Hình ảnh mô bệnh học của giun xoắn
Trichinella spiralis khi gây bệnh vùng cơ,
da niêm
Các mô tả về mặt mô bệnh học gồm có viêm
đa động mạch nút, thâm nhiễm tăng BCAT ở da
niêm. Sự xuất hiện đồng thời của viêm mạch và
bệnh ký sinh trùng có thể dẫn đến từ: (i) Sự tác
động trực tiếp của ký sinh trùng lên hệ thống
mạch máu như đã nhìn thấy vách thành mạch
thay đổi về mặt mô bệnh học; (ii) Hiện tượng
miễn dịch bệnh lý xảy ra trong khi có đáp ứng
miễn dịch chống lại ký sinh trùng, (iii) Sự lắng
đọng các phức hợp miễn dịch lưu hành, phản
ứng chéo của các thành phàn IgE chống lại ký
sinh trùng và các kháng nguyên thành mạch
máu, hoặc tổn thương mô do tăng BCAT. Trong
trường hợp bệnh nhân nam này, viêm mạch
mày đay có thể do đáp ứng miễn dịch quá mạnh
bởi một lượng ấu trùng T. spiralis. Vì vậy, sinh
thiết cơ đã cho thấy hình ảnh ấu trùng đóng kén
và huyết thanh miễn dịch (+) mạnh. Điều này
cũng có thể giải thích hiệu giá kháng thể cao
cùng với lượng BCAT tăng cao trong máu ngoại
vi trên ca bệnh nhân này.
Histamine ly giải ra từ các dưỡng bào dưới
da và bạch cầu ưa base trong đáp ứng với các
chất kích thích là khâu khỏi phát đầu tiên của
mày đay. Trong quá trình này, các kháng thể
IgE đặc hiệu liên kết chéo với IgE receptors
gắn với các dưỡng bào và kích thích sinh ra các
chất gây viêm. Các độc tố phản vệ bổ sung
cũng có thể gây ly giải histamine từ dưỡng bào
hoặc thông qua sự hoạt hóa tế bào trực tiếp
không liên quan đến miễn dịch và từ đó sinh
phù mạch và viêm(1,5).
Điều trị đặc hiệu có thể không cần thiết trên
những ca biểu hiện nhẹ. Riêng đối với các ca
bệnh vừa và nặng, thuốc lựa chọn là
thiabendazole, mebendazole hoặc albendazole,
đôi khi phối hợp thuốc prednisolone chống viêm
để giảm đáp ứng viêm trên bệnh nhân, hoặc
thuốc hạ sốt và giảm đau trong suốt giai đoạn có
dấu lâm sàng cơ(2).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 190 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp nhiễm trùng giun xoắn Trichinella Spiralis gây viêm và phù mạch tăng bạch cầu ái toan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 546
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP NHIỄM TRÙNG GIUN XOẮN TRICHINELLA
SPIRALIS GÂY VIÊM VÀ PHÙ MẠCH TĂNG BẠCH CẦU ÁI TOAN
Nguyễn Văn Chương*, Huỳnh Hồng Quang*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Mày đay và phù mạch có thể xảy ra đến 25% dân số trên toàn cầu. Các nguyên nhân bệnh lý
nền rất đa dạng: các thuốc, yếu tố vật lý, các yếu tố tự miễn, phản ứng dị ứng và giả dị ứng và nhiễm trùng, đặc
biệt vi khuẩn và ký sinh trùng có thể dẫn đến biểu hiện lâm sàng của triệu chứng mày đay hoặc phù mạch khó có
thể phân biệt bệnh lý nào. Việc chẩn đoán là một thách thức, đặc biệt khi các triệu chứng diễn tiến mạn tính và
đáp ứng điều trị không đáng kể.
Trình bày ca bệnh: Nhân đây, chúng tôi báo cáo 1 ca bệnh phù mạch với viêm mạch máu tăng bạch cầu ái
toan liên quan nhiễm trùng giun xoắn Trichinella spiralis, được điều trị khỏi bằng các thuốc đặc hiệu.
Kết luận: Mày đay là một trong những rối loạn hay gặp kèm theo sự có mặt của phù mạch dưới da do nhiều
yếu tố, kể cả ký sinh trùng. Các bằng chứng lâm sàng gợi ý chẩn đoán cũng như khâu tiếp cận điều trị mày đay/
phù mạch nên tránh các yếu tố mang tính khởi phát triệu chứng và điều trị giảm triệu chứng.
Từkhóa: Mày đay, phù mạch, giun xoắn
ABSTRACT
A CASE REPORT: TRICHINELLA SPIRALIS INFECTION AND EOSINOPHILIC VASCULITIS WITH
ANGIOEDEMA
Nguyen Van Chuong, Huynh Hong Quang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 546 – 551
Backgrounds: Urticaria and angioedema occur in up to 25% of the global population at some point in their
lifetime. Underlying causes can be highly heterogeneous, such as various drugs, physical factors, auto ‐
immunological factors, allergic and pseudoallergic reactions or infections, especially in bacteria and parasite.
These pathogens or factors can result in the clinical manifestation of urticaria, or angioedema that is a symptom
rather than a distinct disease. Diagnosis can be challenging, especially if symptoms are chronic or minimally
responsive to therapy.
Case presentation: Here, we report a special case of angioedema with eosinophilia vasculitis caused by
Trichinella spiralis infection and treated with effective and anti ‐ inflammatory medications.
Conclusions: Urticaria is a common disorder that often presents with subcutaneous angioedema due to
various factors, including parasite agents. Clinical clues and associated rationale for diagnosis as well as approach
to treatment of urticaria/ angioedema should avoid known triggering agents and alleviating associated symptoms.
Key words: Urticaria, angioedema, Trichinella spiralis
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mày đay và phù mạch là các triệu chứng có
thể gặp phải phải ít nhất trên ¼ dân số thế giới
(CDC, 2013) trong cả cuộc đời(2). Mày đay có thể
diễn biến cấp tính hoặc mạn tính, có thể sưng
phồng một thời gian ngắn và có thể mất đi trong
vòng 24 giờ hoặc có thể diễn biến mạn tính từng
đợt kéo dài tùy thuộc vào tác nhân hay yếu tố
thuận lợi can thiệp (thuốc, hóa chất, nhiễm độc,
* Viện Sốt rét KST ‐ CT Quy Nhơn
Tác giả liên lạc: TS. Huỳnh Hồng Quang ĐT: 0905103496 Email: huynhquangimpe@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 547
miễn dịch, dị nguyên, nhiễm trùng vi khuẩn, ký
sinh trùng, nấm). Phù mạch (angioedema) là
một dạng của mày đay, trong đó sự sưng phồng
nằm ở phần sâu dưới da và kéo dài có thể hơn
24 giờ. Khoảng 50% số ca mày đay cấp tính có
biểu hiện phù mạch(5).
Về mặt sinh lý bệnh, các mô liên quan đến
mày đay và phù mạch biểu hiện phù dưới da
hoặc niêm mạc cùng với sự liên quan đến thâm
nhiễm tế bào lympho T, đại thực bào, bạch cầu ái
toan và dưỡng bào (mast cells) quanh mạch máu.
Các triệu chứng sưng phồng và ngứa liên quan
đến sự giáng hóa phòng thích các dưỡng bào,
trong đó các chất trung gian gây hoạt mạch ly
giải từ các tế bào dưỡng bào và bạch cầu ưa base
sinh ra các phản ứng lằn roi hoặc sưng phồng
mạnh(6). Một số cơ chế khác liên quan đến trực
tiếp phân tử igE hoặc qua trung gian IgE. Việc
chẩn đoán và điều trị là một thách thức nếu
không tìm ra nguyên nhân cụ thể để gián đoạn.
Qua thăm khám bệnh sử, khám thực thể và điều
tra tiền sử có thể nhận ra một số nguyên nhân,
hạn chế mất thời gian và tránh các tác dụng độc
do thuốc điều trị không cần thiết. Mặc dù bệnh
biểu hiện đôi lúc nghiêm trọng, song phần lớn là
lành tính và tự giới hạn(8). Việc tiếp cận điều trị
là tránh các tác nhân gây ra và giảm triệu chứng
cho bệnh nhân, sử dụng thận trọng các thuốc
chống viêm corticosteroids đường uống và
thuốc kháng histamine thế hệ hai tác dụng dụng
kéo dài, các H2 ‐ receptor antagonists và thuốc
đối kháng leukotriene chống viêm.
TRÌNH BÀY CA BỆNH
Một bệnh nhân nam 57 tuổi, sống tại thành
phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên bị các đợt mày đay
nghiêm trọng liên tục trong nhiều tháng và kèm
theo có dấu hiệu phù mạch ở mặt và vùng hầu
họng, thỉnh thoảng khó thở, tồn tại hơn 24 giờ.
Bênh nhân đã điều trị nhiều lần bởi các thầy
thuốc da liễu, nội khoa và đã nhập BVĐK tỉnh
Khánh Hòa 2 lần, song khi ra viện khoảng 1 tuần
bệnh tái phát sau khi hết thuốc ngoại trú.
Sau đó, bệnh nhân đến khám và nhập viện
tại Viện Sốt rét KST ‐ CT Quy Nhơn:
Thăm khám, kiểm tra các nguyên nhân
hoặc bệnh lý nền sẵn có không có gì đặc biệt,
ngoại trừ làm nghề mổ heo và hay ăn các món
thính do bệnh nhân chế biến; Gan lách không
lớn, nhiệt độ da hơn ấm, sốt 380C nhiều ngày
trước khi đến khám, mệt mỏi, nhức toàn thân;
Khám khối cơ cẳng tay và bắp chân (T) rất
đau, có nơi sưng phồng, đỏ da và nóng, căng
cơ đau nhiều hơn.
Các triệu chứng tiêu hóa, thần kinh, tiết niệu
đều trong giới hạn bình thường.
Xét nghiệm cận lâm sàng và chẩn đoán
hình ảnh:
+ CTM toàn phần cho thấy chỉ số bạch cầu
chung tăng cao và đặc biệt bạch cầu ái toan
(BCAT) tăng đến 45,6% (giá trị tham chiếu 0 ‐
6%).
+ Men gan và chức năng gan, thận không có
bất thường, không có viêm gan B, C.
+ Tốc độ máu lắng tăng cao, chỉ số CRP tăng
21 mg/L (giá trị tham chiếu < 5 mg/l).
+ Nước tiểu toàn phần 10 thông số cho kết
quả trong giới hạn bình thường.
+ Xét nghiệm huyết thanh học về các giun
sán: Strongyloides stercoralis, Gnathostoma
spinigerum, Cysticercus cellulose, Fasciola
gigantica, Toxocara canis đều cho kết quả âm
tính (hiệu giá kháng thể< 1.0).
+ Chụp X quang phổi ngực kỹ thuật số có
tràn dịch màng phổi mức độ nhẹ.
+ Siêu âm bụng tổng quát chưa thấy dấu
hiệu bất thường.
+ Điện cơ thay đổi không đáng kể.
Đánh giá ban đầu về bệnh lý khối u hay dị
ứng tạm thời loại bỏ thông qua xét nghiệm sàng
lọc máu. Nghi ngờ bệnh nhân mắc một bệnh lý
ký sinh trùng liên quan đến bệnh nghề nghiệp
và thói quen ăn uống, chuyển bệnh nhân vào
Trung tâm chẩn đoán y khoa Hòa Hảo để làm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 548
thêm xét nghiệm ELISA và Bệnh viện Đại học Y
dược thành phố Hồ Chí Minh sinh thiết da cơ.
Sinh thiết da cho thấy hình ảnh viêm da
vùng thương tổn, viêm đa vùng mao mạch có
tăng bạch cầu ái toan, điều này phiên giải như
một dấu hiệu sớm, cấp tính của viêm mạch tăng
bạch cầu ái toan (eosinophilic vasculitis).
Sinh thiết cơ có hình ảnh đóng kén của ấu
trùng giun xoắn T. spiralis cùng với kết quả
huyết thanh học phát hiện kháng thể dương
tính, chỉ số BCAT lên đến 63% trong công thức
máu và nhiễm trùng với BC chung 15.0000 x
109/L.
Thông số creatine kinase cơ trong giới hạn
bình thường.
Sau khi tổng hợp kết quả cận lâm sàng, kết
hợp lâm sàng, chẩn doán xác định là: Mày đay
kèm phù mạch thâm nhiễm BCAT do nhiễm
giun xoắn T. spiralis.
Hình1. Sinh thiết cơ cho thấy ấu trùng đóng kén của
giun Trichinella spiralis
Hình 2. Sinh thiết da thấy thâm nhiễm bạch cầu ái
toan lan tỏa ở mạch máu
Chỉ định điều trị thuốc thiabendazole viên
500mg (biệt dược Niczen), liệu trình 7 ngày, kèm
theo thuốc chống viêm prednisolone 5mg trong
vòng 5 ngày liên tiếp và kháng histamine loại
loratidine 10mg, cùng với thuốc bổ gan arginine
200mg (từ ngày 12/02/2014 đến 21/02/2014). Sau
10 ngày, bệnh nhân hồi phục nhanh chóng biểu
hiện đi lại không còn đau cơ, giảm phù niêm
mạc, dấu mày đay có cường độ và số lần giảm.
Tuy nhiên, đến đầu tháng 3/2014, trên cơ thể
bệnh nhân xuất hiện đợt mày đay khác tại các
vùng xung quanh vị trí phù mạch cũ, đỏ và sốt,
suy nhược cơ bên thương tổn tiến triển.
Thực hiện công thức máu cho thấy nhiễm
trùng không còn nhưng chỉ số đáp ứng miễn
dịch tăng lên (BCAT tăng hơn lúc đầu 67,3% và
nồng độ IgE tăng gấp hai lần trị số bình thường).
Các khám nghiệm lâm sàng và cận lâm sàng
khác loại trừ bệnh lý tân sinh, hay nhiễm khuẩn,
nghĩ nhiều đến đợt tái phát hoặc phản ứng dội
sau điều trị (rebound/ Herx reaction) thuốc
thiabendazole đã giết chết một lượng lớn các
giun xoắn và chỉ cho dùng thuốc chống dị ứng
và đa sinh tố, truyền dịch vitamin cũng như
uống nước trái cây, sau 3 ngày bệnh nhân hồi
phục hoàn toàn.
Kết quả kiểm tra tổng thể về huyết học, sinh
hóa cho các thông số trở về bình thường, song
chỉ có trị số ELISA vẫn còn kháng thể chống lại
tác nhân giun xoắn Trichinella spiralis với hiệu giá
thấp dương tính, BCAT trở về 7%. Đến nay, sau
10 ngày, bệnh nhân không còn tái phát nữa.
BÀN LUẬN
Giun xoắn Trichinella spiralis: Căn bệnh
truyền từ động vật sang người nguy hiểm
Bệnh giun xoắn gây ra bởi Trichinella spiralis,
là một bệnh giun tròn truyền từ động vật sang
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 549
người qua đường thức ăn hay gặp nhất. Heo là
động vật nuôi thường nhiễm bệnh nhất. Ở
người, tỷ lệ mắc lệ thuộc vào số lượng ấu trùng
sống của Trichinella spiralis được tiêu hóa hay thịt
chưa nấu chín hoặc còn sống(7). Tỷ lệ nhiễm giun
xoắn khác nhau tùy thuộc vùng trên thế giới, lệ
thuộc vào thói quen ăn uống và biện pháp
phòng chống mang tính điều luật vệ sinh an
toàn. Sự yêu cầu mang tính pháp lý để phòng
chống thú y và các lò mổ, không phải luôn luôn
tuân thủ, đặc biệt các lò mổ không đăng ký. Acid
dạ dày giúp phóng thích các nang giun đi vào,
phát triển thành con trưởng thành. Các ấu trùng
non của con trưởng thành đi xuyên qua thành
ruột và di chuyển thông qua dòng máu. Chúng
có thể tìm thấy trong tim và nhu mô não cũng
như các cơ vân. Chu kỳ phát triển của ký sinh
trùng được hoàn thành khi ấu trùng trở nên
đóng nang tại vùng cơ sâu. Một bệnh sử chi tiết
cho thấy bệnh nhân có thói quen ăn thịt heo
chưa nấu chín và làm nghề nghiệp có liên
quan(7). Nhược cơ và đau cơ có liên quan đến
hình ảnh bệnh học trên điện cơ đồ và các thay
đổi về hình thái bệnh lý cơ không đặc hiệu trên
mẫu sinh thiết cơ, nhưng sinh thiết cơ đã phát
hiện hình ảnh giun xoắn đóng kén (hình 1). Đặc
điểm về mắt và thần kinh của bệnh giun xoắn có
thể loại trừ. Dựa trên chẩn đoán bệnh giun xoắn,
chỉ định thuốc đặc hiệu cùng thuốc chống viêm
cho thấy các thông số xét nghiệm và toàn bộ các
triệu chứng lâm sàng được cải thiện, cùng với
không xuất hiện triệu chứng mày đay và các dấu
chứng khác, sau liệu trình thứ 2 sau đó.
Phổ lâm sàng đặc trưng cho bệnh giun
xoắn Trichinella spiralis
Các triệu chứng lâm sàng của giun xoắn
đầu tiên liên quan đến hệ tiêu hóa (40 ‐ 60%),
chẳng hạn nôn mửa, tiêu chảy và đau dạ dày
ruột. Các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu
như yếu người (75%) hoặc sốt (60 ‐ 75%), đau
cơ và đau khớp (75%) hoặc thậm chí tổn
thương đến cơ tim cấp. Các dấu hiệu thần kinh
khu trú, bệnh lý não và đau đầu lan tỏa (50 ‐
60%) đã được ghi nhận. Các triệu chứng trên
da niêm gồm phù quanh mi mắt, mày đay,
chấm xuất huyết kết mạc, xuất huyết các
giường móng tay và ban đỏ trên da không đặc
hiệu hoặc ban trong lòng bàn tay, các dấu hiệu
này xuất hiện khoảng 10% trong bệnh giun
xoắn. Các ban đỏ có ở hai bên tay bị sưng và
ban đỏ mảng dọc theo vành ngoài của lòng
bàn tay và gan bày tay, tiếp theo sau đó là hình
ảnh bong tróc vảy. Phù mạch là một dấu hiệu
không thường xuyên của nhiễm trùng giun
sán và viêm mạch do giun xoán lại càng hiếm
gặp hơn(7).
Các thương tổn mày đay là đa hình thái,
hình tròn hoặc bờ không đều phù lên trên so với
bề mặt da, có ngứa, với nhiều kích thước khác
nhau từ vài mm đến nhiều cm. Các thương tổn
có thể hình thành bất kỳ nơi đâu trên cơ thể và
lan rộng do quá trình gãi, cào khiến liên kết lại
lan rộng thành đám lớn, mảng đỏ. Đôi khi hiện
tượng lan mạch gây nên các thương tổn sung
huyết trung tâm với một vòng trắng bên ngoài.
Phù mạch có thể xảy ra đơn thuần hoặc đi kèm
với mày đay, đăc tính là không bập bềnh, không
ngứa hoặc khó chịu, sưng phồng liên quan đến
các mô dưới da (mặt, sinh dục, mông, tay), các
cơ quan trong bụng và đường thở trên. Phù
mạch có xu hướng xảy ra trên mặt và tay, gây
nên biến dạng rõ rệt. Phù vùng hầu họng là một
cấp cứu y khoa cần hỗ trợ điều trị cấp, các sưng
phồng vùng dạ dày ruột giống triệu chứng cấp
cứu ngoại khoa bụng(5,7).
Việc phân ra mày đay cấp tính hay mạn tính
là các triệu chứng tồn tại trong thời gian ít hơn 6
tuần và trên 6 tuần. trong một nghiên cứu gần
đây 47% bệnh nhân mày đay mạn tính không rõ
nguyên nhân và tự khỏi hay giảm tự phát sau 1
năm(3). Mày đay cấp tính cũng phân biệt với
mày đay mạn tính qua diễn tiến hay kéo dài
triệu chứng thông qua sự điều tiết IgE. Mày đay
mạn tính và phù mạch có xu hướng tự phát,
không xác định nguyên nhân hoặc do nhiều yếu
tố nội sinh, ngoại sinh, miễn dịch hoặc không
liên quan đến miễn dịch.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 550
Một nghiên cứu tổng hợp hơn 6.000 bệnh
nhân mày đay và phù mạch cho thấy các xét
nghiệm cân lâm sàng thường quy sàng lọc ít lệ
thuộc vào tiền sử bệnh nhân cũng như khám
thực thể, vì các test này ít có giá trị trong việc
phát hiện ra nguyên nhân phản ứng, do vậy ít
khi tìm ra nguyên do (chẳng hạn IgE hay test
da).
Mày đay có hoặc không kèm theo phù mạch
ước tính có tỷ lệ khoảng 25% trong dân số chung
toàn cầu. Trong số các bệnh nhân bị mày đay, ít
nhất gần 30% có viêm mạch. Chẩn đoán phân
biệt mày đay với viêm da tăng BCAT
(eosinophilic dermatitis) và viêm mạch mày đay
(eosinophilic vasculitis) gồm có các phản ứng
quá mẫn cũng như hội chứng Churg ‐ Strauss,
các hội chứng tăng BCAT khác và nhiễm ký sinh
trùng(2,4). Viêm mạch có liên quan đến bệnh lý
ký sinh trùng là một bệnh lý hiếm gặp trên thực
hành lâm sàng và trên báo cáo y văn.
Chẩn đoán xác định lệ thuộc vào tìm kiếm
các phức hợp [ký sinh trùng ‐ tế bào] đóng vách
trong mô sinh thiết cơ soi dưới kính hiển vi hoặc
phát hiện DNA đặc hiệu Trichinellaspiralis bằng
ký thuật PCR. Sinh thiết cơ có thể âm tính do số
lượng ấu trùng thấp trong giai đoạn sớm của
bệnh. Các bằng chứng gián tiếp cho nhiễm trùng
có thể thông qua bệnh sử, triệu chứng lâm sàng,
tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi, tăng
men cơ và test huyết thanh học như ELISA.
Hình ảnh mô bệnh học của giun xoắn
Trichinella spiralis khi gây bệnh vùng cơ,
da niêm
Các mô tả về mặt mô bệnh học gồm có viêm
đa động mạch nút, thâm nhiễm tăng BCAT ở da
niêm. Sự xuất hiện đồng thời của viêm mạch và
bệnh ký sinh trùng có thể dẫn đến từ: (i) Sự tác
động trực tiếp của ký sinh trùng lên hệ thống
mạch máu như đã nhìn thấy vách thành mạch
thay đổi về mặt mô bệnh học; (ii) Hiện tượng
miễn dịch bệnh lý xảy ra trong khi có đáp ứng
miễn dịch chống lại ký sinh trùng, (iii) Sự lắng
đọng các phức hợp miễn dịch lưu hành, phản
ứng chéo của các thành phàn IgE chống lại ký
sinh trùng và các kháng nguyên thành mạch
máu, hoặc tổn thương mô do tăng BCAT. Trong
trường hợp bệnh nhân nam này, viêm mạch
mày đay có thể do đáp ứng miễn dịch quá mạnh
bởi một lượng ấu trùng T. spiralis. Vì vậy, sinh
thiết cơ đã cho thấy hình ảnh ấu trùng đóng kén
và huyết thanh miễn dịch (+) mạnh. Điều này
cũng có thể giải thích hiệu giá kháng thể cao
cùng với lượng BCAT tăng cao trong máu ngoại
vi trên ca bệnh nhân này.
Histamine ly giải ra từ các dưỡng bào dưới
da và bạch cầu ưa base trong đáp ứng với các
chất kích thích là khâu khỏi phát đầu tiên của
mày đay. Trong quá trình này, các kháng thể
IgE đặc hiệu liên kết chéo với IgE receptors
gắn với các dưỡng bào và kích thích sinh ra các
chất gây viêm. Các độc tố phản vệ bổ sung
cũng có thể gây ly giải histamine từ dưỡng bào
hoặc thông qua sự hoạt hóa tế bào trực tiếp
không liên quan đến miễn dịch và từ đó sinh
phù mạch và viêm(1,5).
Điều trị đặc hiệu có thể không cần thiết trên
những ca biểu hiện nhẹ. Riêng đối với các ca
bệnh vừa và nặng, thuốc lựa chọn là
thiabendazole, mebendazole hoặc albendazole,
đôi khi phối hợp thuốc prednisolone chống viêm
để giảm đáp ứng viêm trên bệnh nhân, hoặc
thuốc hạ sốt và giảm đau trong suốt giai đoạn có
dấu lâm sàng cơ(2).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fox RW, et al (2001). Chronic urticaria: mechanisms and
treatment. Allergy Asthma Proc.22:97–100.
2. Kaplan AP (2002) Clinical practice: chronic urticaria and
angioedema. N Eng J Med. 346:175–9.
3. Kozel MM, Bossuyt PM, Mekkes JR, Bos JD (2003). Laboratory
tests and identified diagnoses in patients with physical and
chronic urticaria and angioedema: A systematic review. J Am
Acad Dermatol. 48:409–16.
4. Kozel MM, Mekkes JR, Bossuyt PM, Bos JD (2001). Natural
course of physical and chronic urticaria and angioedema in
220 patients. J Am Acad Dermatol.45.387–91.
5. Lhote F et al (2004). Systemic vasculitis during parasitosis.
Presse Med. 33.1389–1401.
6. Prussin C, Metcalfe DD (2003) IgE. mast cells. basophils. and
eosinophils. J Allergy Clin Immunol.111(2)S486–94.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 551
7. Walsh DS, Jongsakul K, Watt G (2001) Hand rash in
trichinosis. Clin Exp Dermatol. 26. 272–273.
8. Wedi B, Raap U, Kapp A (2004) Chronic urticaria and
infections. Curr Opin Allergy Clin Immunol. 4: 387–396.
Ngày nhận bài báo: 16/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_mot_truong_hop_nhiem_trung_giun_xoan_trichinella_spiral.pdf