Chẩn đoán bệnh lý phân biệt chính cho
hamartoma là dạng u mạch lành tính bao gồm cả
hemangioma. Hamartoma cũng có những kết
quả lâm sàng và X- quang tương tự. Nhuộm mô
miễn dịch có thể được sử dụng để phân biệt một
hamartoma lách và hemangioma mao mạch bởi
các đặc điểm nhuộm của nó. Hamartoma lách
được phân loại thành 2 loại: tủy trắng và tủy đỏ,
dựa vào các thành phần của khối u. Tủy trắng
được tạo thành từ mô bạch huyết, trong khi tủy
đỏ được tạo nên từ các xoang và tương tự như tủy
đỏ bình thường của lách. Hầu hết các case được
báo cáo là tủy đỏ, bao gồm cả báo cáo này. Nhiều
tín hiệu trên siêu âm màu Doppler và rõ ràng
trên CT trong trường hợp của chúng tôi được cho
là sự phản ánh của đặc điểm nhiều mạch máu
trong dạng tủy đỏ.
Nội soi cắt lách là phẫu thuật chuẩn cho việc
xử lý hầu hết các trường hợp xuất huyết giảm tiểu
cầu tự phát vì khả năng xâm hại thấp so với mổ
mở cắt lách. Hơn nữa, nội soi cắt lách trở thành
sự chọn lựa chủ yếu không chỉ cho xuất huyết
giảm tiểu cầu tự phát mà còn cho một số khối u
lách.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 504 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp hamartoma của lách được điều trị tại bệnh viện bình dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 95
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP HAMARTOMA CỦA LÁCH
ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
Bùi Mạnh Côn*, Nguyễn Đức Trung**
TÓM TẮT
Tổng quan: Hamartoma lách là một dạng tổn thương lành tính hiếm gặp, lần đầu tiên được mô tả bởi
Rokitansky vào năm 1861, với tỉ lệ 3/200.000 trường hợp phẫu thuật cắt lách. Mặc dù hamartoma lách được tìm
thấy ở mọi lứa tuổi, nhưng nó được tìm thấy chủ yếu ở người lớn tuổi. Hamartoma lách thường không có triệu
chứng rõ rệt và được xác định một cách tình cờ thông qua khám nghiệm tử thi, nghiên cứu phóng xạ, phẫu thuật
của bệnh Hodgkin.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Case report: Mô tả trường hợp bệnh. Tại bệnh viện Bình Dân
TPHCM.
Kết quả: Một bệnh nhân nam, 50 tuổi, có triệu chứng là đau thượng vị hơn 1 tháng. Khám thực thể, bệnh
nhân không sốt, không sụt cân, các dấu hiệu khác bình thường, khám bụng ấn đau nhẹ thượng vị. Kết quả kiểm
tra cận lâm sàng: số lượng tiểu cầu giảm nhiều: 4,88 x 104/mm3. Số lượng hồng cầu, Hct, Hb, tổng lượng
protein, aspartate aminotransferase, alanine aminotransferase, bilirubin toàn phần và nồng độ huyết thanh
creatinine, urê, LE CELLS, ANA Test, anti-dsDNA, AFP, CA 19-9, CEA đều trong giới hạn bình thường. Siêu
âm Doppler màu cho thấy cực dưới lách có cấu trúc to, mật độ gần bằng nhu mô lách, chèn thận trái sát cơ
hoành. Hình ảnh chụp cắt lớp: thương tổn dạng u rất lớn trong nhu mô lách chưa rõ bản chất: hemangioma?
Hamartoma? Hay lymphoma?. Tủy đồ: hình ảnh tủy tăng hồng cầu và mẫu tiểu cầu. Phẫu thuật nội soi
chuyển mổ hở cắt lách. Tổng thời gian phẫu thuật khoảng 60 phút. Bệnh nhân sau phẫu thuật tốt và được xuất
viện vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật. Lách bị cắt bỏ nặng khoảng 800g và có kích thước 12 x 10 x 7 cm. Mặt cắt
có u chiếm gần toàn bộ mô lách giới hạn không rõ, mặt cắt mềm, bở, màu đỏ sậm. Ở mức hiển vi, toàn bộ mẫu
thử có cấu trúc giống mô lách bình thường với hai thành phần chính là tủy đỏ và tủy trắng. Chẩn đoán: phù hợp
với Hamartoma của lách.
Kết luận: Mặc dù có một số hình ảnh đặc trưng cho hamartoma lách, việc thu thập và phân tích các trường
hợp như thế này là cần thiết để cải thiện độ tin cây của việc chẩn đoán và điều trị.
Từ khóa: Hamartoma lách; U lách; Khối u lách; Nội soi cắt lách; Cắt lách.
ABSTRACT
A CASE OF SPLENIC HAMARTOMA WERE TREATED AT BINH DAN HOSPITAL
Bui Manh Con, Nguyen Duc Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 95 - 101
Objective: Splenic hamartoma is a benign uncommon lesion, first described by Rokitansky in 1861, with an
incidence of 3 in 200 000 splenectomies. Although splenic hamartoma is seen at every age, it is frequently detected
in older people. It is usually asymptomatic and incidentally determined during the autopsy, radiological studies
and surgical staging of Hodgkin disease.
Materials and methods: Case report: Describe a case of splenic hamartoma, at Binh Dan hospital.
* Khoa Gan mật- Bệnh Viện Bình Dân ** Bộ môn Giải phẫu, Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc
Thạch
Tác giả liên lạc: TS. BS Bùi Mạnh Côn ĐT: 0903728632 Email: conbuimanh@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 96
Results: A 50 years old male, has symptoms of epigastric pain more than a month. On physical examination,
patient was no fever, no weight loss, normal of other signs, and abdominal examination with mild epigastric pain.
The laboratory tests shows: the platelet count much decreased: 4.88 x 104/mm3. RBC count, HCT, Hb, total
protein, aspartate aminotransferase, aminotransferase, total bilirubin and serum creatinine, ure, LE CELLS,
ANA Test, anti-dsDNA, AFP, CA 19-9, CEA were all within normal limits. Color Doppler ultrasound showed
inferior pole of spleen with big structure relative, and density relative to the normal splenic parenchyma, insert
left kidney, close to the diaphragm. Tomography computer: a huge tumor lesion was in splenic parenchyma, but
unknown the nature: Hemangioma? Hamartoma? Or Lymphoma? Myelogram: image of marrow increasing red
blood cell and platelet samples. Laparoscopic splenectomy passes to open surgery. The total operation time was 60
min. The postoperative patient was uneventful and was discharged on the seventh postoperative day. The resected
spleen weight 800g and mesured 12 x 10 x 7 cm. The cut surface nearly entire the unclear limited splenic tissue,
and showed soft, friable, dark red. Microscopically, all the samples are the same as normal splenic tissue consisted
of two main components: red pulp and white pulp. Diagnose: Appropriate with splenic hamartoma.
Conclusion: Although there are some imaging features that are specific to splenic hamartomas, the collection
and analysis of these cases is necessary to improve the reliability of the diagnosis and treatment.
Key words: Splenic hamartoma; Splenoma; Splenic tumor; Laparoscopic splenectomy; Splenectomy
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hamartoma là một khối u lành tính, phát
triển với tốc độ tương tự như những mô xung
quanh và mang những yếu tố của mô tại vị trí đó,
nhưng phát triển trong một khối không tổ chức.
Chúng xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau của cơ
thể, thường không có triệu chứng và thường được
phát hiện qua khảo sát bằng chẩn đoán hình ảnh,
giải phẫu bệnh.(4,5,12)
Khối u lách thường không phổ biến. Trong
đó, khối u bạch huyết của lách là phổ biến nhất
và các loại khối u khác như là u thành mạch, u
tương bào, u mô nguyên bào sợi ác tính và
những bệnh di căn tới lách thường liên kết với
sự di căn của các loại ung thư ác tính phổ biến
khác(1,2,3). Khối u lách lành tính khá hiếm với tỉ
lệ 7/100 000 mẫu tử thi và chủ yếu là u nang
hay u mạch. Hamartoma lách là một dạng tổn
thương lành tính hiếm gặp, lần đầu tiên được
mô tả bởi Rokitansky vào năm 1861, với tỉ lệ
3/200.000 trường hợp phẫu thuật cắt lách(6,9).
Hamartoma lách là lành tính và thường không
có triệu chứng, điều quan trọng là nó không bị
nhầm với các tổn thương ác tính khác mà đôi
khi có thể xảy ra do những khó khăn trong
chẩn đoán.
Hình 1: Hình đại thể của lá lách đã được cắt cho thấy
khối được khoanh vùng có kích thước 2,5 x 2,4 cm(7)
Bảng 1: Các số liệu được ghi nhận:
Tên tác giả Năm Số trường hợp được
phát hiện
Ayhan Ozcan et al
(9)
Đến 2009 Khoảng hơn 100 ca
ghi nhận trong tài liệu
Pinar Yazici et al
(13)
2000- 2006 4 ca
L. Hwajeong et al
(6)
Đến 2009 Khoảng 150 ca được
ghi nhận
N. W. Yusuf et al(14) Đến 2003 Khoảng 150 ca được
ghi nhận
Ngoài ra, Hamartoma lách còn được gọi với
những tên khác nhau như: splenoma và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 97
splenadenoma, amartoma, hemangioma,
lymphangioendothelioma, angiomatosis,
hemangiomatosis, hymphangioma, hạch tăng
sản và khối u như dị tật bẩm sinh. Có vài cơ chế
sinh bệnh đã được xác định như bẩm sinh, hậu
phẫu v.v.(4,5). Gần đây, người ta cho rằng
hamartoma có thể là một dạng đặc biệt của bướu
mạch máu hay bướu lympho. Những giả thuyết
này cho rằng tổn thương có thể là ung thư. Tuy
nhiên, giả thuyết được quan tâm nhiều nhất có
liên quan đến sinh bệnh học của hamartoma lách
là khối u, dị tật bẩm sinh do tổ chức bất thường
của các yếu tố đỏ của lách bình thường(7).
Hình chụp cắt lớp (CT) làm tăng độ tương phản cho thấy tổn thương ít dày đặc trong vòm lá
lách
Hình 2: Hamartoma lách được tìm thấy ngẫu nhiên ở một phụ nữ 29 tuổi(6).
Tổn thương không nhiều ở vị trí chụp T1-weighted
Hình 3: Tổn thương chứa một hỗn hợp các mạch chưa
được sắp xếp và sợi thừng lách giống như tủy đỏ (HE
x 200 lần)(6)
Hình 4: Sự phóng đại cao hơn của tổn thương lách cho
thấy không có tế bào không điển hình, phân bào hay
hoại tử (HE x 600 lần)(6).
Hình 5: Nhuộm miễn dịch CD8 dương tính với tế bào
niêm mạc và tế bào lymphô nằm rải rác (độ phóng đại
200 lần)(6)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 98
Mặc dù hamartoma lách được tìm thấy ở mọi
lứa tuổi, nhưng nó được tìm thấy chủ yếu ở người
lớn tuổi. Hamartoma lách thường không có triệu
chứng rõ rệt và được xác định một cách tình cờ
thông qua khám nghiệm tử thi, nghiên cứu
phóng xạ, phẫu thuật của bệnh Hodgkin(7,10,11).
Một số biến chứng như giảm tiểu cầu trong
máu và thiếu máu có thể được tìm thấy ở một số
bệnh nhân. Đôi khi, hamartoma lách có thể bị
nang hóa và trở thành u nang giả. U nang giả
được xem như là một biến chứng của hamartoma
lách. Sự liên hệ giữa u nang giả và hamartoma
lách khá hiếm. Nó có thể xuất huyết bên trong và
thậm chí vỡ ra bên ngoài trong một số trường
hợp. Hơn nữa sự tăng sinh nội mô ở hamartoma
lách có thể tạo nên dạng không điển hình. Do đó,
những trường hợp này có thể bị chẩn đoán nhầm
là ác tính(7,12).
Cắt lách có thể được thực hiện bằng mổ hở.
Gần đây, phẫu thuật nội soi đã trở thành tiêu
chuẩn cho phẫu thuật, bao gồm bệnh ác tính(8).
Mặc dù phẫu thuật ít xâm hại có thể thích hợp
cho hamartoma lách(7).
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mô tả trường hợp bệnh tại bệnh viện Bình
Dân thành phố Hồ Chí Minh.
MÔ TẢ TRƯỜNG HỢP BỆNH
Một bệnh nhân nam, 50 tuổi, có triệu chứng
là đau thượng vị hơn 1 tháng. Khám thực thể,
bệnh nhân không sốt, không sụt cân, da niêm
hồng, hạch ngoại biên không sờ chạm, các dấu
hiệu khác bình thường, khám bụng ấn đau nhẹ
thượng vị.
Kết quả kiểm tra cận lâm sàng: số lượng hồng
cầu: 410 x 104/mm3 (bình thường: 404-613 x
104/mm3); số lượng bạch cầu: 5,69 x103/mm3 (bình
thường: 4,6-10 x 103/mm3); và số lượng tiểu cầu
giảm nhiều: 4,88 x 104/mm3 (bình thường: 14,2-
42,4 x 104/mm3). Tổng lượng protein, aspartate
aminotransferase, alanine aminotransferase,
bilirubin toàn phần và nồng độ huyết thanh
creatinine, urê, LE CELLS, ANA Test, anti-
dsDNA, AFP, CA 19-9, CEA đều trong giới hạn
bình thường.
Siêu âm Doppler màu cho thấy cực dưới lách
có cấu trúc to, mật độ gần bằng nhu mô lách,
chèn thận T sát cơ hoành.
Hình ảnh chụp cắt lớp cho thấy lách to, lách
có tổn thương giảm đậm độ, đậm độ không đồng
nhất, giới hạn không rõ kích thước 10 * 12 * 11
cm. Thương tổn bắt thuốc cản quang mạnh
không đồng nhất và có nhiều mạch máu tăng
sinh. Ở thì trễ thương tổn vẫn có độ cản tia hơi
thấp hơn nhu mô lách bình thường. Kết luận:
Thương tổn dạng u rất lớn trong nhu mô lách
10*12*11 cm chưa rõ bản chất: hemangioma?
Hamartoma? Hay lymphoma?
Hình 6: Siêu âm và chụp cắt lớp tổn thương lách. A. Siêu âm Doppler màu cho thấy cực dưới lách có cấu trúc
to, mật độ gần bằng nhu mô lách, chèn thận T sát cơ hoành. B và C. Hình ảnh chụp cắt lớp cho thấy lách to, lách
có tổn thương giảm đậm độ, đậm độ không đồng nhất
Tủy đồ: hình ảnh tủy tăng hồng cầu và mẫu
tiểu cầu.
Mặc dù giả thuyết là khối u ác tính không bị
loại trừ hoàn toàn, nội soi cắt lách được thực hiện
vì khối u bên trong lách bị giới hạn bởi kích
thước và không di căn qua các cơ quan bên cạnh.
Mở lỗ trên rốn đặt camera, mở thêm 3 lỗ ở đường
trung đòn T, nách trước và thượng vị. Nội soi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 99
thấy lách lớn độ II có u cực dưới 5 * 10 cm, gan
bình thường. Thám sát nghi ung thư lách chuyển
mổ hở. Gỡ dính dây chằng lách đại tràng, đốt cầm
máu kỹ. Bóc tách tĩnh mạch lách. Cắt dây chằng
lách dạ dày. Cắt mặt sau lách, cột may cuống
lách. Lau bụng. Dẫn lưu HST bằng Foley. Đóng
các lỗ troca. May da.
Tổng thời gian phẫu thuật và lượng máu mất
trong phẫu thuật vào khoảng 60 phút và 20 ml.
Bệnh nhân sau phẫu thuật tốt và được xuất viện
vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật.
Lách bị cắt bỏ nặng khoảng 600g và có kích
thước 12*10*7 cm. Mặt cắt có u chiếm gần toàn bộ
mô lách giới hạn không rõ, mặt cắt mềm, bở,
màu đỏ sậm.
Ở mức hiển vi, toàn bộ mẫu thử có cấu trúc
giống mô lách bình thường với hai thành phần
chính là tủy đỏ và tủy trắng. Chẩn đoán: phù hợp
với Hamartoma của lách.
Hình 7: Hình đại thể (A) và kết quả giải phẫu bệnh (B)
BÀN LUẬN
Hamartoma lách là khối u lành tính hiếm
gặp với sự tăng sinh mạch máu thường được
chẩn đoán khi phẫu thuật bụng, cắt lách hay
khám nghiệm tử thi. Sinh bệnh học của
hamartoma lách đa dạng và bao gồm các dị tật
bẩm sinh của lách, khối u hay tổn thương do
phản ứng với chấn thương trước. Hamartoma
lách thường được gọi là splenoma hay tăng sản
nốt vì nó bao gồm một hỗn hợp bất thường của
các thành phần bình thường của lách. Khi
phần lớn bệnh nhân không có triệu chứng, hầu
hết hamartoma lách được phát hiện ngẫu nhiên
bằng phương pháp chụp ảnh hiện đại bao gồm
siêu âm, chụp CT, như trường hợp này. Những
tiến bộ trong kỹ thuật hình ảnh gần đây đã cải
thiện khả năng phát hiện khối u lách không có
triệu chứng. Tuy nhiên, chẩn đoán phân biệt
tập trung vào các tổn thương lách dựa trên
hình ảnh là không đơn giản. Hamartoma lách
nên được xem như là một dạng riêng của các
khối u lách, điều quan trọng là sự phân biệt
hamartoma lách và hemangioma lách, dạng u
lách lành tính phổ biến nhất. Bảng cho thấy
một số điểm khác biệt trong quan sát bằng siêu
âm, chụp CT ở hamartoma lách và u mạch
máu (hemangioma) lách.
Bảng 2: Hình ảnh so sánh giữa hamartoma lách và hemangioma lách
Phương
thức
Hemangioma Hamartoma Chúng tôi
Siêu âm Tăng đậm độ (hemangioma mao mạch) Giảm đậm độ>> Tăng đậm độ> Đồng đậm độ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 100
Giảm đậm độ (hemangioma hang) Đồng đậm độ
Doppler: tín hiệu yếu Doppler: nhiều tín hiệu Doppler: nhiều tín hiệu
CT Giảm hoặc đồng đậm độ Giảm đậm độ >>Đồng đậm độ>
Tăng đậm độ
Giảm đậm độ
Tăng mạnh
Các dạng hemagioma lách quan sát được
bằng siêu âm cho thấy hemangioma mao mạch
xuất hiện như một nốt giảm đậm độ trong khi
dạng hemangioma hang là một khối giảm đậm độ
không đồng nhất, đôi khi bị vôi hóa hay có nhiều
nang. Nói chung, hamartoma lách được mô tả là
một khối rắn, đồng nhất tương tự như nhu mô
lách bình thường, thường là giảm đậm độ, nhưng
đôi khi các tổn thương tăng đậm độ có hay không
có sự nang hóa bên trong lách. Siêu âm màu của
hamartoma lách cho thấy chỉ có vài màu có thể
xuất hiện trong khối u ngay lập tức sau khi nó
được nén bằng đầu dò. Mặc khác, siêu âm màu
cho thấy có nhiều tín hiệu của mạch máu bên
trong khối. Tuy nhiên, khối u bên trong lách
thường có ít mạch máu hơn nhu mô bình thường
xung quanh vì số lượng mạch máu cao của lách.
Với hình ảnh chụp cắt lớp cho thấy lách to,
lách có tổn thương giảm đậm độ, đậm độ không
đồng nhất, giới hạn không rõ kích thước 10 * 12 *
11 cm. Thương tổn bắt thuốc cản quang mạnh
không đồng nhất và có nhiều mạch máu tăng
sinh. Ở thì trễ thương tổn vẫn có độ cản tia hơi
thấp hơn nhu mô lách bình thường. Thương tổn
dạng u rất lớn trong nhu mô lách 10*12*11 cm
chưa rõ bản chất: hemangioma? Hamartoma?
Hay lymphoma? Hình ảnh này sẽ được rõ ràng
hơn nếu được kết hợp với MRI.
Mặc dù có vài hình ảnh đặc biệt của
hamartoma lách, nhưng rất khó để loại trừ khả
năng của một khối u ác tính dựa trên nghiên cứu
hình ảnh. Chẩn đoán phải được xác nhận bằng
các kiểm tra bệnh lý. Mặc dù đã có vài nghiên
cứu về tính hiệu quả và an toàn của sinh thiết
lách, khả năng chảy máu hoặc sự phổ biến khối u
làm cho kỹ thuật này không chắc chắn. Vì vậy
cắt lách vẫn cần thiết cho mục đích chẩn đoán và
điều trị. Gần đây, các phương pháp điều trị ít xâm
hại đã được phát triển như là kỹ thuật nội soi.
Chẩn đoán bệnh lý phân biệt chính cho
hamartoma là dạng u mạch lành tính bao gồm cả
hemangioma. Hamartoma cũng có những kết
quả lâm sàng và X- quang tương tự. Nhuộm mô
miễn dịch có thể được sử dụng để phân biệt một
hamartoma lách và hemangioma mao mạch bởi
các đặc điểm nhuộm của nó. Hamartoma lách
được phân loại thành 2 loại: tủy trắng và tủy đỏ,
dựa vào các thành phần của khối u. Tủy trắng
được tạo thành từ mô bạch huyết, trong khi tủy
đỏ được tạo nên từ các xoang và tương tự như tủy
đỏ bình thường của lách. Hầu hết các case được
báo cáo là tủy đỏ, bao gồm cả báo cáo này. Nhiều
tín hiệu trên siêu âm màu Doppler và rõ ràng
trên CT trong trường hợp của chúng tôi được cho
là sự phản ánh của đặc điểm nhiều mạch máu
trong dạng tủy đỏ.
Nội soi cắt lách là phẫu thuật chuẩn cho việc
xử lý hầu hết các trường hợp xuất huyết giảm tiểu
cầu tự phát vì khả năng xâm hại thấp so với mổ
mở cắt lách. Hơn nữa, nội soi cắt lách trở thành
sự chọn lựa chủ yếu không chỉ cho xuất huyết
giảm tiểu cầu tự phát mà còn cho một số khối u
lách.
Bảng 3: Đặc điểm các trường hợp hamartoma lách được báo cáo điều trị bằng phẫu thuật cắt lách
Tác giả Năm Tuổi Giới tính Kích thước khối
u(cm)
Chẩn đoán trước
phẫu thuật
Thời gian phẫu
thuật (phút)
Lượng máu bị
mất (ml)
Yoshizumi và
cộng sự(7)
1997 45 Nam 6,0x3,8 U lành 305 (nội soi) 450
Tatekawa và
cộng sự
(7)
2007 12 Nữ 5 Hamartoma Không xác định (nội
soi)
Không xác định
Chúng tôi 2011 50 Nam 12*10*7 U lành 60 (nội soi chuyển
mổ hở)
20
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 101
KẾT LUẬN
Mặc dù có một số hình ảnh đặc trưng cho
hamartoma lách, việc thu thập và phân tích các
trường hợp như thế này là cần thiết để cải thiện độ
tin cậy của việc chẩn đoán và điều trị. Phẫu thuật
cắt lách bằng nội soi hỗ trợ có thể đóng vai trò
quan trọng trong chẩn đoán sau mổ và điều trị
hamartoma lách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Collins B.T., Phillips N.J., Hsueh E.C. (2008). Fine needle
aspiration biopsy of splenic hamartoma with bizarre stromal
cells. Acta cytologica, 52: 347 - 350.
2. De Cuyper K., Coenegrachts K., et al. (2007). Splenic hamartoma
presenting as an occasional asymptomatic finding. JBR - BTR, 90:
128 - 131.
3. Graham J.C., Weidner W.A., Vinik M. (1969). The angiographic
features of organizing splenic hematoma (hamartoma). Virginia
Commonwealth University, 107(2): 430 - 433.
4. Hayes T.C., Britton H.A. et al. (1998). Symtomatic splenic
hamartoma: case report and literature review. Pediatrics. 1998
May;101(5):E10.
5. Jia H.B., Li Y.P. et al. (2006). Splenic hamartoma: case report and
review of literature. Chinese medical journal, 119(6): 1403 - 1408.
6. Lee H., Maeda K. (2009). Hamartoma of the spleen. Arch Pathol
Lab Med., 133: 147 - 151.
7. Namikawa T., Kitagawa H., Iwabu J., Kobayashi M., Matsumoto
M., Hanazaki K. (2010). Laparoscopic splenectomy for splenic
hamartoma: case management and clinical consequences. World
J Gastrointest Surg., 2(4): 147 - 152.
8. Nguyễn Ngọc Hùng, Quách Văn Kiên, Nguyễn Văn Trường,
Nguyễn Đức Tiến, Trần Bình Giang (2008). Cắt lách nội soi: một
số nhận xét về chỉ định, kỹ thuật và biến chứng. Tạp chí Y học
TP Hồ Chí Minh, 12(4): 137 - 142.
9. Özcan A., Günal A., Çermik H., Kurt B., Balkan M., Günhan Ö
(2009). Cystic splenic hamartoma with prominent endothelial
proliferation mimicking malignancy: a case report. Gulhane Med
J, 51: 195 - 198.
10. Spalding R.M., Jennings C.V., Yam L.T. (1980). Splenic
hamartoma. British Journal of Radiology, 53: 1200 - 1203.
11. Teates C.D., Seale D.L., Allen M.S. (1972). Hamartoma of the
spleen. University of Virginia School of Medicine, 116(2): 419 -
422.
12. Tsitouridis I., Michaelides M., et al. (2010). Symptomatic
splenoma (hamartoma) of spleen. A case report. Hippokratia,
14(1): 54 - 56.
13. Yazici P., Aydin U., Ersin S., Kaplan H. (2008). Hamartoma – a
rare benign tumor of the spleen: a report of four cases. The
Eurasian Journal of Medicine, 40: 48 - 51.
14. Yusuf N.W., Assaf H.M. (2003). Splenic Hamartoma. Journal of
Pakistan Medical Association, 53(2): 25 - 27.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_mot_truong_hop_hamartoma_cua_lach_duoc_dieu_tri_tai_ben.pdf