Hài hòa giữa giáo dục tiềm năng và giáo dục
nghề nghiệp
Giáo dục tiềm năng, chú trọng khoa học cơ
bản, y học cơ sở và phương pháp học tập (xây
móng).Giáo dục nghề nghiệp, thực tế, kỹ năng
(xây nhà).Trong cơ chế thị trường, thang giá trị
thay đổi, nhà trường đào tạo theo nhu cầu xã
hội, cấu trúc ngành nghề, người học học cái họ
muốn cho cuộc sống của chính họ.
Nhà trường phải phát triển tương xứng với
nhiệm vụ
Tiềm lực: Quy mô vượt quá giới hạn cho
phép sẽ làm cho chất lượng tỉ lệ nghịch đối với
số lượng. Phát triển: đội ngũ cán bộ giáo viên; cơ
sở vật chất kỹ thuật; vàđặc biệt làhiệu lực của bộ
máy quản lý.
Tạo ra môi trường giáo dục mẫu mực
Cảnh quan – Hoạt động – Tiếp xúc.Nề nếp
làm việc – Văn hóa công sở ‐ Vệ sinh. Nơi ăn
chốn ở của sinh viên, học sinh, cán bộ nhân viên.
Môi trường này thường xuyên tác động đến con
người, khi thì mạnh mẽ, biểu hiện, khi thì sâu
sắc nhẹ nhàng thấm đượm tình người, tình đời.
Sản phẩm đầu ra phải đảm bảo
Khối kiến thức về khoa học cơ bản và Y học
cơ sở. Khối kiến thức khoa học công nghệ (nghề
nghiệp): Y học lâm sàng – Y học gia đình; Y học
cộng đồng – Y học dự phòng và CS y tế; Điều
dưỡng. Khối kiến thức về quản trị:
(Administration) Kinh tế y tế, Quản lý y tế, Hành
vi và đạo đức học.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 76 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức lại vấn đề sức khỏe / bệnh tật dưới góc độ sinh thái học chính trị – xã hội và nhân văn trong thời đại ngày nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014 Tổng Quan
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 1
NHẬN THỨC LẠI VẤN ĐỀ SỨC KHỎE / BỆNH TẬT DƯỚI GÓC ĐỘ
SINH THÁI HỌC CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Lê Thế Thự*
Khái niệm về sức khoẻ và bệnh tật ngày nay
không tồn tại một cách trừu tượng mà luôn gắn
kết với các điều kiện sống cả về mặt vật chất
cũng như tinh thần.Quan điểm hiện đại về sức
khoẻ và bệnh tật được hình thành từ các lý
thuyết, trường phái khác nhau.
QUAN NIỆM VỀ SỨC KHỎE VÀ BỆNH
TẬT TRONG LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI
Kể từ thuở bình minh của nhân loại, con
người đã tìm mọi cách để lý giải về bệnh tật và
các phương sách chống lại chúng. Đạo Thiên
Chúa quan niệm bệnh tật là sự làm trong sạch
tâm hồn qua sự chịu đựng khổ đau để được gần
với Chúa hơn và về với Chúa một cách thanh
thản. Lần đầu tiên trong lịch sử cổ đại, người Hy
Lạp đã quan sát và lý giải về sự phát bệnh và
cách phòng ngừa, kết thúc thời kỳ nô lệ của con
người vào bệnh tật, để đi đến một lý thuyết đặc
trưng của thời kỳ này là y học và sức khoẻ dựa
trên sự cân bằng của 4 dịch thể trong cơ thể là:
máu, đờm dãi, mật xanh và mật vàng.
Sau thời kỳ phục hưng (khoảng giữa thế kỷ
XVII – XVIII), các nhà khoa học đã nghiên cứu
và khẳng định chức năng của tim và sự tuần
hoàn của máu. Năm 1847, Ignas Semmelweis,
một bác sĩ người Hungary đã phát hiện ra
nguyên nhân chết của nhiều sản phụ tại bệnh
viện của ông ở nước Áo là do các bác sĩ không
rửa tay trước khi đỡ đẻ cho họ. Đó chính là dự
báo ra đời của thuyết vi trùng học đầu tiên. Và
chỉ một năm sau đó, năm 1848, Louis Pasteur đã
tìm ra nguyên nhân của bệnh than (anthrax) là
do vi trùng. Lý thuyết về vi trùng của L. Pasteur
thực sự đã trở thành một cái mốc lịch sử, một
điểm son chói lọi trong lịch sử của y học thế giới.
Nó góp phần chấm dứt cách nhìn siêu thực về
sức khoẻ và bệnh tật, đặt nền móng cho việc
phối hợp nghiên cứu trên lĩnh vực đa ngành và
là cơ sở khoa học đầu tiên cho những nghiên
cứu xã hội học về sức khỏe và bệnh tật mà mãi
tới thế kỷ XX lĩnh vực này mới được xem xét
trong mối quan hệ của các nhân tố xã hội và văn
hoá.
Ngày nay, do tác động của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật đã đưa đến những biến đổi
sâu sắc của đời sống xã hội trên bình diện toàn
cầu. Các vấn đề về sức khoẻ và y tế không
những chỉ phát triển trong phạm vi của từng cá
thể, từng quốc gia và khu vực mà còn ngày càng
phát triển trong kế hoạch toàn cầu. Tại Hội nghị
Quốc tế của Liên Hiệp Quốc ở Viene tháng 8
năm 1979, đề tài “Vai trò của khoa học trong việc
giải quyết các vấn đề có tính chất toàn cầu trong
thời đại ngày nay”được đưa ra thảo luận và y tế
được coi là vấn đề toàn cầu cùng với các vấn đề
bảo vệ môi trường, dân số học, vấn đề dinh
dưỡng, khủng hoảng năng lượng, Tầm quan
trọng về mặt xã hội của y tế cũng đặc biệt tăng
lên thể hiện ở nhu cầu ngày càng tăng đối với
việc bảo đảm cho nhân dân quyền được bảo vệ
sức khỏe như một trong những quyền cơ bản
trong xã hội của con người và trở thành một
khẩu hiệu chính trị – xã hội quan trọng ở tất cả
các nước đã có chế độ xã hội khác nhau. Trong
bối cảnh của những biến đổi sâu sắc của thế giới
ngày nay, nhiều người đã hiểu ra rằng xã hội
đang quyết định tình trạng sức khoẻ của nhân
dân.Ảnh hưởng của xã hội và sự văn minh hóa
ngày càng được coi như là những yếu tố cơ bản
của bệnh lý.Phạm trù sức khoẻ không chỉ là
phạm trù sinh học mà còn là phạm trù xã hội
học và chính trị học.
Những thay đổi cấu trúc xã hội, phân bố dân
số, điều kiện sống và làm việc, và những yếu tố
xã hội khác đã tạo ra bệnh tật và mô hình bệnh
* Viện Y tế công cộng TP. HCM
Tổng Quan YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 2
tật mang tính đặc thù của các giai cấp khác nhau
trong xã hội hiện đại. Những giai cấp thấp ít có
khả năng tiếp cận với hệ thống chăm sóc của xã
hội; và cũng chính từ những thay đổi mang tính
bản chất của chế độ xã hội đã góp phần làm tha
hóa y học và y tế, tính nhân đạo và phẩm chất
trong sạch của người thầy thuốc, làm thay đổi
hành vi đối xử của họ đối với người bệnh thuộc
các tầng lớp xã hội khác nhau theo lối kinh
doanh thương nghiệp, làm cho người nghèo
càng ngày càng bị bỏ rơi, còn những người giàu
có thìđược chăm sóc vàđiều trị với chất lượng
cao hơn.
SỨC KHỎE VÀ BỆNH TẬT TRƯỚC HẾT
MANG TÍNH CHẤT XÃ HỘI
Quan niệm cho rằng con người là sản phẩm
của xã hội, là sự kết hợp hài hòa mọi quan hệ xã
hội ngay từ bên trong và nhờ đó mà hình thành
những sản phẩm của xã hội. Sức khoẻ của con
người, vì vậy đã trở thành một bộ phận không
thể tách rời của tài sản xã hội và phụ thuộc vào
xã hội. Tại hội nghị về y tế cơ sở ở Alma‐Ata,
W.L.Barton, chuyên gia điều hành các chương
trình đào tạo của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO)
đãđưa công tác y tế cơ sở phát triển lên một thời
kỳ mới, xem đó là kim chỉ nam trong việc phát
triển y học và những xu hướng chủ yếu đến năm
2000. Ông đã chia sự phát triển y học trong 150
năm, từ giữa thế kỷ thứ XIX, ra làm 5 thời đại:
“Thời đại y tế kinh nghiệm chủ nghĩa”, “Thời
đại các khoa học cơ bản”, “Thời đại của khoa học
lâm sàng”, “Thời đại của nền y tế xã hội” và từ
giữa thế kỷ XX là“Thời đại của y tế như một
khoa học chính trị”, mà theo ông thì bắt đầu từ
năm 1975. Thời đại này được coi là bước ngoặt
bởi việc WHO chuyển sang một chiến lược mới,
hướng vào y tế cơ sở như là một nhiệm vụ chính
trị xã hội quan trọng nhất đối với tất cả các nước
trên thế giới. Đặc điểm của thời đại này là mọi
mục tiêu hoạt động của y tế đều hướng về người
dân nói chung. Mối quan hệ giữa sức khoẻ và sự
phát triển kinh tế xã hội được thiết lập đã trở
thành những yếu tố mấu chốt nhằm bảo đảm
một cách tốt nhất cho các quyền của con người
trong thời kỳ này.
Kết quả của cuộc điều tra về các nguyên
nhân chủ yếu phải nhập viện được thực hiện
trong một khu phố nghèo ở Chicago có 60.000 hộ
dân. Các nguyên nhân được xếp theo thứ tự bao
gồm: tai nạn giao thông, gây hấn và bạo lực,
bệnh lây qua đường tình dục, các tai nạn không
thuộc giao thông, viêm phế quản, chó dại cắn,
Tóm lại, 75% nhập viện là do các nguyên nhân
xã hội. Các nghiên cứu dịch tễ và sinh học đã
làm nổi lên vai trò môi trường, lối sống và giữ
gìn vệ sinh trong cuộc đấu tranh chống bệnh tật
và cải thiện tình trạng sức khỏe của người dân.
Như vậy, sẽ có ba căn cứ để xác định khuynh
hướng của một nền khoa học có tiến bộ hay
không tiến bộ:
Một là, Y học có biến sức khoẻ và bệnh tật
thành những trạng thái cá nhân và mang tính
may rủi hay không mà che lấp đi các nguyên
nhân, cấu trúc mang tính xã hội, kinh tế, chính
trị, nghĩa là nóđã trở thành một kỹ thuật biến cái
không thể chấp nhận thành có thể chấp nhận
được.
Hai là, Y học có dành đặc quyền cho cá nhân
hưởng các dịch vụ có tiếng là tốt cho sức khoẻ
mà hạ thấp mọi yếu tố khác mà y học không cần
biết đến hay không?.
Ba là, Y học có dành đặc quyền 5% cho các
bệnh tật hiếm hoi, cần sự chăm sóc rất đặc biệt
và những trang thiết bị phức tạp, đắt tiền so với
95% các bệnh phổ biến nhất không?
Trong hầu hết các nước công nghiệp, bộ máy
y tế và các chi phí cho y tế, đặc biệt trong lĩnh
vực y điều trị, trong vài chục năm gần đây đã
tăng lên một cách khủng khiếp, hai đến ba lần
nhanh hơn tổng sản phẩm quốc gia tính theo
đầu người dân. Việc sử dụng tràn lan thuốc men
và kỹ thuật y tế đã không có tác dụng nâng cao
sức khoẻ hay kéo dài tuổi thọ. Ở Pháp, tuổi thọ
của nam giới không tăng từ năm 1965 tới năm
1990, trong khi tỉ lệ tử vong nam giới tuổi 40 và
50 gia tăng ở các nước công nghiệp.
YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014 Tổng Quan
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 3
Có thể chúng ta sẽ phản đối rằng tỉ lệ tử
vong không nhất thiết phản ánh đúng tình trạng
sức khoẻ. J.N. Morris đã tiến hành một loạt
thống kê so sánh và nhận xét rằng sự suy sụp
sức khoẻ hoặc gia tăng bệnh tật còn tệ hại hơn
gia tăng tỉ lệ tử vong. Chỉ trong vòng 20 năm
qua, đã có sự gia tăng đáng kể các bệnh mạn
tính ở lứa tuổi 55 đến 60.
Các con số trên đãđưa đến một nhận định
rằng ”Đúng là có nhiều người bệnh hơn, nhưng
con người cũng sống thọ hơn”. Nó cũng phủ
định một cách mạnh mẽ việc tin tưởng sẽ có một
tình trạng sức khoẻ tốt hơn nhờ hưởng thụ nhiều
kỹ thuật chăm sóc y tế. Thực tế ấy còn đơn giản
hơn nhiều khi nói rằng con người được chăm
sóc sức khỏe nhiều hơn bởi vì bản thân bệnh
hoạn hơn!
Theo một báo cáo của Viện Y học Mỹ (IoM)
thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Mỹ, hàng năm
nước Mỹ lãng phí 750 tỷ USD tương đương 30%
tổng chi phí y tế quốc gia. Trong đó:
‐ Cung cấp dịch vụ thừa lãng phí: 210 tỷ USD.
‐ Thủ tục rối rắm, quản trị quá lố: 190 tỷ USD.
‐ Giá dịch vụ cao quá mức: 105 tỷ USD.
‐ Phân phối dịch vụ y tế thiếu hiệu quả: 130 tỷ
USD.
‐ Hành vi lừa đảo: 75 tỷ USD.
IoM đánh giá, 50 năm qua có nhiều thành
tựu về y học nhưng ngày càng thụt lùi về chất
lượng, kết quả, chi phí và sử dụng dịch vụ
không công bằng.
Chi phí cao, hiệu quả thấp.Sự lãng phí này
lớn hơn cả ngân sách dành cho Bộ Quốc Phòng
vàđủ để chăm sóc cho tất cả những người không
có BHYT.
Hằng năm, những sai sót y tế của các bệnh
viện Mỹ đã làm chết từ 44.000 đến 98.000 người.
Ước tính cứ 30 bệnh nhân vào viện thì có 1 bệnh
nhân bị tổn hại do các sai sót y tế. Khoảng 10%
trong số này bị tử vong. Các sai sót y tế gây tổn
thất 29 tỷ USD/ năm, trong đó chỉ riêng những
sai lầm vì thuốc mỗi năm đã làm chết 7.000
người, gây tổn thất 2 tỷ USD.
IoM cũng cho rằng 18% GDP cho y tế Mỹ,
cao hơn các nước phương Tây khác từ 5 đến
90%.
Năm 2010, 2.600 tỷ cho ngân sách y tế tức là
vào khoảng 1.000 USD/ 1 người dân trong khi
bình quân đầu người về y tế của Canada, quốc
gia tiêu tốn y tế thứ 2 trên thế giới cũng chỉ bằng
65% so với Mỹ. Số người không có BHYT là 50
triệu bằng 16% dân số, 26.000 người chết mỗi
năm cũng là do không có BHYT.
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN MAC‐XIT
TRONG NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC
SỨC KHỎE ‐ BỆNH TẬT
Đặc điểm chung của phương pháp Mác Xít
là tìm cách gắn bệnh tật với cấu trúc kinh tế và
sự phát triển chính trị. Engels cũng như các tác
giả Mác Xít khác đã nhìn thấy bệnh tật và sự
chữa chạy nó như là kết quả của một quá trình
xã hội.Ông đã tạo ra một nền khoa học xã hội
vàđặt cơ sở cho khoa xã hội học về sức khoẻ.Ông
đưa ra 2 điểm cơ bản:
Thứ nhất, bệnh tật không phải là những sản
phẩm của bản chất cá nhân vàtai nạn không là
sản phẩm của tổ chức công nghiệp.
Thứ hai, ông bác bỏ quan điểm thần học khi
giải thích sự bất công trong xã hội và khẳng định
ốm đau và bệnh tật trước hết là sản phẩm của
các điều kiện xã hội chứ không phải là sự cố mà
sinh vật không thể tránh khỏi.
Trong hệ vấn đề nghiên cứu về sức khỏe và
bệnh tật, các tác giả Liên Xô (cũ) đã cóý thức kết
hợp tri thức xã hội học sức khỏe‐bệnh tật với
nghiên cứu xã hội học lao động, bảo vệ môi
trường và vệ sinh xã hội. Các nghiên cứu thực
nghiệm về sức khoẻ và bệnh tật đãđược tiến
hành trong sự hợp tác chặt chẽ với chuyên gia
của các ngành tâm lý học, nhân chủng học và thể
dục thể thao.
Trên căn bản định nghĩa về sức khỏe của
WHO 1946, sức khỏe và bệnh tật đã không chỉ là
đối tượng nghiên cứu của y học thuần túy. Việc
xem xét sức khoẻ trong mối quan hệ với môi
trường gia đình, nhân cách, lối sống của người
Tổng Quan YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 4
bệnh là một điều kiện cần thiết trong các giải
pháp để chẩn đoán và điều trị bệnh tật.
THỰC TẾ VIỆT NAM
Sức khoẻ của con người luôn chịu sự tác
động tổng hợp và phức tạp của các nhân tố sinh
học – xã hội. Nóđược quy định trước hết bởi
chức năng của các hệ thống sinh lý và các quy
định đặc thù sinh học (như giới tính, lứa tuổi, sự
di truyền và thể trạng bẩm sinh), nhưng sức
khỏe cũng phụ thuộc rất nhiều vào sự tác động
của môi trường bên ngoài, đặc biệt là môi trường
xã hội. Thực tế Việt Nam cũng như nhiều nước
khác trên thế giới đã cho thấy rằng nguyên nhân
của rất nhiều căn bệnh hiểm nghèo hiện nay
hoàn toàn không phải do nhiễm khuẩn mà là
hậu quả của điều kiện môi trường và lối sống.
Xã hội học sức khỏe và bệnh tật đặt mục tiêu
nghiên cứu là giúp cho các nhà làm chính sách
và quản lý xã hội soạn thảo những biện pháp
loại trừ và ngăn chặn những ảnh hưởng của môi
trường (tự nhiên – xã hội ) đối với sức khỏe
người dân, xây dựng hệ thống y tế phù hợp
nhằm bảo vệ và tăng cường sức khỏe (thể chất
và tinh thần), kéo dài tuổi thọ và khả năng sáng
tạo tích cực ở mỗi thành viên trong xã hội.
Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, thời gian
tới xã hội học sức khỏe–bệnh tật phải tiến hành
nghiên cứu định lượng trên những nhóm vấn đề sau:
1‐ Đánh giá thực trạng sức khỏe của các tầng
lớp dân cư, các nhóm xã hội và nhóm nghề
nghiệp khác nhau bằng những khảo sát về quá
trình phát triển và tái tạo thể lực, tỷ lệ mắc bệnh,
tỷ lệ tàn phế (tự nhiên và tàn phế do điều kiện
lao động) và những bệnh xã hội khác, kể cả bệnh
AIDS. Kết quả những khảo sát này nhằm dự báo
chiều hướng thay đổi thể chất và tinh thần của
sức khỏe người dân. Coi đó là một nguyên nhân
gây ra những biến đổi tương ứng về mặt xã hội.
2‐ Đánh giá hiệu quả của hệ thống y tế, bảo
hiểm y tế với việc chăm sóc sức khỏe nhân dân
và ảnh hưởng của nóđến nền kinh tế. Nghiên
cứu nhằm đưa ra mô hình phù hợp về vệ sinh
phòng bệnh và chữa bệnh, nâng cao các phương
pháp chữa bệnh cũng như hiệu quả sử dụng
bệnh viện, xây dựng mối quan hệ giữa người có
nhu cầu chăm sóc sức khỏe và hệ thống người
phục vụ nhu cầu đó, tạo thói quen sử dụng có
chất lượng hệ thống y tế.
3‐ Nghiên cứu công tác giáo dục, tuyên
truyền các biện pháp bảo vệ môi trường và sức
khỏe, xây dựng ý thức và năng lực cải tạo, bảo
vệ môi trường. Nghiên cứu cũng đưa ra những
dự án thiết lập các tổ chức xã hội bảo vệ môi
trường. Trách nhiệm này được quản lý bởi các tổ
chức xã hội với biện pháp xã hội là chủ yếu, chứ
không phải là các biện pháp kỹ thuật y tế.
4‐ Nghiên cứu nhằm mở rộng và khuyến
khích đầu tư phát triển các hình thức dịch vụ y
tế tư nhân, xem như một hỗ trợ bổ sung vào hệ
thống chăm sóc sức khỏe của nhà nước. Các
hình thức này phải được thiết lập trên nguyên
tắc coi trọng quyền bình đẳng và ký kết trách
nhiệm trước pháp luật trong mục đích bảo vệ
môi trường sống và sức khỏe con người.
Các nghiên cứu sâu theo phương pháp định
tính các vấn đề sức khỏe
Các nghiên cứu về cá nhân và gia đình
Gia đình là môi trường đầu tiên và nhỏ nhất
thực hiện chức năng bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe.Ở đây, có thể nghiên cứu mô tả các hình
thức rèn luyện thân thể, nếp sống, sở thích sinh
hoạt, thói quen, tập quán và nề nếp vệ sinh của
mỗi cá nhân. Khảo sát môi trường gia đình với
các yếu tố về điều kiện nhà ở, điều kiện dinh
dưỡng, đời sống gia đình, các phong tục tập
quán (tôn giáo, hôn nhân và sinh đẻ). Đánh giá
ảnh hưởng của các phúc lợi công cộng (y tế, văn
hóa, giáo dục) và các chính sách kinh tế nhà
nước đến đời sống vật chất tinh thần của gia
đình.
Các nghiên cứu về các nhóm xã hội và nhóm
nghề nghiệp
Nhằm đánh giá cơ bản điều kiện làm việc,
điều kiện sống, nhà ở. Tìm hiểu ảnh hưởng của
nghề nghiệp đến sức khỏe (công việc vất vả,
điều kiện làm việc nguy hiểm, độc hại,).
YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014 Tổng Quan
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 5
Các nghiên cứu đánh giá sự “ô nhiễm” môi
trường xã hội và tác hại của nó.
Sức khỏe, đặc biệt sức khỏe tinh thần của con
người, dễ phụ thuộc vào những thay đổi của
môi trường xã hội‐chính trị. Có thể đo lường
biểu hiện khỏe mạnh của sức khỏe tinh thần
bằng sự cân bằng trong giao tiếp và ứng xử xã
hội, trong đạo đức và nếp sống truyền thống.
Môi trường chính trị–xã hội bị xáo trộn và rối
loạn được biểu hiện bằng tâm trạng xã hội bi
quan, những khuynh hướng lệch lạc trong nhận
thức và hành vi, thái độ sống bất chấp hoặc thụ
động.
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH Y TẾ THEO TIẾN TRÌNH ĐỔI
MỚI CĂN BẢN VÀ TOÀN DIỆN HỆ
THỐNG GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG
TƯƠNG LAI
Nhu cầu phục vụ phù hợp với đặc trưng xã
hội hiện đại. Tuổi thọ ngày càng cao kéo theo
nhiều hệ lụy. Lao động xã hội tạo ra thu nhập
cao. Mô hình sức khỏe/bệnh tật thay đổi theo sự
phát triển của xã hội và hội nhập quốc tế. Đến
2030 đảm bảo chăm sóc sức khỏe nhân dân
ngang tầm các nước tiên tiến khu vực (Top 3) và
quốc tế (Top 20) giảm nhập tăng xuất, cân bằng
Nhập – Xuất, tiến tới xuất; dịch vụ; dược liệu,
dược phẩm; trang thiết bị y tế.
Sản phẩm đầu ra phải đạt được 5 phẩm chất
của người thầy thuốc tương lai:
Cung ứng dịch vụ và chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân.
Người ra các quyết định liên quan đến sức
khỏe cá nhân và cộng đồng.
Người làm truyền thông và tư vấn, nâng cao
sức khỏe cho gia đình và cộng đồng.
Người quản lý, lập kế hoạch tổ chức thực
hiện vàđánh giá các hoạt động về sức khỏe.
Biết lãnh đạo cộng đồng trong cuộc sống,
bảo vệ và nâng cao sức khỏe của chính họ.
Trong thực tế ngành Y có nhiều bộ phận,
nhiều nội dung và nhiều phương pháp luận
khác nhau nên trong dạy học có nguy cơ phân
tán, tản mạn, thiếu tập trung ngày càng lớn. Vì
vậy, chúng ta cần tập trung vào 8 mục tiêu và
giải pháp chủ yếu sau đây:
Dạy nghề
Hành nghề trên con người nên cần cụ thể, có
hệ thống lí thuyết phức tạp, khái niệm nghề
nghiệp rõ ràng, thái độ và y đức cao cả. Trong
thực hành: tinh giản, chọn lọc, thực hành thuận
lợi.Đổi mới nội dung cho phù hợp với sự biến
đổi rất nhanh của KT‐XH, của mô hình bệnh tật,
cảnh giác đối với những bệnh mới nổi. Khoa học
công nghệ, chẩn đoán, điều trị, phục hồi, đổi mới
và phát triển liên tục.Nhu cầu chăm sóc sức khỏe
ngày càng cao.
Dạy phương pháp luận và tiềm năng tự phát
triển
Người học có khả năng tự học, tự định
hướng, tự học suốt đời.Có khả năng tự nghiên
cứu, biết đọc sách, truy cập và xử lý thông tin,
biết điều chỉnh và tự lượng giá.Dạy tiềm năng
tất yếu phải dạy khoa học cơ bản cốt lõi để tạo
nền móng phát triển tri thức.
Dạy người mục tiêu đích thực
Hướng về việc hình thành nhân cách con
người “Tri thức + Phẩm chất + Văn hóa = Nhân
cách” (văn hóa sống lớn hơn văn hóa tri
thức).Dạy thái độ nghề nghiệp, ứng xử nhân văn
với bệnh nhân, đồng nghiệp và cộng đồng.
Coi trọng chất lượng và hiệu quả
Chất lượng là mức độ đạt mục tiêu của
người học.Hiệu quả là mối tương quan giữa chất
lượng và chi phí tương ứng (nhân lực, tài lực,
thời gian, quản lý, phục vụ).Không thể chỉ coi
trọng chất lượng hoặc nhấn mạnh đến hiệu
quả.Cái giá phải trả bao giờ cũng có giới hạn.Sản
phẩm đào tạo kém phẩm chất tác hại lâu dài và
sâu sắc hơn bất cứ loại thứ phẩm nào.
Hài hòa giữa giáo dục tiềm năng và giáo dục
nghề nghiệp
Tổng Quan YHọcTP.HồChíMinh*Phụ Bản Tập18*Số 6*2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 6
Giáo dục tiềm năng, chú trọng khoa học cơ
bản, y học cơ sở và phương pháp học tập (xây
móng).Giáo dục nghề nghiệp, thực tế, kỹ năng
(xây nhà).Trong cơ chế thị trường, thang giá trị
thay đổi, nhà trường đào tạo theo nhu cầu xã
hội, cấu trúc ngành nghề, người học học cái họ
muốn cho cuộc sống của chính họ.
Nhà trường phải phát triển tương xứng với
nhiệm vụ
Tiềm lực: Quy mô vượt quá giới hạn cho
phép sẽ làm cho chất lượng tỉ lệ nghịch đối với
số lượng. Phát triển: đội ngũ cán bộ giáo viên; cơ
sở vật chất kỹ thuật; vàđặc biệt làhiệu lực của bộ
máy quản lý.
Tạo ra môi trường giáo dục mẫu mực
Cảnh quan – Hoạt động – Tiếp xúc.Nề nếp
làm việc – Văn hóa công sở ‐ Vệ sinh. Nơi ăn
chốn ở của sinh viên, học sinh, cán bộ nhân viên.
Môi trường này thường xuyên tác động đến con
người, khi thì mạnh mẽ, biểu hiện, khi thì sâu
sắc nhẹ nhàng thấm đượm tình người, tình đời.
Sản phẩm đầu ra phải đảm bảo
Khối kiến thức về khoa học cơ bản và Y học
cơ sở. Khối kiến thức khoa học công nghệ (nghề
nghiệp): Y học lâm sàng – Y học gia đình; Y học
cộng đồng – Y học dự phòng và CS y tế; Điều
dưỡng. Khối kiến thức về quản trị:
(Administration) Kinh tế y tế, Quản lý y tế, Hành
vi và đạo đức học.
KẾT LUẬN
Ngành đại học khối ngành sức khỏe hy vọng
sẽ đào tạo nên những thế hệ con người tri thức
Việt Nam ngang tầm với chiều cao của thời đại,
xứng với hai chữ:
V: Vision (Tầm nhìn)
I :Integrity (Chính trực)
E: Energy (Nghị lực)
T: Talent (Tài năng)
N: Nationalism (Tự tôn dân tộc)
A: Asperation (Hoài bão)
M: Mutuality (Tinh thần đồng đội)
Đó là phẩm chất, lí trí, nhân cách của người
Việt Nam, Dân tộc Việt Nam nói chung và đó
phải chăng cũng là tính cách mà chúng ta đã lựa
chọn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2011). Nghị quyết số 46‐NQ/TW của Bộ Chính Trị
Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày
23/02/2005 về công tác bảo vệ. chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân trong tình hình mới.
2. Chính phủ (2011). Quyết định 579/QĐ‐TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 14/9/2011 đã phê duyệt chiến lược phát triển
nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011‐2020.
3. Chính phủ (2011). Quyết định số 255/2006/QĐ‐TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 19/11/2006 về việc phê duyệt chiến
lược quốc gia Y tế dự phòng Việt Nam đến 2010 vàđịnh
hướng 2020.
4. Engels F (1974). The Condition of the Working Class in
England. Moscow. Progress Publishers: 40‐61.
5. Renaud. M (1975). On the Structure constrains to State
Intervention in health. International Journal of Health
Services. 5(4):559‐571.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_thuc_lai_van_de_suc_khoe_benh_tat_duoi_goc_do_sinh_thai.pdf