Những năm gần đây, ĐTMH nổi lên ở Việt
Nam như một con gió mới lạ và được mong đợi
sẽ trở thành một xu hướng tất yếu như nó đã diễn
ra ở các nước phát triển nhưng những vấn đề
pháp lý liên quan đến ĐTMH chưa được Chính
phủ Việt Nam quan tâm hoạch định ở mức độ
cần thiết. Hiện tại chưa có luật cụ thể nào điều
chỉnh cho hoạt động đầu tư này. Luật Đầu tư
2014 và Luật Doanh nghiệp 2014 là những luật
có thể áp dụng để điều chỉnh hoạt động này xét
với tư cách là một trong những hình thức đầu tư
nói chung. Ngoài hai nguồn luật nói trên, hoạt
động ĐTMH còn chịu sự điều chỉnh của các văn
bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động đầu
tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư.
Bên cạnh đó, tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động
đầu tư cụ thể mà hoạt động ĐTMH đó sẽ chịu sự
điều chỉnh của những nguồn luật riêng.
Khung pháp lý chưa đảm bảo cho sự hình
thành và vận hành quỹ ĐTMH chính là điểm khó
khăn lớn, là thách thức với những nhà ĐTMH.
Đây cũng chính là nguyên nhân tại sao các quỹ
ĐTMH hiện nay tại Việt Nam hoạt động theo lối
du kích, chưa thực sự hoạt động đúng bản chất
trên thị trường. Việc xây dựng các chính sách,
quy định hướng dẫn thành lập quỹ ĐTMH là yêu
cầu bức thiết trong bối cảnh đi tìm nguồn vốn để
giải quyết nhu cầu của hoạt động ĐMCN.
Cũng phải thừa nhận rằng Việt Nam chưa có
được một nền kinh tế thị trường hoàn hảo. Kinh
tế Việt Nam có nhiều động lực phát triển nhưng
vẫn không ít vướng mắc, vướng mắc lớn nhất có
lẽ là độc quyền kinh tế. Một trong những tiêu chí
để một quốc gia được công nhận có nền kinh tế
thị trường là: “đối xử công bằng giữa các khu
vực doanh nghiệp”. Tuy nhiên ở Việt Nam cho
đến nay vẫn ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước,
bất bình đẳng trong khu vực doanh nghiệp.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận diện các điều kiện để hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm cho hoạt động đổi mới công nghệ ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
12
Review Article
Identification of the Conditions to Establish the Venture
Capital Fund for Technology Innovation Activities in Vietnam
Pham Minh Thuy*
Institute of Policy and Management, VNU University of Social Sciences and Humanities,
336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
Received 26 November 2019
Revised 10 December 2019; Accepted 20 December 2019
Abstract: The lack of capital for technology innovation has always been a dilemma for businesses
because of the need for large capital for risky technology innovation activities. Venture investment
is one of the solutions for the challenge of capital issue. It is considered as a “gamble” to gain or
loss with full of risk. In Vietnam, despite being studied since the 90s of the last century, the issue of
establishing venture capital fund and venture investment is still a topical topic. This paper
highlighted the roles of venture capital fund for technology innovation activities as well as the
necessary and sufficient conditions to establish these venture capital funds in Vietnam such as a
perfect market economy, willing venture investors, and available institution of the stock market, etc.
From that, the paper identified the insufficient elements for the establishment of venture capital fund
in Vietnam.
Keywords: Venture capital, venture capital fund, technology innovation.*
________
* Corresponding author.
E-mail address:
https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4202
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
13
Nhận diện các điều kiện để hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm
cho hoạt động đổi mới công nghệ ở Việt Nam
Phạm Minh Thúy*
Viện Chính sách và Quản lý, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 26 tháng 11 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 10 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 12 năm 2019
Tóm tắt: Lâu nay vấn đề vốn để đổi mới công nghệ (ĐMCN) là bài toán nan giải của các doanh
nghiệp bởi hoạt động ĐMCN chứa đựng nhiều rủi ro và cần nguồn vốn lớn. Đầu tư mạo hiểm
(ĐTMH) được cho là một trong những lời giải trước thách thức về nhu cầu vốn của hoạt động
ĐMCN. Nó được ví như đánh một “canh bạc” được ăn, lỗ chịu, một luật chơi với đầy tính mạo hiểm.
Ở Việt Nam, nghiên cứu về ĐTMH và quỹ ĐTMH đã có ở những năm 90 của thế kỷ trước, song
vấn đề thành lập quỹ này ở nước ta còn rất thời sự. Bài viết nhấn mạnh vai trò của quỹ ĐTMH đối
với hoạt động ĐMCN, đưa ra nhận định về các điều kiện cần và đủ để hình thành quỹ ĐTMH cho
hoạt động ĐMCN như việc phải có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, có những nhà đầu tư mạo
hiểm sẵn sàng rót vốn và đã hình thành được những thiết chế của thị trường chứng khoán từ đó
nhận diện được những yếu tố chưa sẵn sàng của việc hình thành quỹ ĐTMH cho hoạt động ĐMCN
ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư mạo, đổi mới công nghệ.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh kinh tế cạnh tranh khốc liệt
như hiện nay, ĐMCN là cuộc chạy đua của mỗi
doanh nghiệp để cải tiến mẫu mã, nâng cao chất
lượng sản phẩm, mục đích cuối cùng là để dành
thị phần trước các đối thủ cạnh tranh. ĐMCN có
được là nhờ vận dụng những kết quả của hoạt
động nghiên cứu và triển khai (R&D) bởi vậy mà
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email:
https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4202
hàng năm các “đại gia lớn” như Apple,
Facebook, Sony, Samsung,đầu tư hàng tỷ đôla
Mỹ cho hoạt động R&D. Thực tế cho thấy, quá
trình ĐMCN của các hãng nổi tiếng này ở giai
đoạn mới thành lập khi chưa có nhiều vốn tự có,
họ luôn gặp trở ngại trong việc tìm nguồn vốn,
tìm biện pháp khai thác các thành tựu của R&D
với một lượng vốn đủ lớn.
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
14
Đầu tư cho R&D đã tiêu tốn một lượng vốn
khổng lồ, sản nghiệp hóa lại lớn tốn kém gấp
nhiều lần và rất rủi ro. Bởi một công nghệ muốn
đi vào sản xuất phải qua giai đoạn sản xuất thử,
nắm vững sản xuất và thích nghị với thị trường.
Thử nghiệm hoàn toàn có thể bị thất bại. Chế độ
tín dụng ngắn hạn, lãi suất cao không thể thỏa
mãn những điều kiện của ĐMCN. Việc đòi hỏi
một chế độ tín dụng dài hạn, lãi suất thấp cho
hoạt động ĐMCN là điều không tưởng, không
khả thi đối với bản chất của hoạt động ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường.
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, Việt Nam
đã tham gia ký kết nhiều Hiệp định thương mại
tự do, cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập
cuối năm 2015buộc các doanh nghiệp Việt
Nam phải cạnh tranh được với các doanh nghiệp
nước ngoài để tồn tại và phát triển ngay chính tại
sân nhà. Con đường tới đích không gì khác
ngoài việc phải ĐMCN. Vấn đề đặt ra là phải
đi tìm được nguồn vốn thỏa mãn với các đặc
điểm của hoạt động ĐMCN và phù hợp với
kinh tế thị trường.
ĐTMH chính là phương tiện hữu hiệu nhất,
là lời giải cho những thách thức về nhu cầu vốn
của hoạt động ĐMCN. Nó được ví như đánh một
“canh bạc” được ăn, lỗ chịu, một luật chơi với
đầy tính mạo hiểm. Nhưng mạo hiểm càng nhiều,
khi thắng sẽ giành được thế mạnh áp đảo trong
cạnh tranh, sẽ thu về những khoản lợi nhuận
khổng lồ. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà
nghiên cứu thị trường công nghệ đã có câu nói
bất hủ: “Công nghệ là trò chơi của người giàu,
ước mơ của người nghèo và chìa khóa của người
thông minh”. Chúng ta là người nghèo đi vào
kinh tế thị trường. Nếu muốn chứng tỏ là người
thông minh, chúng ta cần biết khơi dậy trò chơi
mạo hiểm này của người giàu để tìm chìa khóa
cho sự phát triển của mình. Một trong những trò
chơi ấy, chính là sử dụng vốn ĐTMH thông qua
việc hình thành của các quỹ ĐTMH.
Ở Việt Nam hiện nay, những tiếp cận về quỹ
ĐTMH đã có ở những năm 90 của thế kỷ trước,
song vấn đề thành lập quỹ này ở nước ta còn rất
thời sự. Nhận diện những điều kiện cần và đủ để
hình thành quỹ ĐTMH cho hoạt động ĐMCN sẽ
góp phần xác định được những yếu tố chưa sẵn
sàng của việc thành lập quỹ này ở Việt Nam.
2. Đặc điểm của đầu tư mạo hiểm, hoạt động
đổi mới công nghệ và vai trò của quỹ đầu tư
mạo hiểm với hoạt động đổi mới công nghệ
2.1. Đặc điểm của đầu tư mạo hiểm
Đối tượng đầu tư của quỹ mạo hiểm là những
cá nhân có ý tưởng độc đáo khả thi, những công
ty vừa và nhỏ đang rất cần vốn đặc biệt là các
công ty đang muốn đầu tư công nghệ mới hoặc
các doanh nghiệp mới thành lập bắt đầu cho ra
những sản phẩm mới khác biệt, có triển vọng
nhân rộng trong tương lai.
Đặc trưng cơ bản của ĐTMH là còn thiếu độ
tin cậy về kết quả kinh doanh, chưa tỏ rõ khả
năng sinh lợi của mình – điều tối kỵ khi quyết
định cho vay của các thể chế tài chính truyền
thống. Thay vì cho vay, họ đầu tư vốn để một
công ty có thể khởi nghiệp hoặc ĐMCN đồng
thời nhận lấy một tỷ lệ cổ phần không có lãi cố
định hoặc quyền sở hữu cổ phần trong công ty
mà họ đầu tư. Việc sử dụng đầu tư cổ phần không
hưởng lãi cố định thay cho vay nợ giúp xóa bỏ
tình trạng phải hoàn trả tiền vay theo định kỳ. Nó
cho phép các công ty mới thành lập có thể đầu tư
số tiền thu được để triển khai một ý tưởng mới
về sản phẩm hoặc dịch vụ dựa trên công nghệ
mới đồng thời tạo ra một cơ sở vật chất mà
công ty có thể sử dụng để thu hút thêm vốn từ
bên ngoài.
Việc hỗ trợ tài chính thông qua hình thức cổ
phần không hưởng lãi cố định tạo điều kiện cho
các nhà ĐTMH chịu được những rủi ro từ các
khoản đầu tư lớn vì một khoản đầu tư mang lại
thành công và lợi nhuận lớn có thể thừa sức bù
đắp lại một loạt những khoản đầu tư hòa hoặc lỗ
vốn. Để hạn chế sự không chắc chắn trong đầu
tư, các nhà ĐTMH kiểm tra, đánh giá một cách
thận trọng những đề xuất, kế hoạch kinh doanh
và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý công
ty do họ đầu tư.
Các nhà ĐTMH còn tham gia tích cực vào
quản lý và tư vấn doanh nghiệp. Đây là hình thức
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
15
trợ giúp phi tài chính cho các công ty mà họ rót
vốn. Các nhà ĐTMH có nhiều kinh nghiệm và
các mối quan hệ, vì vậy có thể giúp các công ty
trong việc tư vấn pháp lý, bảo hộ bằng sáng chế,
các dịch vụ kế toán,Tất cả những hỗ trợ này
đã tạo ra một giá trị gia tăng hấp dẫn cho các vụ
ĐTMH nhằm tạo thuận lợi cho công ty được đầu
tư có đủ khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế.
Khác với các nhà đầu tư thiên thần (angel
investor) là những người tự bỏ tiền túi của mình
đầu tư vào các doanh nghiệp đang ở giai đoạn
“trứng nước”, thì quỹ ĐTMH thường quản lý
nguồn vốn tương đối lớn từ nhiều nhà đầu tư
khác nhau để đầu tư vào các công ty khởi nghiệp
hoặc ĐMCN. Các quỹ ĐTMH thường kiếm tiền
thông qua phần trăm lợi nhuận đầu tư và tìm cách
tối đa hóa lợi nhuận từ khoản đầu tư trong thời
gian vài năm trước khi thoái vốn khỏi công ty đã
đầu tư. Nhưng với nhà đầu tư thiên thần thì phải
kiên nhẫn chờ cho đến khi công ty mà họ đầu tư
trưởng thành và bán được giá.
Quỹ ĐTMH nhìn chung cũng có những đặc
điểm của quỹ đầu tư thông thường đó là một định
chế tài chính phi ngân hàng, là loại hình doanh
nghiệp được chuyên môn hóa trong lĩnh vực đầu
tư, mang đặc điểm của một ngành chuyên kinh
doanh vốn trung – dài hạn, thông qua hoạt động
đầu tư gián tiếp hoặc trực tiếp. Quỹ đầu tư cho
các nhà đầu tư tham gia vào thị trường tài chính
thông qua một danh mục đầu tư và thường xuyên
được đặt dưới sự giám sát chuyên nghiệp. Tuy
nhiên, quỹ ĐTMH luôn hướng đến những lĩnh
vực mới và mục đích chính của quỹ bao giờ cũng
hướng tới TTCK – nơi mang lại lợi nhuận cao
khi thành công mặc dù chứa đựng nhiều rủi ro.
Các quỹ ĐTMH chuyên nghiệp cung cấp
nguồn tài chính hỗ trợ cho việc khởi xướng, gây
dựng và mở rộng doanh nghiệp, cũng như nguồn
tài chính cho quản lý/mua lại phần đầu tư lớn.
2.2. Đặc điểm của hoạt động đổi mới công nghệ
Nếu như một trong những đặc điểm của công
nghệ là tính lặp lại chu kỳ thì ĐMCN lại tuân
theo quy luật chu trình. Tức là nó được sinh ra,
phát triển và cuối cùng bị đào thải bởi một công
nghệ mới hơn. Những yếu tố có thể làm ảnh
hưởng đến ĐMCN như nhu cầu của thị trường
thúc đẩy để mở rộng sản xuất, sự thành công của
hoạt động R&D, nhu cầu cạnh tranh để tồn tại và
phát triển, chính sách hỗ trợ của Chính phủ trong
đổi mới,
Để tạo ra thành công của R&D đã phải đầu
tư nhiều tiền của rồi đến việc tìm nguồn vốn, tìm
biện pháp khai thác các thành tựu của R&D cũng
tiêu tốn một lượng vốn đáng kể. Trên thực tế, hệ
thống tín dụng đã không làm được vai trò gì lớn
trong công cuộc ĐMCN vào sản xuất. Lý do rất
đơn giản, một công nghệ muốn đi vào sản xuất
phải qua giai đoạn thử nghiệm, giai đoạn làm
quen với thị trường. Thử nghiệm hoàn toàn có
thể bị thất bại. Chế độ tín dụng ngắn hạn, lãi suất
cao không thể thỏa mãn những điều kiện của
ĐMCN nếu không muốn nói là bóp chết mọi ý
đồ ĐMCN từ trong trứng nước. Bài toán nguồn
vốn từ đâu là phù hợp để ĐMCN cần có lời giải
đáp hơn lúc nào hết để doanh nghiệp tháo gỡ
được những khó khăn trong những vấn đề tài
chính liên quan đến hoạt động ĐMCN.
2.3. Vai trò của quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt
động đổi mới công nghệ
Xét về bản chất, hệ thống tín dụng thông
thường không thể thúc đẩy ĐMCN khi mà khả
năng thành công về kỹ thuật và thương mại còn
chưa rõ ràng. Trên thực tế, hệ thống tín dụng
không có vai trò gì đáng kể trong ĐMCN của
doanh nghiệp do bản chất kinh doanh của hoạt
động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng không thể thực hiện chế độ tín dụng
dài hạn, lãi suất thấp, có rủi ro về khả năng
thương mại, phù hợp với quy luật ĐMCN.
Chúng ta không thể và cũng không nên đòi
hỏi ngành ngân hàng phải thực hiện chế độ tín
dụng dài hạn, lãi suất thấp cho hoạt động
ĐMCN. Đòi hỏi như thế là không hiểu biết về
bản chất của hoạt động ngân hàng trong nền kinh
tế thị trường. Đương nhiên, các ngân hàng
thương mại quốc doanh, với những khoản vốn
lớn nhận được từ nguồn như hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA), các khoản tài trợ lớn của
Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu
(EU), có thể là những nơi có chế độ tín dụng dài
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
16
hạn, lãi suất thấp nhưng đối với công nghệ vốn
chứa đựng những rủi ro kỹ thuật và thương mại,
lại không thuộc đối tượng của những nguồn vốn
này. Do vậy, muốn có một chế độ tạo vốn nào đó
cho ĐMCN, phải đi theo một hướng tiếp cận
khác phù hợp với kinh tế thị trường.
ĐTMH giống như một “canh bạc” của những
nhà giàu chịu chơi, được ăn, lỗ chịu, một luật
chơi chỉ có trong điều kiện phát triển TTCK , nó
là lời giải cho những thách thức của trò chơi công
nghệ trong nền kinh tế thị trường. Những người
ném tiền cho vốn mạo hiểm đã ý thức rất rõ tính
chất mạo hiểm của nó. Về bản chất, họ mang ý
thức của “kẻ đánh bạc”, nhưng điểm khác là họ
phải xem xét khả năng thành công của những
công nghệ mới sẽ được áp dụng. Đây là điểm
khác biệt cơ bản giữa ĐTMH và đánh bạc và đây
cũng chính là lý do để các quỹ ĐTMH chứng
minh được lẽ tồn tại của mình trong kinh tế thị
trường. Lẽ sống của ĐTMH là ở chỗ, nó đòi hỏi
nhà đầu tư phải bỏ vốn dài hạn, nếu sinh lời thì
cùng ăn chia, nếu lỗ thì cùng nhau chịu và tính
mạo hiểm càng cao thì khả năng sinh lợi càng
lớn ĐTMH thông qua hình thành các quỹ là lời
giải cho những thách thức về vốn để ĐMCN.
Hơn nữa, bằng trình độ, kinh nghiệm và
mạng lưới liên kết rộng lớn của mình, quỹ
ĐTMH không chỉ cung cấp vốn mà còn hỗ trợ
các hoạt động của doanh nghiệp như: tư vấn về
mặt pháp lý, tìm kiếm thị trường, liên kết thông
tin, quản lýĐây là điểm khác biệt quan trọng
nhất của ĐTMH so với các loại hình đầu tư thông
thường khác qua các ngân hàng hoặc các tổ chức
tín dụng. Có thể nói, ĐTMH chính là chìa khóa
gỡ bỏ những khó khăn khi huy động vốn để
ĐMCN.
3. Nguồn vốn cho hoạt động đổi mới công
nghệ ở Việt Nam hiện nay
Luật KH&CN năm 2013 đã thể hiện quan
điểm “ĐMCN là để phục vụ lợi ích của con
người và xã hội”. Tại Khoản 5, Điều 50 khẳng
định mục đích chi ngân sách nhà nước cho
KH&CN là “hỗ trợ việc thực hiện nghiên cứu và
ĐMCN thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm” [1].
Thêm vào đó Nhà nước thành lập, khuyến khích
tổ chức, cá nhân thành lập các quỹ hỗ trợ, đầu tư
cho hoạt động KH&CN để huy động nguồn lực
xã [hội nhằm hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động
KH&CN. Quỹ ĐMCN, quỹ ĐTMH công nghệ
cao được thành lập theo quy định của Luật
chuyển giao công nghệ, Luật công nghệ cao.
Như vậy, quan điểm của Nhà nước là lấy tiền từ
ngân sách nhà nước để chi ĐMCN và cũng chưa
có một văn bản pháp lý chính thức nào quy định
về quỹ ĐTMH cho hoạt động ĐMCN.
Hiện tại ở Việt Nam, đầu tư cho KH&CN
chủ yếu huy động từ ngân sách nhà nước
(NSNN), con số này hiện nay là 2%/năm. Tuy
nhiên chưa năm nào được cấp đủ mặc dù ở nhiều
nơi cũng không sử dụng hết trong khi một số tổ
chức nghiên cứu lại thiếu ngân sách để thực hiện.
Lý do của việc phần kinh phí giao cho KH&CN
dưới 2% là vì Bộ KH&CN phải để dự phòng và
an ninh, quốc phòng liên quan đến KH&CN.
Trong những năm qua, kinh phí sự nghiệp
khoa học từ ngân sách trung ương và địa phương
được tập trung dành cho các hoạt động của các
tổ chức KH&CN, chủ yếu được dành cho chi
hoạt động thường xuyên, phần còn lại được dành
cho chi các nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia, cấp
bộ, cấp tỉnh. Trong khi đó, hoạt động ĐMCN
quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp để nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của sản phẩm chủ yếu dựa
trên thành tựu của các nhiệm vụ KH&CN cấp
quốc gia, một phần từ các nhiệm vụ cấp bộ, cấp
tỉnh.
Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số
14/2008/QH12 ngày 3/6/2008, tại Điều 17, cho
phép doanh nghiệp được trích tối đa 10% lợi
nhuận trước thuế để thành lập quỹ phát triển
KH&CN trong doanh nghiệp, sử dụng để đầu tư
cho hoạt động KH&CN [2]. Theo đó, mỗi doanh
nghiệp lớn hay nhỏ thực hiện chế độ kế toán, hóa
đơn, chứng từ và nộp thuế theo kê khai thì có
quyền được trích lập quỹ phát triển KH&CN.
Một trong những lợi ích dễ nhận thấy nhất khi
doanh nghiệp trích lập quỹ đó là doanh nghiệp sẽ
được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặc dù
đây là một trong những chính sách có lợi cho
doanh nghiệp, nhưng việc trích lập quỹ phát triển
KH&CN không nhận được sự hưởng ứng tích
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
17
cực từ các doanh nghiệp. Theo quy định mức
trích tối đa là 10% nên nhiều doanh nghiệp có
thể trích 0% mà vẫn không vi phạm. Trong thời
hạn 5 năm kể từ khi trích lập, nếu quỹ phát triển
KH&CN không được sử dụng hoặc sử dụng
không đúng mục đích thì doanh nghiệp phải nộp
NSNN phần thuế thu nhập doanh nghiệp tính
trên khoản thu nhập đã trích lập quỹ và phần lãi
phát sinh từ số thuế thu nhập của doanh nghiệp
đó. Lo ngại phải đứng trước nguy cơ bị truy thu
thuế sau khi trích lập quỹ, các doanh nghiệp đã
chọn giải pháp an toàn là không trích lập quỹ
phát triển KH&CN.
Hơn nữa, trên thực tế, 10% được trích lập chỉ
là một phần chi phí nhỏ mà Nhà nước hỗ trợ cho
doanh nghiệp, còn lại là doanh nghiệp tự bỏ tiền
túi ra để đầu tư ĐMCN.
Bảng 1. Tỷ lệ đầu tư cho ĐMCN của doanh nghiệp
tính trên doanh thu
Tỷ lệ các doanh
nghiệp (%)
Tỷ lệ đầu tư cho ĐMCN tính
trên doanh thu (%)
47 % Ít hơn 0.05%
31% Từ 0.5 đến 1%
13 % Từ 1 đến 2%
9 % Trên 2%
Nguồn: TS. Nguyễn Hữu Xuyên (2016)
- Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu sáng chế và Khai thác
công nghệ, Bộ KH&CN
Thực tế, số chi đầu tư cho KH&CN không
chỉ thấp và ít ở doanh nghiệp mà mấy năm qua
chi từ NSNN cho lĩnh vực trên cũng luôn ở hạng
“áp chót”. Cụ thể, theo báo cáo kết quả kiểm toán
về thu chi ngân sách của Kiểm toán Nhà nước
(thực hiện trong cả năm 2015 về năm tài chính
2014), tại 9 bộ và 31 tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, dự toán chi KH&CN năm 2014 chỉ
đạt bằng 1,36% tổng chi NSNN [3]
Đây là số chi thấp hơn nghị quyết của Quốc
hội đã giao cho Chính phủ, yêu cầu chi đầu tư
cho KH&CN mỗi năm 2% tổng chi NSNN. Đáng
nói, nếu xét trong cơ cấu NSNN chi thường
xuyên, KH&CN chỉ đạt hơn 7.000 tỷ đồng,
chiếm chưa đầy 1% chi thường xuyên được
Quốc hội và Chính phủ giao. Mọi sự so sánh có
vẻ khập khiễng nhưng cũng nên nói thêm ở đây
rằng tổng chi cho KH&CN Việt Nam không
bằng ngân sách hàng năm cho Viện KH&CN
Hàn Quốc (KIST).
Nguồn vốn để ĐMCN hiện nay chủ yếu từ
ngân sách Nhà nước. Điều này thể hiện ngay
trong chính Luật Khoa học và Công nghệ năm
2013. Một công nghệ muốn đi vào đời sống, phải
trải qua nhiều giai đoạn. Thử nghiệm hoàn toàn
có thể thất bại không thể đảm bảo nguyên tắc bảo
toàn vốn của Nhà nước như trong Nghị định số
91/2005/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ngày
13 tháng 10 năm 2015 quy định về đầu tư vốn
nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng
vốn, tài sản tại doanh nghiệp.
Với tính chất không chắc chắn về sự thành
công của sản phẩm từ ĐMCN thì vốn ngân sách
Nhà nước là không phù hợp. Bên cạnh đó, nguồn
vốn ngân sách cũng không thể đáp ứng được hết
nhu cầu của các doanh nghiệp. Cùng với đó là
những quy định liên quan trong quản lý chi ngân
sáchkhiến doanh nghiệp vô cùng khó khăn
trong việc tiếp cận nguồn vốn này.
Hệ thống tín dụng thông thường không thể
thúc đẩy ĐMCNQ khi mà khả năng thành công
về kỹ thuật và thương mại còn chưa rõ ràng.
Ngân hàng không thể thực hiện chế độ tín dụng
dài hạn, lãi suất thấp, có rủi ro về khả năng
thương mại, phù hợp với quy luật ĐMCN. Chế
độ tài chính của ngân hàng không khả thi để
ĐMCN, cần có một hình thức đầu tư vốn phù
hợp với đặc điểm của ĐMCN.
4. Đầu tư mạo hiểm cho hoạt động đổi mới
công nghệ tại Việt Nam – Những thuận lợi và
khó khăn
4.1. Những thuận lợi
- Các Hiệp định thương mại tự do liên tiếp
được ký kết: Hiện nay Việt Nam đã tham gia 12
Hiệp định thương mại tự do và đang đàm phán 4
Hiệp định (FTA-Free Trade Agreement), những
Hiệp định này nhằm loại bỏ các rào cản thương
mại, tăng cường hoạt động xuất, nhập khẩu và
thu hút đầu tư, đồng thời góp tăng cường quan
hệ ngoại giao giữa các bên và đặc biệt khi thị
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
18
trường trong nước mở cửa buộc sự cạnh tranh
hoàn hảo phải diễn ra thực sự theo quy luật của
kinh tế thị trường.
Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) được hy vọng là sẽ tạo nền để Việt Nam
có một nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh
hoàn hảo nhưng thực tế sau gần 10 năm những
gì mang lại chưa thực sự như mong đợi ban đầu.
Việc ký hiệp định FTA và cộng đồng ASEAN
thành lập buộc nền kinh tế Việt Nam phải chuyển
mình để thích nghi, tồn tại, đồng thời khiến các
doanh nghiệp Việt phải cải thiện năng suất lao
động, tạo ra được các sản phẩm chất lượng và giá
thành phù hợp để có thể cạnh tranh với hàng hóa
nước ngoài tại thị trường Việt Nam.
Tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do
có nghĩa rằng uy tín ngoại giao của Việt Nam
trên trường quốc tế đã được khẳng định. Nhưng
cùng với đó là những thách thức theo chuẩn các
quy định đã ký kết. Hàng hóa không đảm bảo
chất lượng, giá thành không phù hợp thì việc bị
đánh bại bởi các doanh nghiệp nước ngoài ngay
chính tại sân nhà là việc có thể lường trước. Chìa
khóa hữu hiệu nhất là ĐMCN để có thể cạnh
tranh. Hơn nữa, quá trình hội nhập sâu rộng
này không thể diễn ra trong một nền kinh tế
chộp giật, không thể tồn tại trong một hệ thống
kiểm toán còn đang non yếu và nhất là thiếu
một hệ thống pháp luật có hiệu lực của nền
kinh tế thị trường.
- TTCK Việt Nam đã có hơn 15 năm hình
thành và phát triển: TTCK Việt Nam đã có tồn
tại được hơn 15 năm, dù có những thời điểm thị
trường bị ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh
tế toàn cầu, sự mất lòng tin của nhà đầu
tưNhưng cũng không thể phủ nhận hơn 15
năm cũng đủ để TTCK Việt Nam đi vào quỹ đạo
và đang có những bước khởi sắc xanh trở lại. Sự
phát triển của TTCK làm gia tăng vốn ĐTMH vì
đây chính là một kênh thoái vốn hiệu quả nhất
của quỹ ĐTMH thông qua việc phát hành cổ
phiếu của doanh nghiệp đầu tư lần đầu ra công
chúng (IPO). Hơn nữa, một TTCK phát triển
toàn diện không những cung cấp cho các quỹ
một kênh thoái vốn thuận lợi, dễ dàng mà còn
phản ánh giá trị doanh nghiệp trên thị trường, thể
hiện sự thành công của doanh nghiệp nhận đầu
tư cũng như quỹ ĐTMH và từ đó nâng cao uy tín
của họ trên thị trường.
- Chính sách của Nhà nước liên quan đến
đầu tư mạo hiểm: Dù chưa có những bước đi
mạnh bạo và đầu tư cần thiết cho sự hình thành
quỹ ĐTMH cho ĐMCN nhưng cũng phải thừa
nhận rằng trong những năm gần đây Nhà nước
đã có sự quan tâm đối với việc tạo hành lang
pháp lý cho sự hình thành quỹ ĐTMH. Đơn cử
là việc năm 2016 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây
dựng Dự thảo Thông tư hướng dẫn về việc thành
lập, tổ chức quản lý và hoạt động của Quỹ
ĐTMH cho khởi nghiệp sáng tạo. Luật Khoa học
và Công nghệ Việt Nam năm 2013 cũng đã nhắc
đến quỹ đầu tư mạo hiểm dù còn rất mờ nhạt.
4.2. Những khó khăn
- Máy móc trong sản xuất còn rất lạc hậu:
Hiện nay ngành công nghệ chế tạo máy của Việt
Nam đang ở trình độ rất thấp vì thế chưa thể cung
cấp "máy cái" cho các doanh nghiệp. Vì vậy,
chúng ta phải nhập khẩu thiết bị máy móc để sản
xuất. ĐMCN không chỉ đơn giản thay máy cũ
bằng máy mới mà phải có một hệ thống quản lý
tiên tiến, đào tạo được đội ngũ nhân lực trình độ
cao phù hợp với công nghệ mới. Doanh nghiệp
phải đầu tư đồng bộ cả 3 yếu tố này thì mới thực
sự là đổi mới được công nghệ.
Nhà nước vẫn chấp nhận cho nhập khẩu máy
móc, thiết bị cũ nhưng không được quá lạc hậu
để đảm bảo phát triển sản xuất bền vững, lượng
vốn đầu tư vào sản xuất không quá lớn góp phần
hạ giá thành sản phẩm. Khi chúng ta phải cạnh
tranh với hàng hóa của các nước tiên tiến, nếu sử
dụng thiết bị quá lạc hậu sẽ không sản xuất được
các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. Vì
thế, tất cả các nước đều có quy định hạn chế việc
nhập thiết bị cũ, đảm bảo sự an toàn cho nền kinh
tế. Thậm chí, các nước phát triển cấm hoàn toàn
việc nhập khẩu thiết bị cũ.
Khi được hỏi về tính hiện đại của dây chuyền
máy móc trong các doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay, một chuyên gia kinh tế cho biết [4]:
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
19
Hộp 1. “Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình
của thế giới khoảng 2 - 3 thế hệ. Trong đó, 75% số máy móc, dây chuyền công nghệ thuộc thế hệ
những năm 1960 – 1970, 75% số thiết bị đã hết khấu hao, 50% là đồ tân trang.
Chỉ khoảng 30% số doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng, khiến
các doanh nghiệp thuộc khu vực này không có đủ năng lực tài chính để đầu tư cho máy móc, công
nghệ.”.
(Nam, 52 tuổi, chuyên gia kinh tế độc lập)
Nhà nước có quy định chi đầu tư cho
KH&CN mỗi năm là 2% tổng chi NSNN. Nhưng
thực tế chi cho KH&CN chưa đạt nổi còn số mà
Quốc Hội và Chính phủ giao. Kinh phí cho
ĐMCN chủ yếu từ NSNN mà tổng kinh phí cho
KH&CN luôn ở vị trí “đội sổ” trong phân bổ
kinh phí quốc gia thì thử hỏi làm sao có thể
ĐMCN thành công? Không có vốn để ĐMCN,
các doanh nghiệp vẫn duy trì sử dụng máy móc
lạc hậu khiến năng suất thấp, khó có thể cạnh
tranh với hàng hóa nước ngoài với mẫu mã
phong phú, giá thành rẻ.
- Năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn
hạn chế: Ở Việt Nam chủ yếu là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, vốn đầu tư kinh doanh ban
đầu là vốn tự có. Việc tìm kiếm một nguồn vốn
để thực hiện các ý tưởng kinh doanh hay đầu tư
cho ra đời một sản phẩm mới nhờ ứng dụng
thành tựu R&D để ĐMCN là còn rất hiếm ở
Việt Nam.
Việc rót vốn mạo hiểm còn hạn chế ở các
doanh nghiệp Việt Nam có lý do xuất phát từ cả
nhà đầu tư và bản thân doanh nghiệp. Các nhà
đầu tư khi hướng đến thị trường Việt Nam
thường chú ý đến các doanh nghiệp đã có tiếng
vang vì họ đã có uy tín trên thị trường, có chế độ
kế toán minh bạchviệc để hai bên tìm thấy
nhau được những cơ hội hợp tác ở nhau cần có
sự tham gia của một bên trung gian mà như ở
một số nước chính là Hiệp hội đầu tư mạo hiểm
quốc gia.
Các nhà ĐTMH tuy đã tìm đến Việt Nam
cách đây hơn 20 năm tuy nhiên mức ĐTMH còn
hạn chế bởi tâm lý e dè về thể chế Nhà nước, về
những quy định pháp lý chưa rõ ràng, về sự thiếu
minh bạch trong báo cáo tài chính ở các doanh
nghiệp Việt Nam còn khiến nhà đầu tư chưa tin
tưởngNgoài ra, tiêu chuẩn đánh giá của các
nhà đầu tư nước ngoài đôi khi vượt quá khả năng
đáp ứng của doanh nghiệp Việt. Bên cạnh đó, sự
cạnh tranh không công bằng giữa các khu vực
kinh tế cùng với sự thiếu độc lập của hệ thống tư
pháp là nguyên nhân khiến nhà đầu tư nước
ngoài e dè khi rót vốn tại thị trường Việt Nam.
Theo báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh toàn
cầu 2016-2017 do Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) công bố, Việt Nam xếp hạng thứ 60 trong
tổng số 138 nền kinh tế được xếp hạng (đạt 4.31
điểm với thang điểm 7 là cao nhất). Nếu so sánh
với điểm xếp hạng của năm trước có thể thấy có
sự tăng nhẹ về điểm số (năm 2016 là 4.3 điểm)
nhưng tụt 4 hạng so với năm 2015-2016. Ở khu
vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 6, sau
Singapore (xếp hạng 2), Malaysia (xếp hạng 25),
Thái Lan (xếp hạng 34), Indonesia (xếp hạng 41)
và Philippines (xếp hạng 57).
Theo báo cáo mới nhất về năng lực cạnh
tranh toàn cầu năm 2017-2018 mới được Diễn
đàn kinh tế thế giới công bố, Việt Nam được xếp
hạng 55 trên 137 quốc gia, là thứ hạng cao nhất
của Việt Nam kể từ khi WEF đưa ra chỉ số năng
lực cạnh tranh toàn cầu tổng hợp vào năm 2006.
Với thứ hạng này, Việt Nam xếp trên một số
nước ASEAN như Philippines (56), Campuchia
(94), Lào (98), nhưng xếp dưới Indonesia (36),
Thái Lan (32), Malaysia (23), Singapore (3), và
hai nền kinh tế lớn của châu Á là Trung Quốc
(27) và Ấn Độ (40). [5]
Các yếu tố cấu thành nên chỉ số năng lực
cạnh tranh toàn cầu có thể nói đến như năng lực
cạnh tranh tổng hợp, yếu tố điều kiện cơ bản(thể
chế, cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô, y
tế và giáo dục phổ thông), yếu tố thúc đẩy hiệu
quả nền kinh tế(giáo dục đại học, hiệu quả của
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
20
thị trường hàng hóa và thị trường lao động, độ
phát triển của thị trường tài chính, độ sẵn sàng
về công nghệ, và quy mô của thị trường), yếu tố
về đổi mới sáng tạo và mức độ tinh thông trong
kinh doanh(số lượng và chất lượng nhà cung ứng
địa phương, sự phát triển của cụm ngành kinh tế,
độ rộng của chuỗi giá trị...).
Trong khu vực ASEAN, Indonesia tăng 18
bậc, từ hạng 54 năm 2007 lên hạng 36 năm 2017;
Philippines tăng 15 bậc, từ 71 lên 56; Campuchia
tăng 16 bậc, từ 110 lên 94; Ấn Độ tăng tám bậc,
từ 48 lên 40; và Trung Quốc tăng bảy bậc, từ 34
lên 27.
Xét thứ hạng của các nhóm yếu tố thành
phần, trong khi Việt Nam chỉ tăng hai bậc ở
nhóm yếu tố thứ nhất, Indonesia đã tăng 36 bậc,
Philippines tăng 26 bậc, Trung Quốc tăng 13 bậc
và Ấn Độ tăng 11 bậc. Ở nhóm yếu tố thứ hai,
Việt Nam cùng với Trung Quốc và Campuchia
có bước tiến khá tốt khi tăng lần lượt là 9, 13, và
10 bậc; trong khi thứ hạng của Indonesia,
Philippines và Ấn Độ đều giảm ít nhiều. Trái lại,
ở nhóm yếu tố thứ ba, thứ hạng của Việt Nam,
vốn đã thấp, lại bị giảm tám bậc, trong khi trong
khi Trung Quốc tăng 21 bậc, Philippines tăng
bốn bậc, và Indonesia tăng ba bậc.
Từ các quan sát trên cho thấy, trong nỗ lực
nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút đầu tư
và phát triển kinh tế, Việt Nam chịu sự cạnh
tranh mạnh mẽ từ nhiều nền kinh tế tương đồng
về mức độ phát triển và quy mô dân số trong khu
vực, với những cải thiện đáng kể về năng lực
cạnh tranh như là Indonesia và Philippines.[6]
Việc đạt thứ hạng 55 trong bảng NLCT toàn
cầu năm 2017 là một chỉ dấu đáng khích lệ cho
nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, nếu xét riêng
theo từng nhóm yếu tố thành phần cấu thành chỉ
số NLCT tổng hợp thì Việt Nam chỉ đứng trên
Campuchia và Lào trong số các nước kể ở trên.
Ở nhóm yếu tố thứ nhất, Việt Nam chỉ xếp
hạng 75 so với Philippines là 67. Ở nhóm yếu tố
thứ hai, Việt Nam xếp hạng 62, dưới Philippines
một bậc. Tương tự, ở nhóm yếu tố thứ ba, Việt
Nam xếp hạng 84, chỉ hơn Lào một bậc, nhưng
thấp hơn nhiều so với Philippines (61). Điều này
cho thấy, mặc dù năng lực cạnh tranh tổng hợp
của nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến
đáng kể, nhưng xét về thực lực ở từng yếu tố
riêng lẻ thì Việt Nam cần nỗ lực nhiều để bắt kịp
các nước trong khu vực.
- Những điều còn hạn chế trong Luật
KH&CN Việt Nam 2013: Tại Điều 59, Luật
KH&CN năm 2013 có nêu: “Nhà nước thành lập,
khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập quỹ để
huy động nguồn lực xã hội nhằm hỗ trợ, đầu tư
cho hoạt động khoa học và công nghệ. Quỹ phát
triển khoa học và công nghệ được thành lập theo
quy định của Luật này. Quỹ ĐMCN, quỹ đầu tư
mạo hiểm công nghệ cao được thành lập theo
quy định của Luật chuyển giao công nghệ, Luật
công nghệ cao...”Hay tại Điều 31 quy định:“Tổ
chức, cá nhân có quyền đề xuất nhiệm vụ khoa
học và công nghệ để quỹ phát triển khoa học và
công nghệ, quỹ ĐMCN, quỹ đầu tư mạo hiểm
công nghệ cao và các quỹ khác trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ xét tài trợ, cho vay, bảo
lãnh vốn vay theo điều lệ tổ chức và hoạt động
của quỹ.”
Như vậy, vô hình chung trong Luật đã thể
hiện quan điểm dùng tiền ngân sách để thành lập
quỹ ĐTMH và chi cho ĐMCN. Đây là một điều
không phù hợp, không khả thi với quy định quản
lý chi tiền ngân sách bởi nguyên tắc bảo toàn vốn
đầu tư của tiền NSNN và đặc điểm trường vốn
của ĐMCN. ĐTMH với đầy tính rủi ro, có thể
thất bại bất cứ lúc nào, không phải là nơi tiền
ngân sách có thể rót vốn đầu tư được. Nhà nước
nên chỉ giữ vai trò trong việc hình thành các cơ
sở pháp lý, đưa ra các chính sách nhằm thu hút
vốn mạo hiểm.
5. Những điều kiện cần và đủ để hình thành
Quỹ đầu tư mạo hiểm cho hoạt động đổi mới
công nghệ và những yếu tố chưa sẵn sàng của
Việt Nam
5.1. Điều kiện cần để hình thành Quỹ đầu tư mạo
hiểm cho hoạt động đổi mới công nghệ
* Công nghệ tiềm năng và sự quan tâm cần
thiết cho hoạt động nghiên cứu và triển khai
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
21
ĐMCN có được là nhờ vận dụng những kết
quả của hoạt động nghiên cứu và triển khai
(R&D) bởi vậy mà hàng năm các “đại gia lớn”
như Apple, Facebook, Dell, Samsung,đầu tư
hàng tỷ đôla Mỹ cho hoạt động R&D.
Trung Quốc là nước đầu tư cho R&D nhiều
thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ, các doanh
nghiệp cỡ vừa và lớn đều có bộ phận R&D nhằm
tăng cao khả năng cạnh tranh, đón đầu những xu
thế công nghệ trên thế giới. Đầu tư cho nghiên
cứu và phát triển (R&D) của Trung Quốc tăng
đều đặn bất chấp đà giảm tốc của nền kinh tế.
Trung Quốc hiệnđang nỗ lực tìm cách thúc đẩy
các động lực tăng trưởng mới thông qua đổi mới.
Bên cạnh đó là sự phát triển mạnh mẽ của
các đại học nghiên cứu ở Trung quốc, nơi đây
đang trở thành các trung tâm nghiên cứu công
nghệ không chỉ của Trung Quốc mà là toàn thế
giới như Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc
Kinhvới hoài bão cân bằng vị thế trong lĩnh
vực công nghệ với Hoa Kỳ và tiên phong trong
một số lĩnh vực nhất định, đặc biệt như trí tuệ
nhân tạo AI và robot. Hội đồng Nhà nước Trung
Quốc đã đặt mục tiêu xây dựng một ngành công
nghiệp AI trong nước trị giá gần 150 tỷ USD
trong vài năm tới và biến Trung Quốc thành một
"trung tâm sáng tạo cho AI" vào năm 2030.
* Thị trường chứng khoán – kênh thoái vốn
quan trọng của quỹ ĐTMH
Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, TTCK là một
kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế.
Đối với các nhà đầu tư, TTCK là kênh đầu tư hấp
dẫn, là nơi thoái vốn nhanh và hiệu quả từ đó làm
tăng nguồn vốn đầu tư. Một số nghiên cứu đã coi
ĐTMH là hành lang của TTCK, là con đẻ của
TTCK và cũng là sản phẩm của TTCK.
Mặt khác, sự phát triển toàn diện của TTCK
cũng làm gia tăng vốn ĐTMH vì đây chính là
một kênh thoái vốn hiệu quả nhất của quỹ
ĐTMH thông qua việc phát hành cổ phiếu của
doanh nghiệp đầu tư lần đầu ra công chúng
(IPO). Chính điều này làm cho hàng hóa trên
TTCK ngày càng phong phú và đa dạng, giúp các
nhà đầu tư chứng khoán có nhiều cơ hội lựa chọn
danh mục đầu tư để đa dạng hóa đầu tư và giảm
thiểu rủi ro, từ đó thu hút được nhiều nhà đầu tư,
tăng tính thanh khoản.
Hơn nữa, một TTCK phát triển toàn diện
không những cung cấp cho các quỹ một kênh
thoái vốn thuận lợi, dễ dàng mà còn phản ánh giá
trị doanh nghiệp trên thị trường, thể hiện sự
thành công của doanh nghiệp nhận đầu tư cũng
như quỹ ĐTMH và từ đó nâng cao uy tín của họ
trên thị trường.
Như vậy, mối quan hệ giữa TTCK và ĐTMH
là mối quan hệ tương trợ cùng hỗ trợ nhau đạt
được mục tiêu của các bên khi tham gia vào quỹ
ĐTMH. Mối quan hệ này không thể tách rời
trong suốt quá trình hoạt động và phát triển của
quỹ.
5.2. Điều kiện đủ để hình thành Quỹ đầu tư mạo
hiểm cho hoạt động đổi mới công nghệ
* Thị trường hoàn hảo, lành mạnh
Đứng trước thách thức cánh cửa của cộng
đồng ASEAN, các doanh nghiệp Việt Nam
không còn cách nào khác ngoài việc phải thay
đổi để sinh tồn ngay chính tại sân nhà trong cuộc
cạnh tranh với các doanh nghiệp từ các quốc gia
khác trong ASEAN. Chính thời điểm này buộc
phải dỡ bỏ sự ì ạch trước kia để hội nhập, để cạnh
tranh sinh tồn.
Hiện nay ngành công nghệ chế tạo máy của
Việt Nam đang ở trình độ rất thấp vì thế chưa thể
cung cấp "máy cái" cho các doanh nghiệp. Vì
vậy, chúng ta chủ yếu vẫn phải nhập khẩu thiết
bị máy móc để sản xuất. Khi phải cạnh tranh với
hàng hóa của các nước tiên tiến, nếu vẫn tiếp tục
sử dụng thiết bị quá lạc hậu sẽ không sản xuất
được các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành
hạ. Bởi vậy, hội nhập quốc tế sâu rộng có thể coi
là chất xúc tác nhanh nhất để doanh nghiệp phải
ĐMCN. Bài toán “đổi mới hay là chết” được cần
tìm lời giải hơn lúc nào hết.
* Những nhà đầu tư thông minh sẵn sàng rót vốn
đầu tư
Hãy thử tưởng tượng sẽ là như thế nào nếu
cách đây gần 30 năm, hai chàng sinh viên Bill
Gates và Paul Allen phát minh ra phần mềm máy
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
22
tính, nhưng họ lại không nhận được những khoản
đầu tư mạo hiểm để tiếp tục nghiên cứu và phát
triển. Nếu quả thật như vậy thì chắc hẳn ngày nay
không thể có được những thành quả mà các phần
mềm của Microsoft mang lại cho toàn thế giới.
Các doanh nghiệp Việt nam hiện không thiếu các
ý tượng sáng tạo, các kết quả nghiên cứu R&D
của họ đang rất cần vốn đầu tư để sản nghiệp hóa.
Khi nhà đầu tư và doanh nghiệp có chung mục
tiêu và thống nhất quan điểm, cuộc đầu tư mạo
hiểm diễn ra, hành trình mạo hiểm được bắt đầu
và kéo dài chừng 5-7 năm. Ở các nước phát triển
như Khối thịnh vượng chung Châu Âu, Hoa Kỳ,
Hiệp hội ĐTMH quốc gia sẽ là cầu nối giúp thời
gian các cuộc gặp gỡ được rút ngắn. Tổ chức này
rất hữu ích trong việc cung cấp thông tin cho đôi
bên để tìm được sự phù hợp chung, đi đến thỏa
thuận thành công.
Khi được hỏi về tỷ lệ phân chia giữa nhà đầu
tư và doanh nghiệp sau một phi vụ đầu tư thành
công, một chuyên gia trong lĩnh vực ĐTMH tại
Việt Nam cho biết [4]:
Hộp 2: “Trên thế giới, nhiều thương vụ áp dụng tỷ lệ 70-30, tức là doanh nghiệp chiếm 70% cổ
phần, nhà đầu tư sở hữu 30% còn lại.
Tuy nhiên, việc nên chia thế nào còn tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Khi quỹ chúng tôi
mới đầu tư vào Việt Nam cũng từng áp dụng tỷ lệ này, nhưng sau đó cũng có những thương vụ chỉ
sở hữu 25 hoặc 20% cổ phần của công ty. Ngược lại, có những mô hình cần rất nhiều vốn hoặc phải
chấp nhận rủi ro cao thì nhà đầu tư có thể sở hữu đến 70% cổ phần của công ty.
Nếu sản phẩm của bạn thật sự tốt, các nhà đầu tư sẽ không muốn lấy quá nhiều cổ phần của bạn.
Bởi vì họ muốn bạn có động lực để phát triển sản phẩm của mình. Nhưng nếu sản phẩm của bạn
chưa đủ hay, các nhà đầu tư sẽ muốn chiếm một lượng cổ phần cao giống như bảo hiểm cho những
rủi ro mà họ có thể gặp phải".
(Nam, 41 tuổi, nhà đầu tư mạo hiểm)
6. Kết luận
Những năm gần đây, ĐTMH nổi lên ở Việt
Nam như một con gió mới lạ và được mong đợi
sẽ trở thành một xu hướng tất yếu như nó đã diễn
ra ở các nước phát triển nhưng những vấn đề
pháp lý liên quan đến ĐTMH chưa được Chính
phủ Việt Nam quan tâm hoạch định ở mức độ
cần thiết. Hiện tại chưa có luật cụ thể nào điều
chỉnh cho hoạt động đầu tư này. Luật Đầu tư
2014 và Luật Doanh nghiệp 2014 là những luật
có thể áp dụng để điều chỉnh hoạt động này xét
với tư cách là một trong những hình thức đầu tư
nói chung. Ngoài hai nguồn luật nói trên, hoạt
động ĐTMH còn chịu sự điều chỉnh của các văn
bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động đầu
tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư.
Bên cạnh đó, tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động
đầu tư cụ thể mà hoạt động ĐTMH đó sẽ chịu sự
điều chỉnh của những nguồn luật riêng.
Khung pháp lý chưa đảm bảo cho sự hình
thành và vận hành quỹ ĐTMH chính là điểm khó
khăn lớn, là thách thức với những nhà ĐTMH.
Đây cũng chính là nguyên nhân tại sao các quỹ
ĐTMH hiện nay tại Việt Nam hoạt động theo lối
du kích, chưa thực sự hoạt động đúng bản chất
trên thị trường. Việc xây dựng các chính sách,
quy định hướng dẫn thành lập quỹ ĐTMH là yêu
cầu bức thiết trong bối cảnh đi tìm nguồn vốn để
giải quyết nhu cầu của hoạt động ĐMCN.
Cũng phải thừa nhận rằng Việt Nam chưa có
được một nền kinh tế thị trường hoàn hảo. Kinh
tế Việt Nam có nhiều động lực phát triển nhưng
vẫn không ít vướng mắc, vướng mắc lớn nhất có
lẽ là độc quyền kinh tế. Một trong những tiêu chí
để một quốc gia được công nhận có nền kinh tế
thị trường là: “đối xử công bằng giữa các khu
vực doanh nghiệp”. Tuy nhiên ở Việt Nam cho
đến nay vẫn ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước,
bất bình đẳng trong khu vực doanh nghiệp.
Chính vì thế mà Hoa Kỳ và EU không công nhận
P.M. Thuy / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 12-23
23
Việt Nam có nền kinh tế thị trường, điều này gây
bất lợi cho Việt Nam trong quá trình hội nhập
toàn cầu hóa. Sự tham gia ký kết nhiều Hiệp định
thương mại tự do và đặc biệt cộng đồng kinh tế
ASEAN sau 4 năm thành lập cũng đã giúp cho
Việt Nam có được cái chuẩn của nền kinh tế thị
trường dựa vào những cam kết chung theo đó mà
thực hiện.
Huy động vốn từ quỹ ĐTMH là mô hình phù
hợp với đặc điểm của ĐMCN và quy luật của nền
kinh tế thị trường. Trong bối cảnh ở Việt Nam
hiện nay, dù còn những hạn chế đã đẩy lùi sự
hình thành quỹ ĐTMH cho hoạt độngĐMCN
nhưng với nhu cầu của thị trường, nhu cầu về sự
ĐMCN để cạnh tranh sinh tồn thì việc hình thành
quỹ ĐTMH cho hoạt động ĐMCN là điều khả
thi trong tương lai gần ở Việt Nam.
Lời cảm ơn
Bài viết là kết quả nghiên cứu thuộc đề tài
“Nghiên cứu thực trạng và đề xuất chính sách,
giải pháp nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo
(innovation) của doanh nghiệp Việt Nam” (Mã
số KX01.25/16-20) thuộc Chương trình khoa
học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia giai
đoạn 2016- 2020: “Nghiên cứu những vấn đề
trọng yếu về khoa học xã hội và nhân văn phục vụ
phát triển kinh tế xã hội” – Mã số KX.01/16-20.
Tài liệu tham khảo
[1] Quốc hội khóa 13, Luật Khoa học và Công nghệ số
29/2019/QH13 ngày 18/6/2013
[2] Quốc hội khóa 12, Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp số 14/2008/QH12 ngày 03/6/2008
[3] Hà Nguyễn, Địa phương chi sai tiền đầu tư cho
KH&CN,
bo-dia-phuong-chi-sai-tien-dau-tu-cho-khoa-hoc-
cong-nghe-20160710002826637.htm, 2016 (truy
cập ngày 27/7/2018)
[4] Phạm Minh Thúy, Điều kiện để hình thành quỹ
ĐTMH cho hoạt động ĐMCN ở Việt Nam, Luận
văn Thạc sỹ QL KH&CN, 2016
[5] Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Báo cáo chỉ số
năng lực cạnh tranh toàn cầu, năm 2016-2017, năm
2017-2018.
[6] Năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam 10 năm
nhìn lại,
canh-tranh-toan-cau-cua-Viet-Nam-10-nam-nhin-
lai.html, 2017 (truy cập ngày 29/12/2018).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_dien_cac_dieu_kien_de_hinh_thanh_quy_dau_tu_mao_hiem_ch.pdf