Chẩn đoán khá dễ dàng dựa vào hình ảnh. Trên
phim chụp Xquang, vôi hoá trong gân được chia làm
3 type. Trong đó, type A là vôi hoá đồng nhất, tròn, bờ
nét thường kích thước lớn. Type B là vôi hoá nhiều ổ,
hoặc tròn, thường thuỳ múi, bờ mờ và mật độ thấp.
Type C vôi hoá mảnh, dạng dải dọc theo đường đi của
gân (do viêm gân thoái hoá mạn tính) [1]. Chụp CLVT là
phương pháp có độ nhạy và đặc hiệu cao, giúp dễ dàng
quan sát vôi hoá, phân biệt vôi với các trường hợp cốt
hoá lạc chỗ, quan sát ăn mòn xương , di trú của vôi vào
trong ống tủy [hình]. Siêu âm có hình tăng âm của vôi
hoá trong gân, đánh giá tình trạng gân. MRI có ích trong
1 số vị trí như cột sống, giúp quan sát tốt tổn thương
phù xương, tổn thương phần mềm (gân, túi hoạt dịch),
tụ dịch, loại trừ các chẩn đoán khác nhất là trường hợp
có dấu hiệu chèn ép tuỷ, tuy nhiên nhược điểm của MRI
là khó quan sát vôi hóa. Chẩn đoán lâm sàng trong đợt
cấp có sốt, cần phân biệt nhiễm khuẩn. Khi vôi hoá lắng
đọng ở nhiều gân, nhất là ở bàn tay, cần phân biệt viêm
khớp dạng thấp. Trường hợp nghi ngờ có thể chọc dịch
khớp, chụp X Quang đánh giá.
Về mặt điều trị, ở giai đoạn không có triệu chứng
điều trị là không cần thiết. Ở giai đoạn cấp có thể sử
dụng các thuốc chống viêm giảm đau không steroid
(NSAIDs). Nếu điều trị nội khoa không đáp ứng hoặc
kéo dài có thể chọc hút vôi hóa dưới hướng dẫn hình
ảnh kèm với tiêm thẩm phân bao hoạt dịch [7-8]. Từ
năm 1978 kỹ thuật hút vôi dưới màn tăng sáng đã được
áp dụng [5] và từ năm 1996 kỹ thuật được áp dụng
dưới siêu âm với ưu điểm tránh tia xạ cho bệnh nhân
và đem lại hiệu quả cao.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân một vài trường hợp điều trị viêm gân vôi hóa bằng chọc hút vôi dưới hướng dẫn siêu âm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/201976
DIỄN ĐÀN
MEDICAL FORUM
NHÂN MỘT VÀI TRƯỜNG HỢP ĐIỀU TRỊ
VIÊM GÂN VÔI HÓA BẰNG CHỌC HÚT
VÔI DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM
Report of several cases of treatment of calcific
tendonitis by aspiration under ultrasound guidance
Vương Thu Hà*, Đặng Thị Bích Nguyệt*, Lê Tuấn Linh*,
Bùi Văn Lệnh*
* Khoa chẩn đoán hình ảnh, bệnh viện ĐH Y Hà Nội
BÁO CÁO CÁC TRƯỜNG HỢP
Cas 1: Bệnh nhân nữ, 52 tuổi. Cách vào viện 2
tuần, bệnh nhân đau đột ngột dữ dội vùng vai phải, đau
tăng lên về ban đêm, gây hạn chế vận động khớp vai,
không sốt, không kèm theo các triệu chứng khác. Bệnh
nhân đi khám ở bệnh viện tỉnh được chẩn đoán viêm
quanh khớp vai và được điều trị bằng các thuốc giảm
đau chống viêm 2 tuần không đỡ. Khi đến bệnh viện
Đại học Y Hà Nội, bệnh nhân được chỉ định siêu âm
và chụp X quang khớp vai. Chúng tôi thấy hình ảnh vôi
hóa vị trí điểm bám gân trên gai phải, các gân khác có
hình thái bình thường, không có dịch khớp vai, có kèm
ít dịch viêm bao hoạt dịch dưới mỏm cùng vai-cơ delta.
Hình 1. Hình ảnh X quang và siêu âm thấy vôi hóa ở điểm bám gân cơ trên gai phải.
SUMMARY
Calcific tendonitis is a common disease caused by the deposition of canxi hydroxyapatite crystals in the tendons. The
disease can occur in all tendons in the body and also in the ligaments, but the most common sites are the tendons of rotator cuffs
, tendons around great trochanter, tendons around elbow joints, wrists... Normally, there is no pain. However, as calcification
resorption occurs because the body releases enzymes that resolve calcification, patients develop severe and persistent pain. In
terms of diagnosis, clinical symptoms are quite difficult to distinguish from other causes of musculoskeletal pain, but diagnostic
imaging is easy with methods such as radiography, ultrasound, computer tomography, resonance imaging... On the treatment
side, medical therapy is the first-line treatment with nonsteroidal anti-inflammatory painkillers. However, in fact, we found that
there are many cases of persistant pain that resistant to NSAIDS drugs, because the calcific deposits are quite large (size up
to 1-2 cm) so that the calcification resorption process persists for a long time. Percutaneous aspiration of calcification under
ultrasound guidance is a minimally invasive treatment that reduces the progression of the disease due to nearly completely
calcific aspiration. This technique is quite easy to implement and can be widely disseminated. We have also performed this
technique for some patients diagnosed with calcific tendonitis at Hanoi Medical University Hospital and had achieve good
clinical efficacy.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/2019 77
DIỄN ĐÀN
Bệnh nhân được chọc hút vôi hoá dưới hướng dẫn
của siêu âm. Chúng tôi dùng đầu dò line tần số 5-12 MHz,
sử dụng kim 18G chọc vào trung tâm vôi hóa dưới hướng
dẫn siêu âm, bơm nước muối sinh lý rồi phá vỡ vôi bằng
việc chọc kim nhiều lần vào vôi hóa sau đó hút ra, lặp đi lặp
lại quá trình đến khi hết phần vôi hóa quan sát được trên
siêu âm. Cuối cùng, tiêm 1ml thuốc Depomedrol 40mg/1ml
vào bao hoạt dịch dưới mỏm cùng vai.
Hình 4. Hình ảnh
Xquang (A) có nốt vôi
mờ, bờ không rõ nét
ở điểm bám gân mấu
chuyển lớn. Trên MRI
(B, C, D) thấy hình
ảnh viêm điểm bám
vào mấu chuyển lớn
và nốt vôi hoá giảm
tín hiệu trong gân
tương ứng
Hình 3. Vôi hóa sau khi
hút ra
Hình 2. Chọc hút vôi hoá dưới hướng dẫn siêu âm (A) và tiêm thẩm phân
bao hoạt dịch dưới mỏm cùng vai (B).
Theo dõi lâm sàng thấy bệnh nhân giảm các triệu
chứng đau và hạn chế vận động sau 2 ngày và giảm
đáng kể các triệu chứng sau 1 tuần.
Cas 2: Bệnh nhân nữ, 44 tuổi, đau mỏi nhiều
vùng mặt ngoài khớp háng phải không rõ nguyên nhân,
không lan xuống đùi cẳng chân. Đau tăng về đêm và khi
đi lại, đặc biệt khi leo cầu thang. Bệnh nhân đã được
chẩn đoán thoái hoá khớp háng và điều trị thuốc chống
viêm, giảm đau không đỡ. Bệnh nhân được chụp X
quang phát hiện vôi hoá mờ ở ngang mức mấu chuyển
lớn xương đùi phải tuy nhiên bác sĩ không nghĩ tới bệnh
lý viêm gân vôi hoá, do đó bệnh nhân tiếp tục được
chụp phim cộng hưởng từ. Trên hình ảnh cộng hưởng
từ quan sát thấy phản ứng viêm rộng ở các gân điểm
bám vào mấu chuyển lớn kèm hình nốt vôi hoá trong
gân. Hình ảnh điển hình, kết hợp với triệu chứng lâm
sàng đau nhiều nên bệnh nhân được chỉ định chọc hút
vôi hoá điều trị, kết hợp với tiêm thẩm phân túi hoạt dịch
cơ mông nhỡ. Kết quả bệnh nhân giảm đau tốt sau 2
ngày và giảm hẳn các triệu chứng đau về đêm.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/201978
DIỄN ĐÀN
Cas 4: Tương tự như cas 1, bệnh nhân nữ trẻ 33
tuổi, có vôi hoá ở điểm bám gân trên gai hai bên. Tuy
nhiên bệnh nhân chỉ có triệu chứng đau dữ dội và hạn
chế vận động bên phải nên chúng tôi chỉ thực hiện chọc
hút vôi hoá bên phải. Kiểm tra sau 1 năm thấy vôi hoá
bên phải hết hoàn toàn và bệnh nhân không còn đau
bên vai phải, vai trái của bệnh nhân có vôi hoá type A
không triệu chứng nên tiếp tục được theo dõi 1 năm
chưa có hiện tượng đau lại.
Cas 3: Bệnh nhân nữ trẻ, 29 tuổi, vào viện vì đau
dữ dội ở mặt ngoài khuỷu tay diễn biến 3 tháng, đã
uống nhiều thuốc chống viêm giảm đau nhưng không
đỡ nhiều. Bệnh nhân được chụp XQ, ban đầu do vị trí
của nốt vôi hoá trùng với bóng xương quay nên khó phát
hiện, tuy nhiên khi làm siêu âm phát hiện nốt vôi hoá ở
điểm bám gân lồi cầu ngoài cánh tay nên bệnh nhân đã
được chọc hút vôi hoá dưới hướng dẫn siêu âm.
Hình 6. Hình ảnh vôi hóa ở điểm bám
gân trên gai phải.
Hình 7. Hình ảnh Xquang và siêu âm sau 1 năm điều trị: (A, C) Vai
phải : không còn vôi ở điểm bám gân (B,D) Vai trái: Điểm bám gân
có nốt vôi hóa bờ nét , trên siêu âm tương ứng.
Hình 5. Hình ảnh nốt vôi mờ ở điểm bám gân lồi cầu ngoài xương cánh tay phải, trùng với bóng xương
quay nên khó xác định trên phim XQ.
Cas 5: Tương tự cas 1, bệnh nhân nam 40 tuổi,
vôi hoá ở gân trên gai phát hiện trên phim chụp MRI,
điều trị ở rất nhiều bệnh viện không đỡ, sau khi chọc
hút vôi hoá bệnh nhân giảm đau ngay sau 1 ngày và
theo dõi 1 năm chưa có triệu chứng đau lại.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/2019 79
DIỄN ĐÀN
Hình 8: Hình ảnh viêm gân trên gai do vôi hóa điểm bám gân trên gai.
Cas 6: Bệnh nhân nữ, 54 tuổi, vôi hoá ở gân cơ dưới vai, sau khi chọc hút vôi hoá bệnh nhân giảm đau nhanh sau
1 ngày và theo dõi 14 tháng chưa có đau lại.
Hình 9. (A, B, C): Hình ảnh viêm gân và quanh gân dưới vai và nốt vôi hóa giảm tín hiệu trong gân. Hình
(D) kiểm tra sau điều trị 6 tháng.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/201980
DIỄN ĐÀN
TỔNG KẾT
Bảng 1. Tổng kết các đặc điểm lâm sàng và đáp ứng điều trị của 6 bệnh nhân
được chọc hút vôi hóa dưới hướng dẫn siêu âm điều trị bệnh viêm gân vôi hóa
STT Cas 1 Cas 2 Cas 3 Cas 4 Cas 5 Cas 6
Tuổi 52 44 29 33 40 54
Giới Nữ Nữ Nữ Nữ Nam Nữ
Vị trí Gân trên gai
Mấu
chuyển lớn
Khuỷu tay Gân trên gai Gân trên gai
Gân dưới
vai
Lâm sàng
Đau (+++),
hạn chế vận
động (+++)
Đau (++)
hạn chế
vận động
(+)
Đau (+++)
hạn chế vận
động (++)
Đau (+++)
hạn chế vận
động (++)
Đau (+++)
hạn chế vận
động (+++)
Đau (+++)
hạn chế vận
động (+++)
Điều trị nội khoa 2 tuần 1 tháng 2 tháng 1 tuần 6 tháng 2 tháng
Thời gian đáp ứng 1 tuần 3 ngày 1 ngày 2 ngày 2 ngày 1 ngày
Thời gian giảm đau 1 tháng 1 tháng 13 tháng 10 tháng 14 tháng 18 tháng
Trong số 6 bệnh nhân, có đa số bệnh nhân là nữ
(tỉ lệ nữ: nam là 5:1), tuổi gặp từ 29-54 (trung bình 42).
Trong số 6 ca bệnh có 3 trường hợp tổn thương ở gân
trên gai, 1 trường hợp viêm gân dưới vai, 1 trường hợp
viêm gân mấu chuyển lớn, 1 trường hợp viêm gân quanh
khuỷu tay. Triệu chứng lâm sàng bệnh nhân thường đau
dữ dội và dai dẳng, dùng các thuốc chống viêm giảm
đau không đỡ đau, đau gây hạn chế vận động của khớp
tương ứng (6/6 trường hợp). Quá trình chọc hút vôi hoá
được thực hiện dưới siêu âm cho cả 6 trường hợp, trong
đó có 1 trường hợp vôi hoá gân trên gai hai bên nhưng
chỉ chọc hút vôi hoá ở bên gây đau, bên còn lại không có
triệu chứng được theo dõi trong hơn 1 năm không thấy
dấu hiệu đau cấp. Sau thủ thuật, 100% giảm đau, thời
gian giảm đau nhanh nhất là 1 ngày và chậm nhất là 1
tuần sau thủ thuật. Thời gian giảm đau trung bình là 2,67
ngày. Theo dõi tiến triển sau 1 tháng 100% bệnh nhân
giảm đau đáng kể. BN theo dõi lâu nhất 18 tháng sau
điều trị không có đau tái phát.
BÀN LUẬN
Viêm gân vôi hóa là bệnh lý do lắng đọng tinh
thể canxi hydroxyapatite và được xếp vào nhóm bệnh
thấp do lắng đọng tinh thể. Bệnh khá thường gặp, ở
người trưởng thành với tần suất khoảng 2.5% đến 7.5
% [1], độ tuổi trung bình từ 40-70 tuổi, hay gặp ở nữ
hơn nam[2]. Tỉ lệ bệnh còn cao hơn ở những bệnh
nhân chạy thận (50%), đái tháo đường (25%), suy thận
(15%). Vị trí tổn thương hay gặp nhất ở quanh khớp
vai, sau đó đến háng, khuỷu, cổ tay, khớp gối, cột sống
cổ (xem hình 10 đến 16)[3]. Ở khớp vai hay gặp nhất
ở gân cơ trên gai (80%), sau đó đến gân cơ dưới gai
(15%) và gân cơ dưới vai (5%) [2-4]. Theo Speed CA
và cộng sự viêm gân vôi hóa là nguyên nhân khá
hay gặp của đau khớp vai, chiếm tới 7% các nguyên
nhân đau vai thường gặp [1]. Hầu hết các trường hợp
không biểu hiện triệu chứng lâm sàng, tuy nhiên ở giai
đoạn cấp, khi quá trình tiêu biến vôi xảy ra có thể biểu
hiện tình trạng viêm với sưng nóng, đỏ đau ở vị trí tổn
thương. Một số trường hợp gây biến chứng như đứt
gân, tụ máu, thậm chí hoại tử khớp. Xét nghiệm thấy
các marker viêm dương tính: CRP, bạch cầu, máu lắng
tăng cao.
Có nhiều giả thiết về cơ chế bệnh sinh viêm gân
vôi hóa được đưa ra và cho đến nay, bệnh học của tình
trạng này vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ. Một số nguyên
nhân gây nên tình trạng này gồm: thoái hóa hoặc hoại
tử mô mềm, chấn thương, tình trạng thiếu oxy kéo dài
do bất kỳ nguyên nhân nào [1]. Mô bệnh học biểu hiện
tình trạng viêm với sự hiện diện của các đại thực bào
và các tinh thể canxi apatite lắng đọng trong vùng tổn
thương. Bệnh tiến triển qua 4 giai đoạn: giai đoạn tiền
vôi, giai đoạn vôi hóa, giai đoạn thoái biến vôi, giai đoạn
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/2019 81
DIỄN ĐÀN
sau vôi hóa [1-4]. Ở giai đoạn vôi hóa có thể không có
triệu chứng lâm sàng hoặc triệu chứng đau âm ỉ tăng
về đêm. Sau đó ở giai đoạn thoái biến vôi cơ thể giải
phóng các enzyme tiêu hủy vôi gây ra phản ứng viêm
dữ dội, bệnh nhân đau cấp và dữ dội gây hạn chế vận
động nặng, các enzyme có thể gây đứt gân, phân giải
vỏ xương dẫn tới di trú của vôi vào trong tủy xương.
Chẩn đoán khá dễ dàng dựa vào hình ảnh. Trên
phim chụp Xquang, vôi hoá trong gân được chia làm
3 type. Trong đó, type A là vôi hoá đồng nhất, tròn, bờ
nét thường kích thước lớn. Type B là vôi hoá nhiều ổ,
hoặc tròn, thường thuỳ múi, bờ mờ và mật độ thấp.
Type C vôi hoá mảnh, dạng dải dọc theo đường đi của
gân (do viêm gân thoái hoá mạn tính) [1]. Chụp CLVT là
phương pháp có độ nhạy và đặc hiệu cao, giúp dễ dàng
quan sát vôi hoá, phân biệt vôi với các trường hợp cốt
hoá lạc chỗ, quan sát ăn mòn xương , di trú của vôi vào
trong ống tủy [hình]. Siêu âm có hình tăng âm của vôi
hoá trong gân, đánh giá tình trạng gân. MRI có ích trong
1 số vị trí như cột sống, giúp quan sát tốt tổn thương
phù xương, tổn thương phần mềm (gân, túi hoạt dịch),
tụ dịch, loại trừ các chẩn đoán khác nhất là trường hợp
có dấu hiệu chèn ép tuỷ, tuy nhiên nhược điểm của MRI
là khó quan sát vôi hóa. Chẩn đoán lâm sàng trong đợt
cấp có sốt, cần phân biệt nhiễm khuẩn. Khi vôi hoá lắng
đọng ở nhiều gân, nhất là ở bàn tay, cần phân biệt viêm
khớp dạng thấp. Trường hợp nghi ngờ có thể chọc dịch
khớp, chụp X Quang đánh giá.
Về mặt điều trị, ở giai đoạn không có triệu chứng
điều trị là không cần thiết. Ở giai đoạn cấp có thể sử
dụng các thuốc chống viêm giảm đau không steroid
(NSAIDs). Nếu điều trị nội khoa không đáp ứng hoặc
kéo dài có thể chọc hút vôi hóa dưới hướng dẫn hình
ảnh kèm với tiêm thẩm phân bao hoạt dịch [7-8]. Từ
năm 1978 kỹ thuật hút vôi dưới màn tăng sáng đã được
áp dụng [5] và từ năm 1996 kỹ thuật được áp dụng
dưới siêu âm với ưu điểm tránh tia xạ cho bệnh nhân
và đem lại hiệu quả cao.
Hình 11. BN nam, 45 tuổi, viêm gân vôi hóa gân dưới vai trên CHT và
X quang tương ứng: hình ảnh cộng hưởng từ (A, B, C) thấy vôi hóa
giảm tín hiệu nằm trong gân dưới vai (mũi tên) kèm phản ứng viêm
mạnh xung quanh (mũi tên đen). Hình (D) X quang thấy vôi hóa mờ,
có bờ không rõ nét.
Hình 10. Viêm gân vôi hóa gân trên
gai ở BN nam 58 tuổi : (A) tư thế xoay
trong và (B) xoay ngoài thấy hình
ảnh vôi hóa mờ, bờ không nét ở gân
trên gai.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/201982
DIỄN ĐÀN
Hình 12. nam, 77 tuổi, đau háng trái,
chụp CLVT thấy hình ảnh viêm gân
vôi hóa ở điểm bám cơ mông lớn,
vôi có tỷ trọng thấp, bờ mờ, ăn mòn
xương và di trú vào tủy xương.
Hình 14. Vôi hóa ở điểm bám gân gấp cổ tay trụ vào xương đậu
Hình 13. Viêm gân vôi hóa ở gân gấp ngón III bàn tay: Hình ảnh MRI
thấy tăng kích thước đáng kể của gân gấp ngón kèm phù nề trong gân
và quanh gân. B: Hình ảnh X quang có vôi hóa bờ mờ ở gân gấp ngón
III tương ứng.
Hình 15. Viêm gân vôi hóa ở điểm bám mấu chuyển lớn: Hình ảnh MRI (A, B) cho thấy viêm phù nề
phần mềm rộng (mũi tên trắng) và nốt vôi hóa điểm bám gân (mũi tên đen). (C) X quang có
hình vôi hóa bờ mờ, không rõ nét.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 33 - 03/2019 83
DIỄN ĐÀN
Hình 16. Hình ảnh CLVT vôi
hóa điểm bám gân cơ dài
cổ có bờ mờ, tỷ trọng thấp
(mũi tên).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Speed CA, Hazleman BL. Calcific tendinitis of the shoulder. N Engl J Med 1999; 340(20): 1582–1584.
Crossref, Medline, Google Scholar
2. Mole D, Gonzalvez M, Roche O, Scarlat M. Introduction to calcifying tendinitis. In: Gazielly DF, Gleyze P,
Thomas T, eds. The cuff. Paris, France: Elsevier, 1997; 141–143.Google Scholar
3. Daniel S. Siegal, MDa, *, Jim S. Wu, MDa , Joel S. Newman, MDb , Jose L. del Cura, MDc , Mary G. Hochman,
Mda Canadian Calcific Tendinitis: A Pictorial Review Association of Radiologists Journal 60 (2009) 263e272
4. Bosworth BM. Calcium deposits in the shoulder and subacromiali bursitis: a survey of 12,122 shoulder. JAMA1941;
116: 2477–2482.Crossref, Google Scholar
5. Bianchi S, Martinoli C. Shoulder. In: Bianchi S, Martinoli C, eds.Ultrasound of the musculoskeletal system. Berlin,
Germany: Springer-Verlag, 2007; 190–331.Google Scholar
6. Uhthoff HK, Sarkar K. Calcifying tendonitis. Baillieres Clin Rheumatol 1989; 3(3): 567–581.
Crossref, Medline, Google Scholar
7. Galletti S, Magnani M, Rotini R, et al. The echo-guided treatment of calcific tendinitis of the shoulder. Chir
Organi Mov 2004; 89(4): 319–323.Medline, Google Scholar del Cura JL, Torre I, Zabala R, Legórburu A.
Sonographically guided percutaneous needle lavage in calcific tendinitis of the shoulder: short- and long-term
results. AJR Am J Roentgenol 2007; 189(3): W128–W134.Crossref, Medline, Google Scholar
TÓM TẮT
Viêm gân vôi hoá là bệnh lý thường gặp do lắng đọng các tinh thể canxi hydroxyapatite tại các điểm bám gân. Bệnh có thể gặp
ở mọi gân trong cơ thể và gặp cả ở các dây chằng, tuy nhiên hay gặp nhất là ở gân cơ đai xoay, gân quanh mấu chuyển lớn, gân quanh
khớp khuỷu tay, cổ tay... Bình thường, bệnh không gây đau. Tuy nhiên, khi quá trình phân giải vôi diễn ra do cơ thể giải phóng ra các
enzyme gây tiêu vôi, bệnh nhân sẽ có những cơn đau dữ dội và dai dẳng. Về mặt chẩn đoán, lâm sàng khá khó phân biệt với những
nguyên nhân gây đau cơ xương khớp khác, nhưng chẩn đoán hình ảnh rất dễ dàng với các phương pháp như X quang, siêu âm, chụp
cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ. Về mặt điều trị, điều trị nội khoa là phương pháp đầu tay với các thuốc giảm đau chống viêm
không steroid. Tuy nhiên trên thực tế, chúng tôi thấy có rất nhiều trường hợp bệnh nhân đau do viêm gân vôi hoá điều trị nội khoa
kéo dài không đỡ, do các nốt vôi hoá lắng đọng thường khá lớn (kích thước tới 1-2cm) làm quá trình tiêu biến vôi kéo dài dai dẳng.
Phương pháp can thiệp chọc hút vôi hoá qua da dưới hướng dẫn siêu âm là một phương pháp can thiệp tối thiểu, nhẹ nhàng , đem lại
hiệu quả điều trị cao và rút ngắn thời gian tiến triển của bệnh do hút được gần triệt để khối vôi hoá lắng đọng trong các gân. Kỹ thuật
can thiệp này khá dễ thực hiện và có thể được phổ biến rộng rãi, chúng tôi cũng đã tiến hành kỹ thuật cho một số bệnh nhân được
chẩn đoán viêm gân vôi hoá tại bệnh viện đại học Y Hà Nội và bước đầu đã đạt được hiệu quả lâm sàng tốt.
Ngày nhận bài 20/1/2019. Ngày chập nhận đăng: 20/2/2019
Người liên hệ: Lê Tuấn Linh. Khoa CĐHA bệnh viện Đại Học Y Hà Nội, email: linhdhyhn@yahoo.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhan_mot_vai_truong_hop_dieu_tri_viem_gan_voi_hoa_bang_choc.pdf