Bn của chúng tôi được chẩn đoán viêm thận
lupus trước khi bị nhiễm trùng da và nhiễm
trùng huyết do MRSA, nên thời điểm bị VCT
cấp khó xác định, có thể sau nhiễm trùng da
khoảng 2-3 tuần, nghĩa là sớm hơn các báo cáo
khác. Với bổ thể giảm nhẹ, đáng tiếc là chúng tôi
không làm điện di miễn dịch huyết thanh để
phát hiện những thay đổi của các globulin miễn
dịch trong máu, nhưng kết quả giải phẫu bệnh
hoàn toàn phù hợp với y văn, với lắng đọng
IgG, IgA, C3, và fibrinogen. Mặc dù viêm thận
lupus cũng có hình ảnh VCT liềm, nhưng trong
VCT tăng sinh do lupus (1) không có thâm
nhiễm bạch cầu đa nhân trung tính; và (2) với
bệnh cảnh nặng, miễn dịch huỳnh quang sẽ có
biểu hiện “full house” với lắng đọng tất cả các
thành phần tại cầu thận(13,18). Do bn bị VCT hậu
nhiễm trùng MRSA trên nền lupus đỏ biến
chứng viêm cơ tim, viêm thận, nên chúng tôi
không thể ngưng hoàn toàn steroid, mà chỉ giảm
steroid còn liều kháng viêm. Việc lọc máu định
kỳ đã hỗ trợ chúng tôi rất nhiều trong việc duy
trì cân bằng điện giải, tránh phù phổi cấp và bảo
vệ tính mạng bn. Khi điều kiện bn vừa tạm ổn,
chúng tôi làm sinh thiết thận. Đây là ca bn đầu
tiên mà chúng tôi tiến hành sinh thiết thận trong
giai đoạn thiểu niệu của suy thận cấp, trong điều
kiện bn phù toàn thân và đang chạy thận nhân
tạo 3-4 lần trong tuần. Sau sinh thiết thận, bn ổn
định và không tiểu máu. Tuy mẫu thận chỉ có 4
cầu thận, nhưng với tổn thương lan tỏa, cho
phép chúng tôi chẩn đoán bệnh. Thành công
này đã mở ra hướng tiếp cận chẩn đoán tích cực
để điều trị hiệu quả cho các bn bệnh thận nặng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 444 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một trường hợp viêm cầu thận cấp hậu nhiễm Staphylococcus Aureus kháng Methicilline trên bệnh nhân viêm thận Lupus, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 278 
NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP VIÊM CẦU THẬN CẤP HẬU NHIỄM 
STAPHYLOCOCCUS AUREUS KHÁNG METHICILLINE 
TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM THẬN LUPUS 
Phan Thanh Nhựt*, Trần Lê Quân*, Trần Thị Bích Hương*,** 
TÓM TẮT 
Chúng tôi báo cáo một trường hợp viêm cầu thận cấp hậu nhiễm staphylococcus aureus kháng methicilline 
(MRSA) ở một bệnh nhân nam 22 tuổi được chẩn đoán lupus đỏ hệ thống biến chứng đa phủ tạng (viêm đa 
khớp, viêm cơ tim, viêm thận dạng hội chứng thận hư). Tình trạng nhiễm MRSA khởi phát từ viêm mô tế bào 
cánh tay phải, sau lan sang viêm phổi, viêm mủ màng ngoài tim có biến chứng chèn ép tim và nhiễm trùng 
huyết. Bệnh nhân được mổ dẫn lưu màng ngoài tim và điều trị theo kháng sinh đồ, với kháng sinh chủ yếu 
vancomycine. Viêm cầu thận cấp có biến chứng suy thận cấp thể thiểu niệu và bn được chỉ định lọc máu sớm hổ 
trợ các điều trị trên. Sinh thiết thận được tiến hành để xác định chẩn đoán nguyên nhân của viêm cầu thận cấp, 
ghi nhận viêm cầu thận cấp nặng do nhiễm trùng với thâm nhiễm bạch cầu đa nhân trung tính vào cầu thận, 
tăng sinh nội mạch và ngọai mạch, kèm tạo liềm tế bào và phá hủy bao Bownman. Miễn dịch huỳnh quang có 
lắng đọng dạng hạt ở trung mô của IgG, IgA, Fibrinogen, C3, C1q. 
Kết quả: Mặc dù khống chế được nhiễm trùng MRSA, nhưng tình trạng suy thận cấp hậu nhiễm không 
hồi phục sau đó, và bệnh nhân được lọc máu định kỳ. 
Từ khóa: Staphylococcus aureus kháng methicilline, viêm cầu thận cấp hậu nhiễm trùng, viêm thận lupus. 
ABSTRACT 
A CASE REPORT OF AN ACUTE GLOMERULONEPHRITIS ASSOCIATED TO METHICILLINE 
RESISTANT STAPHYLOCOCCUS AUREUS IN A LUPUS NEPHRITIS MAN 
Phan Thanh Nhut, Tran Le Quan, Tran Thi Bich Huong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 278 - 286 
We reported a case of acute glomerulonephritis associated to methicilline resistant Staphylococcus aureus 
(MRSA) infection in a 22 yo man, who was diagnosed systemic lupus erythematosus with arthritis 
manifestations in joints, myocarditis and glomerulonephritis. MRSA infection started from a cellulitis in the 
right arm, then widespreaded to pneumonia, pericardial effusion with cardiac tamponade and sepsis. The 
pericardiac tamponade was managed by surgical drainage and antibiotics, mainly vancomycine. With acute 
glomerulonephritis manifested by oliguric acute renal failure, hemodialysis was indicated. Renal biopsy was 
performed to differentiate the cause of acute glomerulonephritis. It showed severe acute glomerulonephritis due to 
infection with infiltration of neutrophils in the glomeruli, endo- and extracapillary proliferative with cellular 
crescentic formation and damaging the Bowmann’s capsule. Immunoflourescent staining showed IgG, IgA, 
Fibrinogen, C3, C1q granular deposits in the mesangial region. 
Conclusion: Although MRSA infection was finally controlled but the acute renal failure was not recovered 
and patient required long term hemodialysis. 
Key words: Acute glomerulonephritis, Acute postinfectious glomerulonephritis, Methicillin- Resistant 
Staphylococcus Aureus. 
* Khoa Thận, BV Chợ Rẫy, ** Bộ Môn Nội, Đại Học Y Dược Tp Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Phan Thanh Nhựt ĐT: 0946793199 email: drphanthanhnhut@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 279
MỞ ĐẦU 
Viêm cầu thận cấp (VCTC) hậu nhiễm trùng 
là một đáp ứng miễn dịch của thận xảy ra sau 
một nhiễm trùng ngoài thận. Bệnh cảnh viêm 
cầu thận này được biết đến từ năm 1849 khi 
Miller và cộng sự quan sát thấy bệnh nhân (bệnh 
nhân) tiểu đạm, tiểu máu, thiểu niệu và tử vong 
sau sốt tinh hồng nhiệt (scarlet fever)(286). Chỉ 50 
năm sau, tác nhân gây bệnh là vi trùng 
streptococcus mới được biết đến và điều trị với 
penicillin. Bệnh cảnh điển hình của VCTC hậu 
nhiễm liên cầu trùng bao gồm tiểu máu xảy ra 
sau 1-3 tuần bn viêm họng hoặc viêm da do 
streptococcus group A tán huyết beta, strain M 
có thể kèm tăng huyết áp, phù, suy thận cấp. 
Bệnh thường diễn tiến lành tính và tự hồi phục 
sau đó 2-3 tuần. Những năm gần đây, y văn bắt 
đầu ghi nhận lẻ tẻ những trường hợp viêm cầu 
thận cấp sau nhiễm các chủng khác của 
streptococcus không thuộc nhóm A (group C và 
G), vi khuẩn gram dương và âm, 
staphylococcus, mycobacteria, ký sinh trùng, 
nấm và virus(4). Từ đó dẫn đến một thuận ngữ 
mới, bao quát hơn là “viêm cầu thận hậu nhiễm 
trùng” (postinfectious glomerulonephritis) hoặc 
viêm cầu thận liên quan đến nhiễm trùng 
(infection associated glomerulonephritis) để 
thay thể cho thuật ngữ kinh điển viêm cầu thận 
hậu nhiễm streptococcus(4,5,11). Chúng tôi xin 
trình bày một trường hợp nhiễm trùng huyết do 
staphylococcus aureus kháng methicilline 
(MRSA) trên bn viêm thận lupus. Tổn thương 
gây suy thận cấp không phải do lupus mà là 
VCTC hậu nhiễm MRSA. 
Bn Phạm Minh T., nam 22 tuổi, được chuyển 
bệnh viện Chợ Rẫy ngày 1/6/2010, với chẩn đoán 
tăng huyết áp trên bn bệnh tự miễn (SNV 
45167). 
Cách nhập viện 20 ngày, bn đau khớp cổ 
chân, cổ tay 2 bên. Mười ngày sau, sưng đau 
thêm khớp vai phải, kèm tiểu ít, phù tăng dần 
đến toàn thân, bn đến khám tại phòng khám 
Thận, BV Chợ Rẫy. Với xét nghiệm creatinine 
huyết thanh 1,8mg/dL, kháng thể kháng nhân 
dương tính (20/05/10), tiểu đạm, bn được chẩn 
đoán viêm thận lupus và điều trị 
methylprednisolone 48mg/ngày uống. Một ngày 
trước nhập viện, bn co giật toàn thân kèm sốt 
cao, nhập bệnh viện địa phương ghi nhận huyết 
áp tăng 170/100mmHg. Tại bệnh viện, bn co giật 
toàn thân 2 lần, sưng đau các khớp gây giới hạn 
cử động khớp, creatinine huyết thanh 
246mol/L (2,78mg/dL). Bn được điều trị 
furosemide và aldomet và chuyển bv Chợ Rẫy. 
Tiền căn: Sưng đau khớp cổ chân và cổ tay 2 
bên từ 1 năm, được chẩn đoán viêm khớp, điều 
trị không rõ. Bn thường sốt từng đợt không rõ 
nguyên nhân và tự giới hạn. Bn là sinh viên đại 
học năm thứ 3, lối sống lành mạnh, không tiêm 
chích ma túy, không tiền căn đái tháo đường, 
bệnh thận mạn. 
Khám tại khoa khớp bệnh viện Chợ Rẫy (1-
3/6/10): bn tỉnh, tiếp xúc được, thể trạng mập, 
cân nặng 90Kg, cao 175cm, da niêm hồng, không 
xuất huyết da niêm, kết mạc mắt không vàng, 
phù toàn thân. Nhiệt độ 39oC, mạch 90 lần/phút, 
huyết áp 170/90mmHg, nhịp thở 20 lần/phút. 
Bệnh nhân sưng đau khớp vai phải, không hồng 
ban cánh bướm, không hồng ban dạng đĩa, 
không dấu viêm da, không dấu tiêm chích ở các 
chi, không loét miệng, không viêm họng. Các cơ 
quan khác không ghi nhận bất thường. 
Xét nghiệm 
Công thức máu: hồng cầu 4,31T/L, Hb 
11,7g/dL, Hct 33%, bạch cầu 15,8G/L, tiểu cầu 
247G/L. Ion đồ huyết tương: Na 128mMol/L, K 
4mMol/L, Cl 96mMol/L, CaTP 1,7mMol/L; đường 
huyết 150mg%, ALT 28IU/L, AST 54IU/L; protid 
máu 5,4g/L; albumin 2,8g/l, CPK 1.787IU/L; 
LDH 1.055IU/L; cholesterol 254mg%; 
triglyceride 272mg%; CRP 96,7mg/L (<6mg/L), 
rheumatoid factor 21IU/mL (<20IU/mL); anti 
dsDNA 39,8IU/mL (2/6/2010), 260UI/mL 
(10/6/2010) (0,5-10IU/mL). Tổng phân tích nước 
tiểu: pH 5.5; tỷ trọng 1.020; đường (-); protein 
5.840mg%; máu > 250/L; bạch cầu (-), Nitrit (-); 
XQuang tim phổi: bình thường. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 280 
Diễn tiến 
Với biểu hiện lâm sàng đau tại các khớp, 
ho khạc đàm trong kèm tăng cao CRP, CKP, 
anti dsDNA dương tính, bn được chẩn đoán 
viêm đa cơ trên lupus đỏ hệ thống, viêm phế 
quản. Bn được điều trị trong 3 ngày tại khoa 
khớp với Solumedrol 125mg/ngày tiêm mạch 
chậm mỗi ngày trong 3 ngày, Ceftriaxon 
2g/ngày tiêm mạch, Amlodipine 5mg, 
Irbesartan 150mg/ngày. Sau 3 ngày, kiểm tra 
creatinin huyết tương 5,1mg%, bn được hội 
chẩn chuyên khoa Thận, và nhận về khoa 
Thận với chẩn đoán theo dõi biến chứng suy 
thận cấp trên bn viêm thận lupus. 
Tại khoa Thận (từ 4/6/2010) 
Bn được phát hiện vùng cánh tay phải sưng, 
nóng đỏ, đau, từ vùng vai đến khuỷu, sốt 
38,5oC, mạch 120lần/phút, huyết áp (HA) 
150/80mmHg, phù toàn thân tăng, thiểu niệu 
(V=300ml/24h), nước tiểu vàng trong. Bạch cầu 
máu tăng cao, chủ yếu neutrophil, (bảng 1). Cấy 
máu âm tính 2 lần. Bn được chẩn đoán viêm mô 
tế bào cánh tay phải ở bn viêm thận lupus, theo 
dõi suy thận cấp, phân biệt viêm cầu thận tiến 
triển nhanh trên bn viêm thận lupus. Bn được 
dùng cefepim 2g/ngày x 11 ngày, levofloxacin 
250mg truyền tĩnh mạch/ngày x 21 ngày, 
methylprednisolone 48mg uống mỗi ngày và 
giảm còn 24mg/ngày sau đó. Tình trạng viêm 
mô tế bào cánh tay cải thiện sau 3 ngày dùng 
kháng sinh nhưng tình trạng ho và khó thở tăng. 
Bn khó thở phải ngồi, phù tăng, nhịp tim nhanh 
có gallop T3 ở mỏm, phổi ran ẩm nổ 2 đáy, thể 
tích nước tiểu giảm dần từ 300ml còn 100ml sau 
1 tuần điều trị, kèm BUN, creatinine huyết 
tương tăng dần (Bảng 1). Đạm niệu 24 giờ 2,7g, 
Cặn Addis: Hồng cầu 266.660/phút, bạch cầu 
88.880/phút (V=320ml). Siêu âm tim: Tràn dịch 
màng ngoài tim lượng ít, dày dãn buồng thất 
trái, chức năng tâm thu thất trái bình thường (EF 
65%), không thấy sùi. ECG: Nhịp nhanh xoang 
120 lần/phút. Siêu âm bụng: hai thận to, thận 
phải 146 x 86mm, thận trái 145 x 64mm, giới hạn 
vỏ tủy rõ, echo vỏ thận dầy hơn gan, theo dõi 
bệnh lý chủ mô thận, gan nhiễm mỡ, tràn dịch 
đa màng. 
Bảng 1: Diễn tiến nước tiểu và cận lâm sàng 
Trước 
NV 10 
ngày
N1 N4 N7 N8 N10 N12 N 18
BUN (mg/dL) 80 48 115 139 115 96 64 
Creatinine HT 
(mg/dL) 
1,8 5,1 6,0 7,9 9,7 7,3 7,1 5,9
Na+ (mMol/L) 128 132 129 132 137 133
K+ (mMol/L) 4,0 4,0 4,3 4,5 3,6 3,7
Bạch cầu máu 
(G/L) 
 15,8
1 
22,9
7 
 17,9 18,2 20,5 22,2
4 
Neutrophil (%) 89 90 80 78 88,6 87 
Hb (g/L) 11 11,7 11 10,3 9,9 6,5
V nước tiểu 500 500 400 300 350 100 100 100
Đạm niệu 
(mg/dL) 
 2.92
0 
 5.84
0 
Máu trong nt 
(/L) 
 >250 >250 
Bn được chẩn đoán lupus đỏ hệ thống có 
biến chứng viêm cơ tim, viêm cầu thận gây suy 
thận cấp và có chỉ định lọc máu ngày 8 sau nhập 
viện (8/6). Bn được đặt catheter tĩnh mạch cảnh 
trong phải và lọc máu cách ngày (bảng 1). Với 
lọc máu, bn giảm khó thở, giảm phù, thiểu niệu 
(V=100ml), BUN và creatinine huyết thanh bình 
ổn với creatinine ở mức 5-6mg/dL, ion đồ ổn 
định nhưng bạch cầu trong máu không giảm, bn 
được tiếp tục kháng sinh như trên. 
Ngày thứ 14 
Bn xuất hiện hồng ban dạng đĩa ở 2 chân, và 
tiểu máu đại thể, Tầm soát các xét nghiệm đông 
cầm máu bình thường, tiểu cầu bình thường. 
CPK 1.56IU/L (18/6/10), LDH 1.527 UI/L, 
procalcitonin >0,5ng/ml (9/7/10). Các triệu chứng 
tự giảm sau 7 ngày. 
Ngày thứ 21 
Lâm sàng ổn định, không sốt, không đau 
khớp, vẫn phù chân, vô niệu, thiếu máu diễn 
tiến nặng (Hct 16,6%), screening test (22/6) âm 
tính ở các điều kiện, không có sự hiện diện của 
kháng thể bất thường trong mẫu thử. Bổ thể C3 
77mg/dL (90-180mg/dL); C4 40mg% (10-
40mg/dL). Bn được truyền 2 đơn vị hồng cầu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 281
lắng, ngưng kháng sinh, tăng 
methylprednisolone 48mg uống/ngày. 
Ngày thứ 23 
Bn tạm ổn, không khó thở, được sinh thiết 
thận dưới siêu âm bằng súng tự động theo kỹ 
thuật free hand để xác định chẩn đoán bệnh 
lý thận. 
Ngày thứ 25 
Bệnh nhân sốt 39oC, ho khan, HA 
120/80mmHg, mạch 120 lần/phút, không có 
mạch nghịch, khó thở phải nằm đầu cao, tiếng 
tim nghe mờ, phổi không ran. Xét nghiệm: bạch 
cầu máu 19,7 G/L, với neutrophil 86%, 
procalcitonin 2,7mg%, XQ tim phổi: bóng tim to, 
phổi sung huyết 2 rốn phổi. Siêu âm tim: tràn 
dịch màng ngoài tim lượng trung bình đến 
nhiều, tập trung chủ yếu ở thành bên và thành 
sau thất trái, dịch lợn cợn, có nhiều giả mạc và 
đóng thành kén, không thấy dấu hiệu chèn ép 
tim cấp. Bn được hội chẩn nội tim mạch chẩn 
đoán viêm mủ màng ngoài tim, và được chỉ 
định chọc dò màng ngoài tim dưới siêu âm ra 50 
ml dịch màu trắng đục. Xét nghiệm dịch màng 
tim: protein 2.900mg% (protid máu 5,4g/L), 
LDH 447U/L (LDH máu 1.059U/L), thành phần 
tế bào: nhiều tế bào, nhiều hồng cầu, và bạch 
cầu, trong đó 24% neutrophil, 2% lymphocyte, 
54% tế bào liên võng, 20% tế bào nội bì, có 1 số tế 
bào kích thước lớn, nguyên sinh chất bắt màu 
kiềm đậm chứa 1-2 nhân mang tiểu hạch. Cấy 
mủ màng ngoài tim âm tính. Cell block: dịch 
phản ứng viêm xuất tiết ưu thế lympho bào. 
Công thức máu: bạch cầu 19,73G/L, neutrophil 
86%, lymphocyte 8,2%. Bn được dùng kháng 
sinh theo kinh nghiệm ceftriaxon 2 g/ngày x 2 
ngày, levofloxacin 0,5g/ngày x 2 ngày. Sau 2 
ngày, lâm sàng bn chưa cải thiện, siêu âm tim 
ghi nhận tràn dịch màng tim lượng nhiều đè sụp 
thất phải, chẩn đoán chèn ép tim do viêm mủ 
màng ngoài tim đáp ứng kém kháng sinh đang 
dùng. Bn được đổi sang vancomycin 1g ngày 
đầu (và chỉnh liều sau đó theo nồng độ thuốc 
trong máu và theo độ thanh thải cầu thận), phối 
hợp ciprofloxacin 0,4/ngày truyền tĩnh mạch, 
giảm methylprednisolone còn 24mg ngày và 
được chuyển khoa Ngoại Lồng ngực. 
Ngàythứ 29 
Bn được mổ dẫn lưu màng ngoài tim dưới 
mũi ức, phá giả mạc. Sau mổ 6 ngày, dịch màng 
tim còn lại rất ít, bệnh nhân hết sốt, giảm khó 
thở, bớt phù, tiểu khá hơn 500 – 650ml/ngày, bn 
được rút dẫn lưu và chuyển lại khoa Thận. Tại 
khoa Thận, Bn hết sốt, tổng trạng khỏe hơn, 
nhưng vẫn ho, khó thở nhẹ phải nằm đầu cao, 
phổi ran ẩm nổ 2 đáy. 
Ngày thứ 30 
Kết quả cấy máu và đàm dương tính cùng 
với Staphylococcus aureus. Kết quả kháng sinh 
đồ: kháng: ciprofloxacin, amikacin, clindamycin, 
erythromycin, oxacillin, trimethoprim/ 
sufamethoxazole, teicoplanin, gentamicin – 
NCCLS; nhạy: vancomycin, fosmycin SFM. Bn 
được tiếp tục kháng sinh như đã cho. 
Ba tuần sau dùng vancomycin, bệnh nhân 
sốt trở lại 39oC, bạch cầu máu tăng từ 8,3G/L lên 
15,48G/L, với neutrophil chiếm 90%, bn được 
tầm soát tìm ổ nhiễm trùng nhưng không thấy, 
do đó theo dõi nhiễm trùng liên quan catheter 
tĩnh mạch cảnh (đã lưu 29 ngày). Bn được cấy 
máu lấy từ catheter tĩnh mạch cảnh và từ tĩnh 
mạch ngoại biên, cả 2 đều âm tính. Bn được hội 
chẩn khoa để phối hợp imipenem 1g/ ngày x 22 
ngày, với vancomycin. Sau đó, khi hết biểu hiện 
nhiễm trùng, BN được pulse steroid 
methylprednisone 250mg/ngày truyền tĩnh 
mạch trong 3 ngày. Nhưng chức năng thận vẫn 
không cải thiện nên bn được đươc mổ tạo dò 
động tĩnh mạch tay trái để lọc máu định kỳ. 
Chẩn đoán xuất viện 
Nhiễm trùng huyết, viêm phổi, viêm mủ 
màng tim do Staphylococcus aureus kháng 
methicilline ở bn lupus đỏ biến chứng đa phủ 
tạng (viêm cơ tim, viêm cầu thận, viêm khớp). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 282 
Kết quả sinh thiết thận 
BS Nguyễn Tấn Sử và BS Trần Hiệp Đức 
Thắng, khoa Giải phẫu bệnh, bệnh viện Nhân 
Dân Gia Định đọc (ngày 23/6/2010): 
Đại thể 
Hai mẫu sinh thiết hình trụ dài 0,7 và 0.4cm, 
đường kính 0,1cm. 
Vi thể 
(nhuộm thường quy HE, PAS, trichrome): 
Có tối đa 04 vi cầu. (02 ở HE và PAS, 04 ở 
trichrome).Tất cả các vi cầu đều có tổn thương 
nặng: tăng sinh tế bào (endo và extracapillary) 
tạo múi (lobulation) + cellular crescents + hư hủy 
bao Bowmann’s. Nhiều tế bào viêm, kể cả đa 
nhân trung tính (PMN) trong và quanh vi cầu. 
Vi cầu không xơ hoá. Các ống thận tương đối 
tốt, mô kẽ viêm nhẹ, không xơ hoá. Mạch máu 
dạng bình thường. 
Khảo sát miễn dịnh huỳnh quang với các 
kháng huyết thanh IgA, IgM, Fibrinogen, C3, 
C1q, Kappa và Lambda, đồng thời nhuộm 
chứng âm với anti-Albumin. Kết quả: Dương 
tính mạnh (3+) dạng hạt chủ yếu ở gian mô với 
IgG, Fibrinogen, C1q. Tương tự nhưng với mức 
độ yếu hơn (từ 2+ đến 1+) với IgA, C3, và C1q. 
Dương tính mức độ vừa (2+) rải rác dưới nội mô 
với Kappa và Lambda. Âm tính với IgM. 
Kết luận 
Tổn thương hình thái học và miễn dịch 
hùynh quang phù hợp với tình trạng nhiễm 
trùng nặng. Lupus khó xác định do tình trạng 
viêm nhiễm nặng với số lượng cầu thận khảo sát 
ít (hình 1-6). 
Hình 1: Viêm cầu thận tăng sinh nội mạc và ngọai mạc, tăng sinh liềm tế bào (đầu mũi tên), thâm nhiễm 
bạch cầu đa nhân (mủi tên nhỏ) (nhuộm Hematoxylin Eosin x400) Hình 2: Tăng sinh liềm tế bào (đầu 
mũi tên), phá hủy bao Bownman ( mũi tên nhỏ) (nhuộm trichrome x400) 
Hình 3: Phá hủy bao Bowman (mủi tên nhỏ), liềm tế bào (đầu mũi tên), (nhuộm PAS x400) 
Hình 4: nhuộm miễn dịch hùynh quang với kháng thể kháng IgG. dương tính 3+ dạng hạt vùng trung mô 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 283
BÀN LUẬN 
Staphylococcus aureus (S. aureus) là một trong 
số những vi khuẩn thường trú ở người, hiện 
diện ở mũi, da, họng, âm đạo, nách, tầng sinh 
môn. Khoảng 25-50% người lành mang vi khuẩn 
này kéo dài hoặc tạm thời, đặc biệt các đối tượng 
như bn đái tháo đường type 1, nhiễm HIV, tiêm 
chích đường tĩnh mạch, đang lọc máu, hoặc có 
tổn thương da(4,14). Những đối tượng này một khi 
có S aureus ký sinh sẽ có nguy cơ bị nhiễm trùng 
cao hơn những người không có vi khuẩn ký 
sinh. S.aureus kháng methicilline (Methicilline 
Resistant Staphylococcus Aureus MRSA) là nhóm 
tụ cầu vàng đề kháng với các kháng sinh nhóm 
β-lactam, bao gồm penicillin và cephalosporin. 
MRSA đã được ghi nhận ngay sau khi 
methicillin được đưa vào lâm sàng để điều trị tụ 
cầu vàng từ những năm 1960. Tần suất đề kháng 
này tăng dần trong 30 năm sau đó, tập trung vào 
những đối tượng nằm viện, và ngay cả những 
người hoặc nhân viên y tế có tiếp xúc với bn 
đang nhiễm MRSA, hoặc tiền căn dùng thuốc 
gây nghiện đường tĩnh mạch. Từ những năm 
1990, xuất hiện một chủng MRSA khác mắc phải 
trong cộng đồng (community associated MRSA) 
và nhạy với clindamycin và cũng ít đề kháng 
hơn với các kháng sinh nhóm β-lactam(9). 
Để gây bệnh, S. aureus sẽ đi theo các bước 
sau, (1) ký sinh trên mô ký chủ; (2) xâm nhập; (3) 
khởi phát đáp ứng viêm của ký chủ làm gia tăng 
đáng kể lượng bạch cầu đa nhân trung tính, tiếp 
sau là thâm nhiễm đại thực bào và nguyên bào 
sợi (fibroblast). S.aureus tiết men catalase là men 
có tác dụng chuyển fibrinogen thành fibrin và 
collagen bọc quanh ổ mủ, và vi khuẩn được bảo 
vệ; (4) sau đó S. aureus lan rộng qua các cơ quan 
khác và vào máu. Điểm cần lưu ý là bn khi đã 
nhiễm S. aureus dễ tái phát (nhất là khi có điều 
kiện thuận lợi như tình trạng suy giảm miễn 
dịch, dùng corticosteroid) vì vi khuẩn có khả 
năng sống sót và tồn tại kéo dài không gây triệu 
chứng trong các tế bào, ngay cả trong bạch cầu 
đa nhân trung tính, và trong mô(8,9). Bn của 
chúng tôi bị viêm da lúc nhập viện tuy ban đầu 
có đáp ứng lâm sàng với cefepim,và 
levofloxacin, nhưng bn lại đồng thời được dùng 
methylprednisone liều cao và sau đó duy trì ở 
liều 48mg methylprednisolone để điều trị các 
biến chứng tim và thận của lupus. Có thể đây là 
lý do khác để bệnh trở nặng sau đó, lan nhanh, 
nhiễm trùng huyết, viêm phổi và viêm mủ 
màng ngoài tim. 
Khác với các nội tạng khác, MRSA không chỉ 
gây viêm mủ, nhiễm trùng tiểu hoặc abscess tại 
thận mà còn gây tổn thương cầu thận qua cơ chế 
miễn dịch gây ra do phức hợp miễn dịch kháng 
MRSA lưu thông và lắng đọng tại cầu thận gây 
viêm cầu thận cấp. Hai bệnh cảnh viêm cầu thận 
(VCT) sau nhiễm trùng Staphylococcus thường 
được mô tả trong y văn(5,6,11) là (1) VCT cấp sau 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 284 
nhiễm trùng shunt não thất- tâm nhĩ (V-A 
shunt), hoặc não thất-phúc mạc (V-P shunt) 
(điều trị não úng thủy) (shunt nephritis), với 
70% do S. epidermidis và 20% do S aureus và (2) 
VCT sau viêm nội tâm mạc. Tổn thương VCT 
cấp trong những trường hợp này có sự tham gia 
chủ yếu IgG và C3, tương tự VCTC hậu nhiễm 
liên cầu trùng với các đặc điểm mô bệnh học 
như sau(13): 
Dưới kính hiển vi quang học 
(1) Tăng sinh tế bào lan tỏa ở mọi cầu thận, 
nhẹ nhất là chỉ tăng sinh tế bào trung mô, nặng 
hơn là tăng sinh nội mạc mao mạch 
(endocapillary proliferative) bao gồm tăng sinh 
tế bào trung mô và tế bào nội mô mao mạch, 
kèm hoặc không kèm tăng sinh tế bào ngoài 
mao mạch (ngoại bì) tạo liềm (crescent). Liềm tế 
bào ngoại bì nếu tăng sinh mạnh có thể gây phá 
vỡ bao Bowman. Liềm được hình thành bao 
gồm tế bào ngoại bì lá thành bao Bowman và đại 
thực bào. Kích thước và phân bố của liềm tế bào 
thay đổi từ cầu thận này sang cầu thận khác, 
những liềm vòng quanh mao mạch cầu thận sẽ 
chèn ép mao mạch này, và bít tắc hoàn toàn cầu 
thận; (2) Thâm nhiễm tế bào bạch cầu đa nhân 
trung tính, nều nhiều được gọi là viêm cầu thận 
tăng tiết (exudative glomerulonephritis); (3) 
Màng đáy bình thường. 
Khảo sát miễn dịch huỳnh quang 
Ghi nhận giai đoạn đầu lắng đọng dạng hạt 
chủ yếu IgG, ít C3. Giai đoạn sau, IgG giảm dần 
biến mất chỉ còn C3. Ba dạng lắng đọng được 
mô tả (1) “starry sky” (bầu trời đầy sao) lắng 
đọng dạng hạt, không đều, dọc mao mạch cầu 
thận, thường gặp trong tăng sinh nội mạc kèm 
xuất tiết nặng; (2) lắng đọng chủ yếu vùng trung 
mô; (3) “garland” lắng đọng IgG và C3 trên 
thành mao mạch cầu thận. 
Khảo sát kính hiển vi điện tử 
Khẳng định hình ảnh tăng sinh các tế bào 
của kính hiển vi quang học. Nhưng đặc trưng 
của VCT cấp hậu nhiễm liên cầu trùng là các 
hump lắng đọng ở lớp đặc ở trung tâm của 
màng đáy, về phía tế bào ngoại bì. 
Trong hơn 10 năm gần đây, hàng loạt các 
báo cáo từ Nhật(1,5,6,7,17), sau đó tại các nước khác 
như Đài Loan(16), Mỹ(10,4), Trung Quốc, Thailand(4) 
ghi nhận một thể bệnh VCTC sau nhiễm trùng 
huyết do MRSA, có các đặc điểm sau (1) lâm 
sàng biểu hiện VCT tiến triển nhanh, VCT cấp, 
và đôi khi cả hội chứng thận hư, thời gian từ lúc 
nhiễm MRSA đến lúc có biểu hiện lâm sàng tại 
thận là từ 5,4 đến 6 tuần; (2) huyết thanh có tăng 
IgA, IgG, có hiện diện phức hợp miễn dịch lưu 
thông, bổ thể C3 bình thường hoặc giảm, nồng 
độ enterotoxin gia tăng, nhất là SE-A và SE-C, cả 
toxic shock syndrome toxin-1 (TSST-1); (3) khảo 
sát miễn dịch huỳnh quang, lắng đọng IgA là 
nổi trội hoặc cùng cường độ với IgG, và C3 ở 
vùng trung mô, dọc theo mao mạch cầu thận; (4) 
kính hiển vi điện tử ghi nhận có lắng đọng vùng 
trung mô, vùng dưới nội mô và cả dưới ngoại bì, 
có thể gây phá hủy màng đáy cầu thận. 
Qua các nghiên cứu mức tế bào và cytokine, 
so sánh giữa nhóm MRSA gây VCT với nhóm 
không gây VCT, các tác giả Nhật đưa ra cơ chế 
bệnh sinh(1,5,6,7,17) như sau: MRSA sản xuất các 
enterotoxin (Staphylococcal enterotoxin, SE). SE 
đóng vai trò như là một siêu kháng nguyên 
(superantigen). Đây là độc tố có khả năng gây 
nhiễm trùng huyết hoặc hội chứng choáng do 
độc tố (toxic shock syndrome). SE kết gắn lên 
phân tử HLA- class II của tế bào trình diện 
kháng nguyên và vào vùng Vβ của receptor tế 
bào T, dẫn đến kích hoạt rất mạnh tế bào T (CD4 
và CD8), memory T cell, natural killer cell. SE 
làm tăng bộc lộ các receptor tế bào T, tăng sinh 
tế bào T và tăng phóng thích nhiều loại cytokine 
(IL2, IL4, IL6, IL8, IL1, IL10, TNF, IFN-γ). Các 
cytokine này sẽ (1) kích hoạt tế bào B hoạt hóa 
đa clone (polyclonal activation) làm tăng sản 
xuất các immunoglobuline kháng enterotoxin 
(IgA và IgG) và phức hợp kháng nguyên kháng 
thể được thành lập; (2) tác dụng trực tiếp gây 
viêm cầu thận và viêm ống thận mô kẽ. Từ đó, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 285
tác giả(5) cho rằng nhiễm MRSA có thể là một 
trong các nguyên nhân gây bệnh thận IgA. 
Satoska A và cộng sự(15) qua hồi cứu kết quả 
giải phẫu bệnh tại Ohio, Mỹ, nhận thấy 8 bn có 
miễn dịch huỳnh quang tăng bắt IgA kèm với 
IgG có bệnh sử liên quan nhiễm trùng 
Staphylococcus với 5 bn do MRSA, 2 bn do 
methicilline sensitive S. aureus (MSSA) và 1 bn 
do methicilline resistant S.epidermidis (MRSE). 
Tác giả đưa ra những lưu ý để phân biệt giữa 
nhóm bệnh cầu thận này với bệnh thận IgA vô 
căn (Bảng 2). Như vậy, cùng một tác nhân gây 
nhiễm trùng như S. aureus có thể gây nhiều loại 
sang thương bệnh học khác nhau trên thận và 
cùng một sang thương bệnh thận có thể có nhiều 
nguyên nhân gây ra. Do vậy, trước bất kỳ một 
viêm cầu thận tăng sinh nào mà nguyên nhân 
chưa rõ phải được xem như do nhiễm trùng. 
Điều trị VCT cấp hậu nhiễm MRSA chủ yếu 
là kháng sinh diệt MRSA theo kháng sinh đồ, 
thường là vancomycin với thời gian kéo dài 4 
tuần. Cho đến nay, tuy có nghiên cứu về thành 
công của steroid trong điều trị dạng VCT này(12), 
song tác giả cũng khuyến cáo, chỉ dùng steroid 
liều trung bình khi đã khống chế nhiễm trùng 
thành công như khuyến cáo chung của điều trị 
nhiễm trùng MRSA(3). 
Tiên lượng bệnh tùy thuộc mức độ trầm 
trọng của nhiễm trùng, tình trạng miễn dịch của 
bn, tuổi bn và kết quả sinh thiết thận.Tiên lượng 
của VCT hậu nhiễm trùng thường diễn tiến 
thuận lợi, nhưng đôi khi diễn tiến đến suy thận 
mạn giai đoạn cuối, nếu tổn thương cầu thận 
nặng như VCT liềm hậu nhiễm. Mức độ lan 
rộng của liềm tăng sinh trên kết quả sinh thiết 
thận là yếu tố tiên lượng tốt nhất khả năng diễn 
tiến đến suy thận mạn giai đoạn cuối(12,13,14). 
Bảng 2: Phân biệt giữa VCT liên quan nhiễm trùng Staphylococcus với bệnh thận IgA vô căn(14) 
Đặc điểm lâm sàng Viêm cầu thận liên quan nhiễm Staphylococcus(Staphylococcus infection- associated GN) 
Bệnh thận IgA vô căn (Idiopathic IgA 
Nephropathy) 
Tuổi khởi bệnh 50-89 tuổi 20-30 tuổi 
Giới 80-90% nam Khoảng 70% nam 
Chủng tộc Chủ yếu người Nhật, người da trắng, Hispanic Cao nhất ở người Châu Á, thấp ở người da đen 
Liên quan đến nhiễm trùng Thường có 30-40% có tiền căn nhiễm trùng 
Vi khuẩn gây bệnh Staphylococcus, khoảng 70% do MRSA Siêu vi hoặc vi khuẩn 
Vị trí nhiễm khuẩn Abscess nội tạng, nhiễm trùng sau mổ, nhiễm trùng da, nhiễm trùng chân trên bn đái tháo đường Nhiễm trùng hô hấp trên 
Thời gian tiềm ẩn 5-10 tuần sau nhiễm Staphylococcus, một số có thểđến 16 tuần 
1-2 ngày sau nhiễm trùng hô hấp trên, 
nhưng tiểu máu đồng thời với nhiễm trùng 
hô hấp trên 
Tiểu máu đại thể 50-60% 30-40%, hay tái phát 
Tiểu đạm Nhiều, có thể đến giới hạn hội chứng thận hư Nhẹ, trừ phi bệnh thận tiến triển 
Bổ thể Giảm trong 30%, có thể giảm nhẹ Bình thường 
Cryoglobuline máu Có thể có Không có 
Suy thận cấp Thường gặp Không thường gặp 
Điều trị Kháng sinh Steroid/thuốc ức chế miễn dịch nếu bệnh tiến triển 
Bn của chúng tôi được chẩn đoán viêm thận 
lupus trước khi bị nhiễm trùng da và nhiễm 
trùng huyết do MRSA, nên thời điểm bị VCT 
cấp khó xác định, có thể sau nhiễm trùng da 
khoảng 2-3 tuần, nghĩa là sớm hơn các báo cáo 
khác. Với bổ thể giảm nhẹ, đáng tiếc là chúng tôi 
không làm điện di miễn dịch huyết thanh để 
phát hiện những thay đổi của các globulin miễn 
dịch trong máu, nhưng kết quả giải phẫu bệnh 
hoàn toàn phù hợp với y văn, với lắng đọng 
IgG, IgA, C3, và fibrinogen. Mặc dù viêm thận 
lupus cũng có hình ảnh VCT liềm, nhưng trong 
VCT tăng sinh do lupus (1) không có thâm 
nhiễm bạch cầu đa nhân trung tính; và (2) với 
bệnh cảnh nặng, miễn dịch huỳnh quang sẽ có 
biểu hiện “full house” với lắng đọng tất cả các 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 286 
thành phần tại cầu thận(13,18). Do bn bị VCT hậu 
nhiễm trùng MRSA trên nền lupus đỏ biến 
chứng viêm cơ tim, viêm thận, nên chúng tôi 
không thể ngưng hoàn toàn steroid, mà chỉ giảm 
steroid còn liều kháng viêm. Việc lọc máu định 
kỳ đã hỗ trợ chúng tôi rất nhiều trong việc duy 
trì cân bằng điện giải, tránh phù phổi cấp và bảo 
vệ tính mạng bn. Khi điều kiện bn vừa tạm ổn, 
chúng tôi làm sinh thiết thận. Đây là ca bn đầu 
tiên mà chúng tôi tiến hành sinh thiết thận trong 
giai đoạn thiểu niệu của suy thận cấp, trong điều 
kiện bn phù toàn thân và đang chạy thận nhân 
tạo 3-4 lần trong tuần. Sau sinh thiết thận, bn ổn 
định và không tiểu máu. Tuy mẫu thận chỉ có 4 
cầu thận, nhưng với tổn thương lan tỏa, cho 
phép chúng tôi chẩn đoán bệnh. Thành công 
này đã mở ra hướng tiếp cận chẩn đoán tích cực 
để điều trị hiệu quả cho các bn bệnh thận nặng. 
KẾT LUẬN 
Qua bệnh án này, chúng tôi đã trình bày một 
dạng VCT cấp nặng tạo liềm kèm lắng đọng IgG 
và IgA, gây ra do nhiễm trùng huyết do MRSA 
gây viêm da, viêm phổi, viêm mủ màng ngoài 
tim. Việc điều trị nội khoa tích cực bằng kháng 
sinh phối hợp với các biện pháp can thiệp ngoại 
khoa, hỗ trợ của lọc máu giúp bảo vệ được tính 
mạng của bn, mặc dù chúng tôi không bảo vệ 
được thận của bn này. 
Ghi nhớ (Acknowledgements): Xin chân 
thành cảm ơn các khoa như khoa Thận nhân tạo, 
khoa Nội tim mạch, khoa Ngoại lồng ngực, khoa 
Sinh hóa, Khoa Vi sinh, khoa Siêu âm, khoa 
Huyết học bệnh viện Chợ Rẫy và khoa Giải 
phẫu bệnh bệnh viện Nhân Dân Gia định đã hỗ 
trợ chúng tôi trong chẩn đoán và điều trị bn này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Arakawa Y, Shimizy Y, Sakurai H et al, (2006), Polyclonal 
activation of an IgA subclass against Staphylococcus aureus 
cell membrane antigen in post-methicillin-resistant S.aureus 
infection glomerulonephritis, Nephrol Dial Transplant; 
21,pp.1448-1449. 
2. Daum R.S. (2009) Removing the golden Coat of 
Staphylococcus aureus, N. Engl J Med. 359;1, pp 86-87. 
3. Gould E.K. Brindle R, Chadwick PR, et al, on behalf of the 
MRSA working party of the British Society for Antimicrobial 
Chemotherapy (2009). Guidelines (2008) for the prophylaxis 
and treatment of methicillin- resistant Staphylococcus aureus 
(MRSA) infections in the United Kingdom. J.Antimicrobial 
Chem;63, pp849-861. 
4. Kanjanabuch T, Kittikowit W.,Eiam-Ong S., (2009). An update 
on acute postinfectious glomerulonephritis worldwide. Nat. 
Rev.Nephrol; 5, pp 259-269. 
5. Kobayashi M, Koyama A (1999). Methicilline resistant 
Staphylococcus aureus related glomerulonephritis. Nephrol. 
Dial. Transplant, 14 (Suppl1), pp 17-18. 
6. Kohama A, Hirayama K, (2001). Glomerulonephritis 
associated with Staphylococcus aureus infection. Internal 
Medicine; 40 (5), pp 365-366. 
7. Koyama A, Sharmin S, Sakural H, et al (2004). Staphylococcus 
aureus cell envelope antigen is a new candidate for the 
induction of IgA nephropathy. Kidney Int.; 66, pp 121-132. 
8. Lowy F (2005). Staphylococcal infections. In Harrison’ 
principles of Internal Medicine, Kasper D, Braunwald E, et al, 
McGraw Hill 16th ed..Ch. 120, pp 814-823. 
9. Moran GJ, Krishnadasan A, Gorwts RJ et al, (2006), 
Methicilline resistant S. areus infections among patients in the 
emergency department N.EngJ Med; 355, pp666-74 
10. Nasr SG, Share DS, Vargas MT, D’Agati VD, Markowitz GS, 
(2007). Acute poststaphylococcal glomerulonephritis 
superimposed on diabetic glomerulosclerosis. Kid. 
Intern;71,pp1317-1321. 
11. Nasr SH, Fidler ME, Valeri AM, et al (2011), Postinfectious 
glomerulonephritis in the elderly, J Am Soc Nephrol ;22, pp 187-
195. 
12. Okuyama S, Wakui H, Maki N, Kuroki J, Nishinari T, Asakura 
K, Komatsuda A, Sawada K (2008). Successful treatment of 
post-MRSA infection glomerulonephritis with steroid therapy. 
Clin Nephrol;70 (4),pp 344-7. 
13. Parakeuwrycz OG, Sturgill BC, Bolton WK (2000) Proliferative 
glomerulonephritis: postinfectious, noninfectious, and 
crescentic forms. In Tisher C, and Brenner BM, Renal 
pathology with clinical and functional correlations. Lippincott 
Co, 2nd ed, Vol 1,Ch 8, pp 222- 257. 
14. Rodriguez-Iturbe B., Musser J.M (2008). The current state of 
poststreptococcal glomerulonephritis. J. Am. Soc. Nephrol; 
19,pp 1855-1864. 
15. Satoskar A, Nadasky G, Plaza J.A. et al, (2006). Staphylococcus 
infection associated glomerulonephritis mimicking IgA 
Nephropathy. Clin. J Am. Soc Nephrol; 1, pp1179-1186. 
16. Wen YK, Chen ML., (2010).The significance of atypical 
morphology in the changes of spectrum of postinfectious 
glomerulonephritis; 73 (3), pp.173-9. 
17. Yoh K, Kobayashi M, Yamaguchi N, et al (2000).Cytokines and 
T cell responses in superantigens related glomerulonephritis 
following Methicilline resistant Staphyloccus aureus infection. 
Nephrol. Dial. Transplant;15,pp 1170-1174. 
18. Yu F, Tan Y, Liu G., Wang S, Zou W, Zhao M. (2009) 
Clinicopathological characteristics and outcomes of patients 
with crescnetic lupus nephritis, Kidney Intern; 76, pp307-317. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhan_mot_truong_hop_viem_cau_than_cap_hau_nhiem_staphylococc.pdf