tr: triệu VNĐ; N/A: không phân tích; * phân tích loại bỏ những trường hợp không biết/ không nhớ. **có được xác định nếu học sinh có ít nhất 1 trong 9 trải nghiệm bất lợi được liệt kê. Giá trị số lượng và tỷ lệ % thể hiện bằng n (%); giá trị TB và độ lệch chuẩn thể hiện bằng X ± SD. Phân tích đơn biến cho thấy có mối liên có ý nghĩa giữa giới tính của học sinh với nguy cơ RLTĐGCY. Chưa tìm thấy sự khác biệt giữa các đặc điểm chung của trẻ, gia đình và trải nghiệm bất lợi của trẻ với nguy cơ RLTĐGCY. 3.3.2. Mối liên quan giữa mối quan hệ của học sinh và RLTĐGCY Bảng 4. Mối liên quan giữa mối quan hệ của học sinh và RLTĐGCY RLTĐGCY Đặc điểm mối quan hệ của học sinh Có (n = 23) Không (n = 543) Tổng p Bố mẹ nói chuyện với trẻ về học tập trên lớp Hằng ngày 5 (2,4) 199 (97,6) 204 (36,2) 0,156 Hằng tuần 15 (4,6) 312 (95,4) 327 (58,0) Không, hiếm khi 3 (9,1) 30 (90,9) 33 (5,8) 89 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019 Trẻ tâm sự với bố mẹ Hằng ngày 4 (2,9) 132 (97,1) 136 (24,1) 0,061 Hằng tuần 12 (3,4) 338 (96,6) 350 (62,1) Không, hiếm khi 7 (9,0) 71 (91,0) 78 (13,8) Bố mẹ hướng dẫn trẻ học bài Hằng ngày 5 (2,5) 194 (97,5) 199 (35,3) 0,106 Hằng tuần 14 (4,3) 309 (95,7) 323 (57,3) Không, hiếm khi 4 (9,5) 38 (90,5) 42 (7,4) Trẻ tiếp xúc, nói chuyện với trẻ khác Hằng ngày 6 (2,4) 239 (97,6) 245 (43,4) 0,052 Hằng tuần 13 (4,6) 268 (95,4) 281 (49,8) Không, hiếm khi 4 (10,5) 34 (89,5) 38 (6,7) Trẻ có bạn thân Có 11 (2,4) 449 (97,6) 460 (81,6) < 0,001 Không 12 (11,5) 92 (88,5) 104 (18,4) Phân tích mối quan hệ của trẻ với nguy cơ RLTĐGCY, yếu tố bạn thân được tìm thấy có sự khác biệt có ý nghĩa với p < 0,001. 3.4. Mô hình các yếu tố liên quan với nguy cơ RLTĐGCY ở học sinh tiểu học Bảng 5. Mô hình các yếu tố liên quan với nguy cơ RLTĐGCY ở học sinh tiểu học Yếu tố Unadjusted OR Adjusted OR p Giới Nữ 1 1 Nam 4,95 (1,66 – 14,73) 4,64 (1,53 – 14,05) 0,007 Thứ tự sinh Con thứ 1 1 Con đầu 2,28 (0,92 – 5,62) 2,25 (0,88 – 5,71) 0,089 Tiền sử gia đình có rối loạn tâm thần Không 1 1 Có 3,87 (0,82 – 18,25) 3,90 (0,72 – 21,01) 0,113 Bạn thân Có 1 1 Không 5,32 ( 2,28 – 12,44) 5,11 (2,13 – 12,24) < 0,001 Mô hình logistic đa biến với phương pháp backward conditional (p<0,25), sau khi hiệu chỉnh với các yếu tố khác trong mô hình, nguy cơ có RLTĐGCY thường gặp hơn ở học sinh là nam (OR hiệu chỉnh: 4,64 (1,53 – 14,05) và trẻ không có bạn thân (OR hiệu chỉnh 5,11 (2,13 - 12,24). 4. BÀN LUẬN Rối loạn Tăng động giảm chú ý là một rối loạn tâm thần phổ biến nhất ở trẻ em. Tỷ lệ trẻ có nguy cơ với RLTĐGCY trong nghiên cứu này là 4,1% với khoảng tin cậy 95% là 2,4 - 5,7% [Bảng 1]. Nhiều nghiên cứu tổng quan hệ thống cũng chỉ ra tỷ lệ trẻ em có rối loạn TĐGCY tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi, dao động trong cộng đồng là từ 2% đến 7%, trung bình khoảng 5% [9]. Tác giả Polanczyk ước tính trên toàn cầu tỷ lệ trẻ em từ 5 - 19 tuổi có rối loạn TĐGCY khoảng 2,2% và cao nhất ở nhóm 9 tuổi [6]. Khảo sát tại 9 khu vực tại Italia trên 67838 90 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019 trẻ em từ 5 - 17 tuổi, tỷ lệ hiện mắc RLTĐGCY ước tính trung bình là 5,9% ( khoảng 1,4 - 16,7%) [8]. So sánh với một số nghiên cứu tại các quốc gia đang phát triển khác như Ấn Độ, tỷ lệ trẻ RLTĐGCY là 5,7% (Joshi & Angolkar, 2018); Nigeria là 6,6% [3] Thổ Nhi Kỳ là 8% [10], tại Vĩnh Long, Việt Nam là 7,7% [5]. Hiện nay, rất nhiều nghiên cứu chỉ ra sự khác biệt về tỷ lệ RLTĐGCY giữa các nước đang phát triển và các nước đã phát triển không chỉ phụ thuộc vào công cụ chẩn đoán mà còn phụ thuộc vào rất nhiều rào cản khác [9], sự khác biệt trong hệ thống y tế, các yếu tố về môi trường, văn hóa, cũng như nhận thức của cộng đồng là những yếu tố cần xém xét. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ rối loạn tăng động giảm chú ý theo đánh giá của giáo viên và bố mẹ không khác biệt có ý nghĩa, lần lượt là 4,6% và 4,8%. Đánh giá mức độ đồng thuận giữa 2 nhóm cũng có mức độ tương đồng tốt với hệ số kappa trên 0,65 ở cả 3 nhóm yếu tố đánh giá là giảm chú ý, tăng động và dạng kết hợp [bảng 2]. Phân tích đơn biến giữa các yếu tố về đặc điểm chung của học sinh, bố mẹ, gia đình, những trải nghiệm bất lợi của thời kỳ mang thai, thơ ấu và mối quan hệ của với nguy cơ RLTĐGCY. Nghiên cứu chúng tôi chưa tìm thấy sự khác biệt của hầu hết các yếu tố khảo sát [Bảng 4, 5], điều này có thể lý giải do các yếu tố khảo sát trong vòng 6 tháng tới thời điểm khảo sát, các yếu tố được hồi cứu lại do vậy nhiều yếu tố bị mất thông tin. Bảng 5 - Phân tích các yếu tố liên quan với nhóm có nguy cơ với RLTĐGCY, dựa vào mô hình hồi quy logistic đa biến có 4 yếu tố được kết hợp ở mô hình cuối cùng sau khi loại bỏ các biến độc lập khác dựa trên phương pháp backward conditional (p < 0,25). RLTĐGCY có khả năng thường gặp nhiều hơn ở nhóm trẻ em là nam giới cao gấp 4,6 lần so với nhóm trẻ em là nữ giới. Do RLTĐGCY là một rối loạn thuộc vào thời kỳ phát triển của trẻ, nguyên nhân do yếu tố sinh học đóng vai trò quan trọng và thường có tỷ lệ cao ở nam giới. Nhiều nghiên cứu cũng tìm thấy điều tương tự, nghiên cứu của Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ, tỷ lệ trẻ em nam mắc RLTĐGCY cao hơn 2,57 lần so với trẻ em nữ (nam là 10,3% và 4,0%) [7]. RLTĐGCY thường gặp ở trẻ em nam hơn so với nữ, với tỷ suất gặp là 2 - 3 so với 1 trong trong cộng đồng [9]. Thứ tự sinh của học sinh cũng là một yếu tố cần được xét xét khi khả năng RLTĐGCY có xu hướng gặp cao hơn 2,25 lần ở nhóm trẻ là con đầu lòng (5,6% so với 2,5% ở con thứ), tuy nhiên chưa có ý nghĩa về mặt thống kê (p = 0,089). Mặc dù điều này còn rất hạn chế trong y văn hiện nay. Trong các mối quan hệ của học sinh, yếu tố có bạn thân được tìm thấy có ý nghĩa với RLTĐGCY; trẻ không có bạn thân có khả năng có RLTĐGCY gấp 5 lần (2,13 - 12,24) so với nhóm còn lại. 5. KẾT LUẬN Rối loạn tăng động giảm chú ý có thể được sàng lọc và phát hiện sớm dựa trên kết hợp đánh giá giữa giáo viên và bố mẹ. Tỷ lệ trẻ có nguy cơ RLTĐGCY là 4,1% (KTC 95%: 2,4 - 5,7%). RLTĐGCY có xu hướng thường gặp cao hơn ở nhóm học sinh nam và nhóm học sinh không có bạn thân. Tuy nhiên cần có những nghiên cứu mang tính theo dõi trên mẫu lớn hơn nhằm đo lường chính xác nguy cơ của trẻ em RLTĐGCY và kết hợp chẩn đoán lâm sàng. LỜI CẢM ƠN Nhóm nghiên cứu xin gởi lời cảm ơn đến Đại học Huế, Trường Đại học Y Dược, Trung tâm Y tế Học đường tỉnh Thừa Thiên Huế, Trường tiểu học Ngự Bình, Thuận Lộc, Phú Cát, Trường An, các em học sinh, giáo viên và bố mẹ đã đồng ý tham gia nghiên cứu này. Đây là nghiên cứu được hỗ trợ kinh phí thực hiện từ Quỹ nghiên cứu khoa học - Đại học Huế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. American Academy of Pediatrics (2002). Vanderbilt Assesement Scale used for diagnosing ADHD. 2. Joshi, H. M., & Angolkar, M. (2018). Prevalence of ADHD in Primary School Children in Belagavi City, India. J Atten Disord, 1087054718780326. doi: 10.1177/1087054718780326. 3. Ndukuba, A. C., Odinka, P. C., Muomah, R. C., Obindo, J. T., & Omigbodun, O. O. (2017). ADHD Among Rural Southeastern Nigerian Primary School Children: Prevalence and Psychosocial Factors. J Atten Disord, 21(10), 865-871. doi: 10.1177/1087054714543367. 4. Nguyễn Thị Thu Hiền. (2012). Nghiên cứu tỷ lệ học sinh tiểu học có rối loạn tăng động giảm chú ý tại quận ba đình - hà nội. Luận văn thạc sĩ tâm lý học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 5. Pham, H. D., Nguyen, H. B., & Tran, D. T. (2015). 91 Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 4 - tháng 7/2019 Prevalence of ADHD in primary school children in Vinh Long, Vietnam. Pediatr Int, 57(5), 856-859. doi: 10.1111/ped.12656. 6. Polanczyk, G., de Lima, M. S., Horta, B. L., Biederman, J., & Rohde, L. A. (2007). The worldwide prevalence of ADHD: a systematic review and metaregression analysis. Am J Psychiatry, 164(6), 942-948. doi: 10.1176/ ajp.2007.164.6.942 7. Center for Diseases control and prevention of US, (2010). Increasing prevalence of parent-reported attention-defcit/hyperactivity disorder among children— United States, 2003 and 2007. MMWR Morb Mortal Wkly Rep, 59: (1439–43.). 8. Reale, L., & Bonati, M. (2018). ADHD prevalence estimates in Italian children and adolescents: a methodological issue. Ital J Pediatr, 44(1), 108. doi: 10.1186/s13052-018-0545-2. 9. Sayal, K., Prasad, V., Daley, D., Ford, T., & Coghill, D. (2018). ADHD in children and young people: prevalence, care pathways, and service provision. Lancet Psychiatry, 5(2), 175-186. doi: 10.1016/S2215-0366(17)30167-0. 10. Zorlu, A., Unlu, G., Cakaloz, B., Zencir, M., Buber, A., & Isildar, Y. (2015). The Prevalence and Comorbidity Rates of ADHD Among School-Age Children in Turkey. J Atten Disord. doi: 10.1177/1087054715577991.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhan_biet_som_tre_co_nguy_co_voi_roi_loan_tang_dong_giam_chu.pdf
Tài liệu liên quan