III. BÀN LUẬN
Ung thư biểu mô tế bào vảy (SqCC) hay xuất hiện
ở các phế quản trung tâm và thường được chẩn đoán
bằng tế bào học đờm, chải phế quản. Về tế bào học
được phân thành 4 loại (WHO 2004): tế bào sang,
tế bào nhỏ, dạng nhú và dạng đáy [8], [11], [14]. Giai
đoạn tổn thương thường được phân theo TNM của ISS
(International Staging System) [2]. Việc phân giai đoạn
của khối u có ý nghĩa quan trọng trong tiên lượng bệnh
và là yếu tố quyết định để hướng dẫn điều trị [ 7]. Ca
bệnh trên là một trong nhưng trường hợp hiếm gặp của
ung thư biểu mô tế bào vảy phổi có phá hủy xương sọ
đa ổ do di căn. Tại Việt Nam chưa ghi nhận báo cáo về
trường hợp nào tương tự, trên y văn thế giới ghi nhận
hai trường hợp, trên y văn thế giới ghi nhận một trường
hợp tương tự có di căn xương đỉnh trái ở bệnh nhân
nam người Úc 80 tuổi của tác giả người anh Imran
Kader và một trường hợp K biểu mô tuyến phổi di căn
xương trán của tác giả Foco [1], [4]. Một số tổn thương
di căn xương sọ từ K vú, tiền liệt tuyến, tuyến giáp,
sarcome Ewing và u nguyên bào thần kinh có thể gặp
nhưng rất hiếm [3], [20]. Cơ chế tổn thương xương do
di căn cũng chưa được giải thích một cách rõ ràng và
đầy đủ. Mô xương có độ bền cao trước sự phá hủy, đa
phần tổn thương xương là từ K vú, đa u tủy xương, tiền
liệt tuyến và thường gặp phá hủy xương trực tiếp hơn
là di căn [18 ]. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy xuất
hiện di căn xương do sự mất cân bằng giữa hoạt hóa
các tạo cốt bào (tế bào sản xuất xương) và hoạt hóa
các hủy cốt bào (các tế bào phá hủy xương) với vai trò
của Interleukin 6 và 7 [10], [13]. Tiên lượng trên bệnh
nhân này với giai đoạn IV là rất xấu, theo y văn thế
giới thì bất kì một tổn thương di căn nội sọ nào từ một
loại ung thư bất kì thì thời gian sống chỉ vài tháng [2],
[12]. Và vấn đề hướng điều trị ở giai đoạn này cũng rất
khó khăn, một số tác giả điều trị phẫu thuật loại bỏ các
tổn thương kết hợp xạ trị [5]. Hóa trị liệu với tác nhân
Platinum nền, chẳng hạn như cisplatin và carboplatin,
được báo cáo là có một tỉ lệ đáp ứng 29% so với tổn
thương nội sọ di căn phát sinh từ SqCC và có thể được
sử dụng ở bệnh nhân có triệu chứng thần kinh được
kiểm soát tốt [ 17]. Các điều trị hữu hiệu như cải thiện
chức năng thần kinh, giảm phù nề quanh thương tổn và
một số tác giả đề nghị chỉ điều trị triệu chứng kết hợp
giảm đau [21]. Điều trị đau trong ung thư di căn xương:
sử dụng theo 3 bậc thang giảm đau của Tổ chức Y tế
thế giới. Thuốc giảm đau sử dụng ưu tiên loại đường
uống. Đau rất mạnh sử dụng ngay bậc 3. Thuốc chống
viêm không steroide hiệu quả trong những trường hợp
đau xương. Thuốc corticoide có hiệu quả giảm đau trên
đau xương, nội tạng và thần kinh, nhưng không có ưu
tiên loại corticoide nào hay liều nào được xác định [5].
Bệnh nhân trên được điều trị giảm đau và đã ra viện.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp ung thư tế bào vảy phổi di căn xương sọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 201456
DIỄN ĐÀN
MEDICAL FORUM
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi là nguyên nhân phổ biến nhất gây tử
vong do ung thư và góp phần đáng kể về gánh nặng
bệnh tật [11,15]. Ung thư biểu mô tế bào vảy phổi
(SqCC) chiếm khoảng 30% loại ung thư phổi không
phải tế bào nhỏ (NSCLC) [11]. Ung thư biểu mô tế bào
vảy phổi phát sinh từ loạn sản biểu mô vảy của phế
quản và được xác định trên mô bệnh học với hiện diện
của keratin và cầu gian bào. Chẩn đoán tế bào chia
thành hai loại: biệt hóa tốt và biệt hóa kém [9]. SqCC
liên quan chặt chẽ với hút thuốc lá. Trên 50% bệnh
nhân có tổn thương thứ phát tại thời điểm được chẩn
đoán [15]. Não là một trong nhưng cơ quan có tỉ lệ di
căn do ung thư biểu mô của phổi cao nhất và tỉ lệ này
chiếm khoảng 25-50%. Hơn một nửa của các khối u
não là tổn thương do di căn [12]. Trong di căn não, 80%
có nguồn gốc từ bán cầu đại não và được xác định với
hình ảnh tổn thương dạng nang hoặc nốt đặc bám viền
có giới hạn. Một số ít các tổn thương có hình ảnh xâm
lấn [6]. Tổn thương não di căn có tỉ tử vong cao và có
tiên lượng xấu [12], [17 ]. Đặc điểm lâm sàng của di căn
não thay đổi tùy theo vị trí của tổn thương và có thể là
dấu hiệu cận ung thư hoặc ung thư [6]. Triệu chứng phổ
biến nhất của di căn não là đau đầu, có tỉ lệ 24 - 53%
trên tổng số bệnh nhân. Những triệu chứng khác bao
gồm tình trạng thay đổi tâm lý, yếu liệt khu trú, động
kinh và rối loạn vận động [16].
II. BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP
Bệnh nhân nữ Dương Thị Q. 77 tuổi, ở xã Trung
Giang, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị nhập viện Khoa
Nội Tổng hợp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị ngày
30/9/2013 với triệu chứng đau đầu, đau ngực và sờ
có khối lùng nhùng ở dưới da vùng đỉnh phải. Bệnh
nhân có tiền sử hút thuốc lá 40 gói/năm, triệu chứng
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP UNG THƯ
TẾ BÀO VẢY PHỔI DI CĂN XƯƠNG SỌ
Skull metastasis arising from pulmonary squamous cell
carcinoma: A case report
Phùng Hưng*, Hoàng Minh Lợi**
*Khoa CĐHA BVĐK Quảng Trị
**Khoa CĐHA ĐHYD Huế
SUMMARY
Introduction: Squamous cell carcinoma of the lung represents 30% of all non-small cell lung carcinomas. It
arises from dysplasia of squamous epithelium of the bronchi and is strongly associated with cigarette smoking.
Squamous cell carcinoma of the lung is known to produce metastases in the brain parenchyma.
Case presentation: We present the case of a 77-year-old woman with an unusual presentation of metastatic
carcinoma of the lung. The case demonstrated a squamous cell carcinoma of the lung with an intracranial metastatic
lesion destroying the parietal bone and extending into the extra cranial soft tissue. A visible deformity as a result
of the metastasis was evident on physical examination, magnetic resonance imaging and computed tomography
demonstrated extensive bone destruction.
Conclusion: Squamous cell carcinoma of the lung with an intracranial metastatic lesion is rare in the world
literature. The case report demonstrates an unusual disease presentation with an intra-cranial metastasis invading
through the skull.
Keywords: Destruction of bone; Metastasis; Squamous cell carcinoma.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 57
DIỄN ĐÀN
đau ngực xuất hiện đã lâu (4-5 năm), thỉnh thoảng có
ho ra máu, bệnh nhân phát hiện khối lùng nhùng ở vùng
đỉnh phải xuất hiện cách đây khoảng 6 tháng, sụt cân
4 tháng nay. Khám thực thể vùng đỉnh phải có khối đẩy
lồi da đầu lên, sờ thấy lùng nhùng, bệnh nhân không có
tiền sử chấn thương vùng đầu. Bệnh nhân được cho
chụp X-quang sọ não và phổi và trên hình ảnh X-quang
sọ não phát hiện nhiều ổ khuyết xương sọ rải rác, tập
trung nhiều ở vùng đỉnh phải (Hình 2), trên X-quang
phổi phát hiện khối mờ dạng phế bào vùng đỉnh phải,
được kết luận theo dõi u phổi trái (Hình 5). Bệnh nhân
được chụp CLVT sọ não không tiêm thuốc cản quang
và CLVT phổi có tiêm thuốc cản quang. Trên CLVT sọ
não không tiêm thuốc cản quang: nhu mô não không
thấy tổn thương, phát hiện nhiều khối choán chỗ tỉ trọng
mô mềm trong các ổ tiêu xương sọ, tập trung nhiều ở
vùng đỉnh phải, đẩy lồi da đầu và màng cứng, chưa
thấy xâm lấn nhu mô não, khối lớn nhất ở đỉnh phải KT#
3,3x3,4x3,6 cm.
Hình 1. X-quang sọ nghiêng, các ổ tiêu xương sọ rải
rác, tập trung nhiều ở vùng đỉnh phải.
Trên siêu âm sọ tai vị trí tổn thương ở vùng đỉnh
phải phát hiện khối choán chỗ giới hạn rõ, cấu trúc giảm
âm trong xương sọ đẩy lồi ra ngoài, KT # 3,1x3,3 cm.
Các cuộn não bên dưới không thấy tổn thương (Hình 2).
Hình 2. Siêu âm sọ có khối choán chỗ giảm âm trong
xương sọ
Trên hình ảnh MRI sọ não có tiêm gado tĩnh mạch
phát hiện nhiều khối choán trương mô xương sọ tăng
tính hiệu nhẹ so với mô xương xốp sọ não cả trên T1W,
T2W và FLAIR, sau tiêm gado T1 ngấm thuốc mức độ
vừa, khối lớn nhất ở vùng đỉnh phải đẩy lồi da đầu lên
và KT tổn thương # 2,2x2,3x3,1, không thấy tổn thương
nhu mô não màng não (Hình 4).
Hình 3. CLVT sọ não, các ổ tiêu xương vùng đỉnh phải
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 201458
DIỄN ĐÀN
Trên CLVT phổi có tiêm cản quang tĩnh mạch: khối
choán chỗ tỉ trọng mô mềm đỉnh phổi trái vị trí phân thùy
2 KT #3,3x4,4x5cm, tổn thương nhu mô phổi quanh
khối ít, khối xâm lấn tiêu một phần cung sau xương
sườn 3 trái không thấy khối liên quan với các nhánh
phế quản, được kết luận nghĩ nhiều đến u loại không
phải tế bào nhỏ (NSCLC) đỉnh phổi trái (Hình 6). Bệnh
nhân được chọc hút tế bào qua kim nhỏ dưới hướng
dẫn siêu âm tại khối tổn thương vùng đỉnh phải, kết quả
tế bào học: K biểu mô di căn.
Sau đó bệnh nhân được chuyển vào Khoa Ung
bướu BV TW Huế, ghi nhận kết quả tế bào học rửa phế
quản: K biểu mô tế bào vảy biệt hóa kém. Bệnh nhân
được điều trị giảm đau và đã xin ra viện.
Hình 4. Khối choán chỗ và phá hủy mô xương xốp
vùng đỉnh trái trên sagittal T1 post gado
Hình 5. X-quang phổi thẳng phát hiện khối mờ phế
bào vùng đỉnh trái
(*): td u phổi trái.
Hình 6. CVVT phổi, phát hiện khối choán chỗ đỉnh
phổi trái.
III. BÀN LUẬN
Ung thư biểu mô tế bào vảy (SqCC) hay xuất hiện
ở các phế quản trung tâm và thường được chẩn đoán
bằng tế bào học đờm, chải phế quản. Về tế bào học
được phân thành 4 loại (WHO 2004): tế bào sang,
tế bào nhỏ, dạng nhú và dạng đáy [8], [11], [14]. Giai
đoạn tổn thương thường được phân theo TNM của ISS
(International Staging System) [2]. Việc phân giai đoạn
của khối u có ý nghĩa quan trọng trong tiên lượng bệnh
và là yếu tố quyết định để hướng dẫn điều trị [ 7]. Ca
bệnh trên là một trong nhưng trường hợp hiếm gặp của
ung thư biểu mô tế bào vảy phổi có phá hủy xương sọ
đa ổ do di căn. Tại Việt Nam chưa ghi nhận báo cáo về
trường hợp nào tương tự, trên y văn thế giới ghi nhận
hai trường hợp, trên y văn thế giới ghi nhận một trường
hợp tương tự có di căn xương đỉnh trái ở bệnh nhân
nam người Úc 80 tuổi của tác giả người anh Imran
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 59
DIỄN ĐÀN
Kader và một trường hợp K biểu mô tuyến phổi di căn
xương trán của tác giả Foco [1], [4]. Một số tổn thương
di căn xương sọ từ K vú, tiền liệt tuyến, tuyến giáp,
sarcome Ewing và u nguyên bào thần kinh có thể gặp
nhưng rất hiếm [3], [20]. Cơ chế tổn thương xương do
di căn cũng chưa được giải thích một cách rõ ràng và
đầy đủ. Mô xương có độ bền cao trước sự phá hủy, đa
phần tổn thương xương là từ K vú, đa u tủy xương, tiền
liệt tuyến và thường gặp phá hủy xương trực tiếp hơn
là di căn [18 ]. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy xuất
hiện di căn xương do sự mất cân bằng giữa hoạt hóa
các tạo cốt bào (tế bào sản xuất xương) và hoạt hóa
các hủy cốt bào (các tế bào phá hủy xương) với vai trò
của Interleukin 6 và 7 [10], [13]. Tiên lượng trên bệnh
nhân này với giai đoạn IV là rất xấu, theo y văn thế
giới thì bất kì một tổn thương di căn nội sọ nào từ một
loại ung thư bất kì thì thời gian sống chỉ vài tháng [2],
[12]. Và vấn đề hướng điều trị ở giai đoạn này cũng rất
khó khăn, một số tác giả điều trị phẫu thuật loại bỏ các
tổn thương kết hợp xạ trị [5]. Hóa trị liệu với tác nhân
Platinum nền, chẳng hạn như cisplatin và carboplatin,
được báo cáo là có một tỉ lệ đáp ứng 29% so với tổn
thương nội sọ di căn phát sinh từ SqCC và có thể được
sử dụng ở bệnh nhân có triệu chứng thần kinh được
kiểm soát tốt [ 17]. Các điều trị hữu hiệu như cải thiện
chức năng thần kinh, giảm phù nề quanh thương tổn và
một số tác giả đề nghị chỉ điều trị triệu chứng kết hợp
giảm đau [21]. Điều trị đau trong ung thư di căn xương:
sử dụng theo 3 bậc thang giảm đau của Tổ chức Y tế
thế giới. Thuốc giảm đau sử dụng ưu tiên loại đường
uống. Đau rất mạnh sử dụng ngay bậc 3. Thuốc chống
viêm không steroide hiệu quả trong những trường hợp
đau xương. Thuốc corticoide có hiệu quả giảm đau trên
đau xương, nội tạng và thần kinh, nhưng không có ưu
tiên loại corticoide nào hay liều nào được xác định [5].
Bệnh nhân trên được điều trị giảm đau và đã ra viện.
IV. KẾT LUẬN
Tổn thương phá hủy xương sọ do di căn từ ung
biểu mô tế bào vảy ở phổi rất hiếm gặp trọng y văn
ở Việt Nam và trên thế giới. Các xét nghiệm hình ảnh
như X quang, cắt lớp vi tính và cộng hưởng từ rất quan
trọng trọng việc chẩn đoán cung như đưa ra cái nhìn
tổng thể về các tổn thương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Foco F, Dizdarevic-Spago D, Efendic R,
Dizdarevic D, Babajic E, Sarajlic L: Adenocarcinoma
metastaticum of the frontal region. Med Arh 2011, 65:61-
62.
2. Groome P, Bolejack V, Crowley J, Kennedy
C, Krasnik M, Sobin L, Goldstraw P: The IASLC lung
cancer staging project: validation of the proposals for
revision of the T, N, and M descriptors and consequent
stage groupings in the forthcoming (seventh) edition of
the TNM classification of malignant tumours. J Thorac
Oncol 2007, 2:694.
3. Healy J, Marshall W, Brahme F, White
F: CT of intracranial metastases with skull and scalp
involvement. Am J Neuroradiol 1981, 2:335-336.
4. Kader. I, Strong. M, George. M.. Skull destruction
from intracranial metastasis arising from pulmonary
squamous cell carcinoma: a case report. Journal of
Medical Case Reports 2013, 7:28.
5. Lê Trung Thọ. Nghiên cứu Y học: Chẩn đoán
tế bào học một số ung thư phế quản. Chuyên đề Giải
Phẫu bệnh. Tế bào bệnh học 17. Y Học TP. Hồ Chí
Minh. Tập 11. Phụ bản Số 3-2007.
6. Meyers C: Neurocognitive dysfunction in
cancer patients. Oncology (Huntington) 2000, 14:75-
79.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 201460
DIỄN ĐÀN
7. Nair A, Klusmann M, Jogeesvaran K,
Grubnic S, Green S, Vlahos I: Revisions to the TNM
staging of non-small cell lung cancer: rationale,
clinicoradiologic implications, and persistent limitations.
RG 2011, 31:215-238.
8. Ngô Thế Quân, Phạm Thị Thái Hà, Nguyễn Chi
Lăng, Nguyễn Công Định. Phân loại mô bệnh học ung
thư phế quản. Theo phân loại của WHO-1999. Chuyên
đề Giải Phẫu bệnh. Tế bào bệnh học 17. Y Học TP. Hồ
Chí Minh. Tập 11. Phụ bản Số 3-2007.
9. Nonaka D: A study of ΔNp63 expression
in lung non-small cell lung carcinomas. Am J Surg
Pathol 2012, 36:895-899.
10. Okamoto M, Hiura K, Ohe G, Ohba Y, Terai
K, Oshikawa T, Furuichi S, Nishikawa H, Moriyama K,
Yoshida H, Sato M: Mechanism for bone invasion of
oral cancer cells mediated by interleukin-6 in vitro and
in vivo. Cancer 2000, 89:1966-1975.
11. Perez-Moreno P, Brambilla E, Thomas R, Soria
J: Squamous cell carcinoma of the lung: molecular
subtypes and therapeutic opportunities. Clin Cancer
Res 2012, 18:2443-2451.
12. Platta C, Khuntia D, Mehta M, Suh J: Current
treatment strategies for brain metastasis and
complications from therapeutic techniques: a review of
current literature. Am J Clin Oncol 2010, 33:398-407.
13. Roato I, Caldo D, Godio L, D’Amico L,
Giannoni P, Morello E, Quarto R, Molfetta L, Buracco
P, Mussa A, Ferracini R: Bone invading NSCLC cells
produce IL-7: mice model and human histologic data.
BMC Cancer 2010, 10:12.
14. Rossi G, Marchioni A, Sartori G, Longo L,
Piccinini S, Cavazza A: Histotype in non-small cell lung
cancer therapy and staging: the emerging role of an old
and underrated factor. Curr Respir Med Rev 2007, 3:69-
77.
15. Ruysscher D, Wanders R, Baardwijk A,
Dingemans A, Reymen B, Houben R, Bootsma G,
Pitz C, Eijsden L, Geraedts W, Baumert B, Lambin
P: Radical treatment of non-small-cell lung cancer
patients with synchronous oligometastases: long-
term results of a prospective phase II trial. J Thoracic
Oncol 2012, 7:1547-1555.
16. Schellinger P, Meinck H, Thron A: Diagnostic
accuracy of MRI compared to CCT in patients with brain
metastases. J Neurooncol 1999, 44:275-281.
17. Soffietti R, Ruda R, Trevisan E: Brain
metastases: current management and new
developments. Curr Opin Oncol 2008, 20:676-684.
18. Sohara Y, Shimada H, DeClerck
Y: Mechanisms of bone invasion and metastasis in
human neuroblastoma. Cancer Lett 2005, 228:203-
209.
19. Tachasuttirut K, Hasegawa S, Yoshino N,
Ito D, Omura K: Effect of irradiation on malignant
tumour invasion into bone. Asian J Oral Maxillofac
Surg 2008, 20:117-123.
20. Turgut M, Colak A, Gurcay O: Multiple
intracranial metastases with skull and scalp involvement
in Ewing’s sarcoma. Cent Afr J Med 1994, 40:104-106.
21. Vogelbaum M, Suh J: Resectable brain
metastases. J Clin Oncol 2006, 24:1289-1294.
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ung thư biểu mô tế bào vảy phổi chiếm khoảng 30% loại không phải ung thư tế bào nhỏ. Nó phát
sinh từ loạn sản biểu mô vảy của phế quản và liên quan chặt chẽ với hút thuốc lá. Ung thư biểu mô tế bào vảy của
phổi thường được biết là nguyên nhân di căn nhu mô não.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 61
DIỄN ĐÀN
Báo cáo trường hợp: Chúng tôi báo cáo trường hợp một phụ nữ 77 tuổi ung thư biểu mô tế bào vảy ở phổi và
sự di căn bất thường của nó. Với biểu hiện ung thư phổi di căn xương sọ, phá hủy xương đỉnh và xâm lấn mô mềm
ngoài sọ. Qua thăm khám lâm sàng, siêu âm sọ, chụp CLVT và MRI cho thấy tổn thương xâm lấn phá hủy xương
rộng.
Kết luận: Di căn xương sọ từ ung thư tế bào vảy phổi rất hiếm gặp trong y văn thế giới. Báo cáo của chúng tôi
diễn giải một trường hợp bất thường hiếm gặp đó.
Từ khóa: Phá hủy xương, sự di căn, ung thư biểu mô tế bào vảy.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS. Vũ Long
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhan_mot_truong_hop_ung_thu_te_bao_vay_phoi_di_can_xuong_so.pdf