Nhân một trường hợp sử dụng điện cực thăm dò xoang vành trong chẩn đoán loạn nhịp thất buồng thoát thất trái
Loạn nhịp thất buồng thoát thất là loại loạn
nhịp hay gặp trên lâm sàng, bệnh nhân thường
không có bệnh tim thực tổn và phương pháp
triệt phá ổ loạn nhịp bằng năng lượng sóng
radio qua catheter thường được lựa chọn vì khả
năng thành công cao. Loại loạn nhịp thất tại
buồng thoát thất phải thường gặp trên 80% và
cho kết quả thành công cao vì khả năng tiếp cận
ổ loạn nhịp dễ hơn là loạn nhịp thất buồng thoát
thất trái và nguy cơ biến chứng thủ thuật ít hơn.
Trong quá trình khảo sát trong buồng tim, thủ
thuật viên thường tiến hành các thăm dò đơn
giản và ít biến chứng trước nên thường là thăm
dò và đốt các vị trí nghi ngờ tại buồng thoát thất
phải trước rồi mới quyết định thăm dò buồng
thoát thất trái, do vậy rất tốn nhiều thời gian và
công sức.
Dựa vào ECG bề mặt của ổ loạn nhịp thất có
thể dự đoán vị trí ổ loạn nhịp tại buồng thoát
thất phải hay trái nhưng thật sự không dễ dàng
như đã đề cập ở phần trên (8).
Xoang tĩnh mạch vành với đặc điểm giải
phẫu cho phép đánh giá được điện thế hoạt
động của vùng tâm nhĩ và thất bên trái nhất là
tại nhánh tận đầu xa quặt ra thành bên của tâm
thất, cho phép so sánh được vùng khử cực sớm
của buồng thoát thất trái so với buồng thoát thất
phải. Chúng tôi cho rằng cần nên đưa thêm điện
cực thăm dò xoang vành trên những bệnh nhân
khảo sát và cắt đốt loạn nhịp thất. Trong quá
trình thăm dò loạn nhịp thất bệnh nhân trên đã
chứng tỏ điện cực xa xoang vành cho khử cực
sớm hơn nhiều so với điện cực tại buồng thoát
thất phải trên 20ms. Do vậy đã giúp rút ngắn
thời gian thủ thuật, giảm được số lượng tia
chiếu cũng như nâng cao chất lương điều trị.
Nhận xét trên của chúng tôi cũng tương tự với
tác giả Majid Haghjoo(8), đánh giá khử cực sớm
tại nhiều vị trí của buồng thoát thất trái so phải,
và tương tự tại buồng thoát thất trái rất khó kích
thích tạo khử cực nên cách tìm ổ loạn nhịp tốt
nhất là tìm vị trí cho khử cực thất sớm nhất.
Tóm lại, điện cực thăm dò xoang vành rất có
giá trị trong việc chẩn đoán phân biệt loạn nhịp
thất buồng thoát thất trái so với phải. Đây là
cách tiếp cận tương đối đơn giản và nên sử
dụng rộng rãi trong khảo sát và cắt đốt ổ loạn
nhịp thất buồng thoát thất.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp sử dụng điện cực thăm dò xoang vành trong chẩn đoán loạn nhịp thất buồng thoát thất trái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 192
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP SỬ DỤNG ĐIỆN CỰC
THĂM DÒ XOANG VÀNH TRONG CHẨN ĐOÁN LOẠN NHỊP THẤT
BUỒNG THOÁT THẤT TRÁI
Trương Quang Khanh*, Trần Văn Kiệt*, Lê Hà Trung*, Nguyễn Công Vân*
TÓM TẮT
Nhịp nhanh thất hay ngoại tâm thu thất buồng thoát thất có thể xuất phát từ buồng thoát thất phải hay trái.
Có nhiều nghiên cứu dự đoán phân biệt vị trí ổ loạn nhịp dựa trên hình ảnh điện tâm đồ bề mặt, tuy nhiên cũng
có nhiều hạn chế trong quá trình dò tìm vị trí trên thực tế. Chúng tôi nhận thấy điện thế trong xoang vành có thể
giúp ích trong việc xác định vị trí ổ loạn nhịp thất bất thường dựa vào hình ảnh khử cực sớm tại xoang vành xa.
Chúng tôi minh họa bằng kết quả khảo sát điện sinh lý và cắt đốt thành công một bệnh nhân có ổ loạn nhịp thất
tại buồng thoát thất trái có sử dụng dây điện cực xoang vành. Tuy nhiên, giá trị của phương pháp này cần được
đánh giá trên nhiều bệnh nhân có ổ loạn nhịp thất tại buồng thoát thất.
Từ khóa: Nhịp nhanh thất; Buồng thốt thất phải; Buồng thốt thất tri; Xoang tĩnh mạch vành; tĩnh mạch tim
lớn; tĩnh mạch tim nhỏ; tĩnh mạch tim giữa.
ABSTRACT
USING LOCAL VENTRICULAR ELECTROGRAMS IN THE CORONARY SINUS TO LOCALIZE THE
FOCUS OF LEFT OUTFLOW TRACT VENTRICULAR ARRHYTHMIAS.
Truong Quang Khanh, Tran Van Kiet, Le Ha Trung, Nguyen Cong Van
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 192 - 196
Outflow tract ventricular arrhythmias can originate from several different segments of ventricular outflow.
Often the QRS morphology of the Ventricular Tachycardia (VT) is the first clue to the site of successful ablation.
There have been several reports on the application of 12-lead ECG findings for localization of Outflow Tract-VT.
We present one patient with left outflow tract ventricular arrhythmias. We used local ventricular electrograms in
the coronary sinus to localize the focus of the left outflow tract ventricular arrhythmias. Thereby present a simple
method for discrimination of left versus right outflow tract ventricular arrhythmias by intra-Coronary Sinus
mapping of local ventricular electrograms. However, the diagnostic value and precision of this method should be
evaluated in a series of patients before its implementation in the outflow tract ventricular arrhythmias ablation
decision algorithm.
Key words: Ventricular Tachycardia; Right Ventricular Outflow Tract; Left Ventricular Outflow Tract;
Coronary Sinus; Great Coronary Vein; Small Coronary Vein; Middle Coronary Vein.
TỔNG QUAN
Loạn nhịp thất buồng thoát tâm thất bao
gồm nhịp nhanh thất hay ngoại tâm thu thất
thường gặp trên lâm sàng và ở bệnh nhân không
có bệnh tim thực tổn.
Ổ loạn nhịp thất buồng thoát thường xuất
phát từ nhiều vị trí khác nhau của buồng thoát
như: vùng thoát thất phải, vùng thoát thất trái,
trên dưới van động mạch phổi(1,2,9) Dựa vào
hình ảnh điện tâm đồ bề mặt của loại loạn nhịp,
chúng ta có thể dự đoán được phần nào vị trí
xuất phát của ổ loạn nhịp thất này. Điều này rất
có ích trong quá trình khảo sát ổ loạn nhịp trong
buồng tim, rút ngắn thời gian thủ thuật và tăng
khả năng thành công trong điều trị triệt bỏ ổ
* Khoa Tim mạch cấp cứu và can thiệp - Bệnh viện Thống Nhất Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Trương Quang Khanh, ĐT: 0913778838 Email: bstruongkhanh@yahoo.com,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 193
loạn nhịp qua catheter.
Loạn nhịp thất buồng thoát thất thường xuất
hiện tại vùng thoát thất phải, khoảng trên 10
năm gần đây có nhiều báo cáo về vị trí buồng
thoát thất trái với tỉ lệ từ 16-18%(2). Đặc điểm giải
phẩu vùng thoát thất trái và phải nằm kề sát
vách nhau do vậy cũng có chung nhiều đặc
điểm điện học giống nhau dễ gây lầm lẫn dù có
tiếp cận đo đạc trong buồng tim.
Phương pháp triệt bỏ ổ loạn nhịp thất bằng
năng lượng sóng radio qua catheter cho tỉ lệ
điều trị thành công cao từ 80-85%(9), tuy nhiên
cách tiếp cận ổ loạn nhịp thất buồng thoát thất
phải và trái hoàn toàn khác nhau. Buồng thoát
thất trái phải đi ngược dòng động mạch chủ, vị
trí triệt phá ổ loạn nhịp thất thường nằm sát lỗ
xuất phát động mạch vành nên nguy cơ biến
chứng cao hơn, tỉ lệ thành công thấp hơn. Do
vậy, việc xác định chính xác vị trí ổ loạn nhịp
thất buồng thoát thất trái sẽ giúp cho thủ thuật
triệt phá ổ loạn nhịp thành công hơn, hạn chế
biến chứng hơn. Ngoài việc dựa vào điện tâm
đồ bề mặt, trong quá trình khảo sát trong buồng
tim, chúng tôi sử dụng thêm điện cực thăm dò
xoang vành làm điện cực đánh giá điện thế sớm
của hoạt động thất trái trong cơn loạn nhịp.
Đặc điểm vị trí và hình ảnh ECG buồng
thoát tâm thất
Buồng thoát tâm thất là phần tâm thất hình
phễu nối khoang tâm thất đến các đại động
mạch, bên phải là động mạch phổi, bên trái là
động mạch chủ. Buồng thoát 2 tâm thất nằm kế
cận nhau, cách nhau bởi vách cơ mỏng, phần
thấp thì buồng thoát thất trái nằm về bên trái,
nhưng lên phần cao hơn thì buồng thoát thất
phải hướng ra trước và nằm bên trái buồng
thoát thất trái
Hình 1: Vị trí giải phẫu vùng thoát thất phải và trái
Vị trí ổ loạn nhịp buồng thoát thất trái có thể
dự đoán dựa trên hình ảnh ECG bề mặt trong
cơn loạn nhịp thất. Ngoài đặc điểm chung ECG
buồng thoát thất là hình ảnh trục hướng xuống
với sóng R cao ở D2,D3, avF thì hình ảnh vùng
chuyển tiếp sớm chuyển đạo trước tim < V2 gợi
ý dễ dàng vị trí ổ loạn nhịp nằm ở buồng thoát
thất trái. Tuy nhiên, khi ổ loạn nhịp buồng thoát
thất trái tại vị trí gốc van động mạch chủ(4), vùng
nối với van 2 lá, vùng tĩnh mạch tim lớn thì khó
phân biệt với ổ loạn nhịp buồng thoát thất phải
nếu chỉ sử dụng điện tâm đồ bề mặt(7). Hình ảnh
thời gian sóng R rộng và R/S tại V1,V2 và sóng S
ở DI gợi ý vị trí gần lỗ động mạch vành trái(5).
RVOT
LVOT
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 194
Hình 2: Hình ảnh ECG loạn nhịp thất buồng thoát
thất trái
Đặc điểm giải phẫu và điỆn sinh lý học
xoang tĩnh mạch vành
Xoang vành (Coronary Sinus: CS) là cấu trúc
mạch máu nằm trong rãnh xoang vành phía đáy
của tim, bao phủ bởi những sợi cơ của tâm nhĩ
trái. Nhận phần lớn máu tĩnh mạch của tim đổ
về, nhận máu chạy dọc từ nhĩ, thất bên trái rồi
đổ vào lỗ xoang vành nằm ở đáy nhĩ phải, gần
sát vùng vách van 3 lá. Chiều dài của xoang
vành trung bình 15-65 mm, có nhiều nhánh chia:
tĩnh mạch tim lớn (GCV), tĩnh mạch tim nhỏ
(SCV), tĩnh mạch tim giữa (MCV), tĩnh mạch sau
thất trái
Hình 3: Hình ảnh xoang vành và các nhánh chia
Ngoài chức năng dẫn máu tĩnh mạch từ
tim về, xoang vành có vai trò rất quan trọng
trong lĩnh vực khảo sát và cắt đốt trong buồng
tim vì cấu trúc giải phẩu chạy dọc từ giữa tâm
nhĩ và thất bên trái đổ vào nhĩ phải, cho phép
đặt điện cực thăm dò điện thế hoạt động của
nhĩ và thất trái từ catheter đưa qua lỗ xoang
vành ở nhĩ phải(8).
Điện cực xoang vành thường được sử dung
trong chẩn đoán nhịp nhanh trên thất, giúp ích
cho việc định vị trí của đường dẫn truyền phụ
trái cũng như trong việc đặt dây điện cực thất
trái trong điều trị tái đồng bộ cơ tim.
Hình 4: Các điện cực thăm dò trong buồng tim
Trong loạn nhịp buồng thoát thất chúng ta
có thể sử dụng điện cực xoang vành để định vị ổ
loạn nhịp thất bên trái vì đầu xa của đoạn vành
hướng về thành bên của thất trái và tiểu nhĩ trái,
và tại vị trí này sẽ gần buồng thoát thất trái
(LVOT) hơn là phải (RVOT).
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP TRIỆT PHÁ
THÀNH CÔNG Ổ LOẠN NHỊP BUỒNG
THOÁT THẤT TRÁI
BN L.T.M.N nữ, 30 tuổi, nhập viện ngày
03/03/2010 vì mệt, hồi hộp, đánh trống ngực.
Bệnh nhân bị bệnh trên một năm, được điều
trị nhiều loại thuốc (ức chế beta, cordarone,
flecaine) nhưng không bớt.
Các xét nghiệm: Công thức máu, sinh hóa
máu, siêu âm tim, Xquang tim phổi bình
thường.
Holter nhịp tim: ngoại tâm thu thất dày, có
nhiều đoạn nhịp nhanh thất ngắn.. đều xuất
phát từ một ổ loạn nhịp.
ECG bề mặt: Ngoại tâm thu buồng thoát thất
với sóng R cao tại D2,D3. Chuyển tiếp R/S sớm
tại V1 của chuyển đạo trước tim, với sóng R
rộng tại V1. ECG gợi ý vị trí ổ loạn nhịp tại vùng
thoát thất trái, gần lỗ động mạch vành trái.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 195
Bệnh nhân có nguyện vọng xin triệt phá ổ
loạn nhịp bằng năng lượng sóng radio qua
catheter vì triệu chứng hồi hộp không chịu
được. Bệnh nhân được giải thích rõ về thủ thuật
cũng như nguy cơ cao do vị trí bất thường tại lỗ
mạch vành trái và ký giấy cam đoan.
Thủ thuật được tiến hành vào ngày
09/03/2010 tại cathlab BV Thống Nhất với hệ
thống EP Bard, máy đốt ATARK II -Medtronic.
Tiến hành gây tê và đặt 3 sheath 6F, 7F tĩnh
mạch đùi phải, 1 sheath 7F động mạch đùi phải,
1 sheath 5F tĩnh mạch dưới đòn trái.
Thông qua các sheath đặt các catheter thăm
dò vào xoang vành, mỏm thất phải, buồng thoát
thất phải, buồng thoát thất trái. Tại vị trí xoang
vành đo được các điện thế hoạt động vùng nhĩ
và thất trái đoạn gần, giữa và xa. Trong quá
trình khảo sát và đo đạc thấy hiện diện thường
xuyên hình ảnh ngoại tâm thu thất từ ổ loạn
nhịp với thời gian QRS là 420 ms.
Tiến hành lập bản đồ nội mạc đánh giá vị
trí khử cực sớm của ổ loạn nhịp thất. Khảo sát
vùng thoát thất phải bằng catheter đốt 7F
St.Jude theo tĩnh mạch đùi phải qua van 3 lá.
Khảo sát vùng thoát thất trái bằng catheter 7F
St.Jude đi từ động mạch đùi phải ngược dòng
động mạch chủ đến vùng van động mạch chủ.
Vị trí lỗ động mạch trái và phải đã được đánh
dấu bằng cách chụp mạch vành trước khi đưa
catheter khảo sát buồng tim nhằm tránh gây
tổn thương mạch vành.
Nhận thấy tại vị trí xoang vành đoạn xa cho
khử cực thất của ổ loạn nhịp sớm hơn so với
khử cực thất của buồng thoát thất phải là 22 ms,
nhưng vị trí khử cực sớm nhất là tại xoang vành
trái là 42ms. Xác định vị trí khử cực sớm nhất là
tại xoang vành trái thấp hơn lỗ mạch vành trái 2
cm. Bằng phương pháp kích thích tại vị trí nghi
ngờ ổ loạn nhịp để tạo hình ảnh giống hình ảnh
ngoại tâm thu bề mặt, nhưng thất bại không thể
kích thích dẫn nhịp được dù tăng ngưỡng kích
thích khá cao.
Tiến hành đốt tại vị trí này với năng lượng
35 W, nhiệt độ 55˚C kéo dài mỗi 30 giây, sau 2
lần đốt không thấy xuất hiện ổ loạn nhịp, tiến
hành đốt tiếp 2 lần 30 giây. Xác định triệt phá
thành công ổ loạn nhịp.
Hình 5: ECG bề mặt có hình ảnh ngoại tâm thất
buồng thoát thất trái
Hình 6: ECG trong buồng tim
Hình 7: Vị trí triệt phá thành công ổ loạn nhịp LVOT
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 196
BÀN LUẬN
Loạn nhịp thất buồng thoát thất là loại loạn
nhịp hay gặp trên lâm sàng, bệnh nhân thường
không có bệnh tim thực tổn và phương pháp
triệt phá ổ loạn nhịp bằng năng lượng sóng
radio qua catheter thường được lựa chọn vì khả
năng thành công cao. Loại loạn nhịp thất tại
buồng thoát thất phải thường gặp trên 80% và
cho kết quả thành công cao vì khả năng tiếp cận
ổ loạn nhịp dễ hơn là loạn nhịp thất buồng thoát
thất trái và nguy cơ biến chứng thủ thuật ít hơn.
Trong quá trình khảo sát trong buồng tim, thủ
thuật viên thường tiến hành các thăm dò đơn
giản và ít biến chứng trước nên thường là thăm
dò và đốt các vị trí nghi ngờ tại buồng thoát thất
phải trước rồi mới quyết định thăm dò buồng
thoát thất trái, do vậy rất tốn nhiều thời gian và
công sức.
Dựa vào ECG bề mặt của ổ loạn nhịp thất có
thể dự đoán vị trí ổ loạn nhịp tại buồng thoát
thất phải hay trái nhưng thật sự không dễ dàng
như đã đề cập ở phần trên (8).
Xoang tĩnh mạch vành với đặc điểm giải
phẫu cho phép đánh giá được điện thế hoạt
động của vùng tâm nhĩ và thất bên trái nhất là
tại nhánh tận đầu xa quặt ra thành bên của tâm
thất, cho phép so sánh được vùng khử cực sớm
của buồng thoát thất trái so với buồng thoát thất
phải. Chúng tôi cho rằng cần nên đưa thêm điện
cực thăm dò xoang vành trên những bệnh nhân
khảo sát và cắt đốt loạn nhịp thất. Trong quá
trình thăm dò loạn nhịp thất bệnh nhân trên đã
chứng tỏ điện cực xa xoang vành cho khử cực
sớm hơn nhiều so với điện cực tại buồng thoát
thất phải trên 20ms. Do vậy đã giúp rút ngắn
thời gian thủ thuật, giảm được số lượng tia
chiếu cũng như nâng cao chất lương điều trị.
Nhận xét trên của chúng tôi cũng tương tự với
tác giả Majid Haghjoo(8), đánh giá khử cực sớm
tại nhiều vị trí của buồng thoát thất trái so phải,
và tương tự tại buồng thoát thất trái rất khó kích
thích tạo khử cực nên cách tìm ổ loạn nhịp tốt
nhất là tìm vị trí cho khử cực thất sớm nhất.
Tóm lại, điện cực thăm dò xoang vành rất có
giá trị trong việc chẩn đoán phân biệt loạn nhịp
thất buồng thoát thất trái so với phải. Đây là
cách tiếp cận tương đối đơn giản và nên sử
dụng rộng rãi trong khảo sát và cắt đốt ổ loạn
nhịp thất buồng thoát thất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arash Arya, Majid Haghjoo, Zahra Emkanjoo, Mohammad Ali
Sadr-Ameli. (2005): Coronary sinus mapping to differentiate left
versus right ventricular outflow tract tachycardias.Europace 7 (5):
428-432.
2. Callans DJ, Menz V, Schwartzman D, Gottlieb CD, Marchlinski
FE. (1997): Repetitive monomorphic tachycardia from the left
ventricular outflow tract. Electrocardiographic patterns
consistent with a left ventricular site of origin. J Am Coll Cardiol
2 9:1023-1027.
3. Hachiya H, Aonuma K, Yamauchi Y, Harada T, Igawa M,
Nogami A, et a. (2000): Electrocardiographic characteristics of left
ventricular outflow tract tachycardia. Pacing Clin Electrophysiol ;
23:1930-1934.
4. Hachiya H, Aonuma K, Yamauchi Y, Igawa M, Nogami A,
Iesaka Y. (2002): How to diagnose, locate, and ablate coronary
cusp ventricular tachycardia. J Cardiovasc Electrophysiol; 13:551-
556.
5. Ito S, Tada H, Naito S, Kurosaki K, Ueda M, Hoshizaki H, et al.
(2003): Development and validation of an ECG algorithm for
identifying the optimal ablation site for idiopathic ventricular
outflow tract tachycardia. J Cardiovasc Electrophysiol; 14:1280-
1286.
6. Lerman BB. (2004): Ablating left ventricular outflow tract
tachycardia: in search of Ockham's razor. Pacing Clin
Electrophysiol ;27:1051-1052.
7. Miles WM. (2001): Idiopathic ventricular outflow tract
tachycardia: where does it originate? J Cardiovasc Electrophysiol;
12:536-537.
8. Ortale JR, Gabriel EA, Iost C, Marquez CQ. (2001): The anatomy
of the coronary sinus and its tributaries. Surg Radiol Anat; 23:15-
21.
9. Ouyang F, Fotuhi P, Ho SY, Hebe J, Volkmer M, Goya M, et al.
(2002): Repetitive monomorphic ventricular tachycardia
originating from the aortic sinus cusp: electrocardiographic
characterization for guiding catheter ablation. J Am Coll Cardiol;
39:500-508.
10. Yeh S, Wen M, Wang C, Lin F, Wu D. (1997): Adenosine-
sensitive ventricular tachycardia from the anterobasal left
ventricle. J Am Coll Cardiol 3 0:1339-1345.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_mot_truong_hop_su_dung_dien_cuc_tham_do_xoang_vanh_tron.pdf