Nhận thức, thái độ và thói quen ăn uống liên quan đến mòn ngót răng do Acid ở một nhóm người Việt Nam trưởng thành

KẾT LUẬN Các kết quả bước đầu cho mòn ngót răng không phải là tình trạng hiếm gặp ở mẫu nghiên cứu, có nguy cơ ảnh hưởng sức khoẻ răng miệng. Ghi nhận tình trạng mòn ngót răng do acid ở 69% cá thể trong nhóm khảo sát cho thấy đây là một tình trạng khá phổ biến trong mẫu khảo sát và không có sự khác biệt về giới. Đa số không có nhận thức về nguy cơ mòn ngót răng trong khi thói quen tiêu thụ các loại thực phẩm có tiềm năng mòn ngót răng lại rất phổ biến. Do vậy cần có giáo dục nha khoa giúp cho công chúng hiểu về “mòn ngót răng” và làm sao giảm thiểu những tác hại. Đây chỉ là một nghiên cứu khảo sát bước đầu, cần có các nghiên cứu tiếp tục trên trên nhiều phương diện trong lãnh vực này. Đồng thời hy vọng các số liệu ban đầu này sẽ tạo được sự quan tâm của giới chuyên môn, hướng tới duy trì và gia tăng sức khoẻ răng miệng cho cộng đồng.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 39 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức, thái độ và thói quen ăn uống liên quan đến mòn ngót răng do Acid ở một nhóm người Việt Nam trưởng thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 181 NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THÓI QUEN ĂN UỐNG LIÊN QUAN ĐẾN MÒN NGÓT RĂNG DO ACID Ở MỘT NHÓM NGƯỜI VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH Trần Thu Thuỷ*, Trần Đức Thành* TÓM TẮT Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả mối liên quan giữa tình trạng mòn ngót răng với nhận thức, thái độ và thói quen ăn uống. Đối tượng và phương pháp: Sinh viên năm thứ nhất Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh được mời tham gia nghiên cứu. Sinh viên được khám đánh giá tình trạng mòn ngót răng do acid bằng chỉ số Basic erosive Wear Examination (BEWE) và được phỏng vấn để thu thập thông tin về nhận thức, thái độ và thói quen ăn uống có liên quan. Kết quả: 69,6% (n=276) có dấu hiệu của mòn ngót răng. 16,3% sinh viên có tổn thương mòn ngót răng ở mức độ BEWE 3. Tổng điểm BEWE khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi (35 tuổi) (Kruskal Wallis, p<0,001). Ghi nhận mòn ngót răng liên quan đến tuổi (Chi-Square, p<0.001). Không có sự khác biệt cả về tỷ lệ và mức độ trầm trọng giữa nam và nữ. Một nửa người có BEWE 2 (49,4%) và BEWE 3 (44,4%) không hề nhận biết về tình trạng mòn ngót răng của họ. Không có sự kết hợp có ý nghĩa nào giữa điểm số BEWE với cả nhận thức và thái độ đối với mòn ngót ngót răng. 75,8% sinh viên có mòn ngót răng ở mức độ BEWE ≥2 lựa chọn cách xử trí không đúng với tình trạng mòn ngót răng. Người có tình trạng mòn ngót nhẹ uống nước giải khát và ăn vặt nhiều hơn đáng kể so với những người không bị mòn ngót răng (Chi-Square, p<0,001). Các loại thức uống và thức ăn có tiềm năng gây mòn ngót được tiêu thụ khá phổ biến: 78,3% uống nước trái cây có tính acid, 74,6% ăn các loại thức ăn có tính acid, 55,0% uống nước giải khát. Kết luận: mòn ngót răng là tình trạng đáng quan ngại ở mẫu nghiên cứu trong khi đa số lại không nhận thức được vấn đề. Các loại thức ăn và nước uống có tiềm năng gây mòn ngót được sử dụng khá phổ biến vì thế cần cung cấp thông tin và cảnh báo cộng đồng để giảm thiểu tác động không mong muốn này. Từ khoá: Mòn ngót răng, nhận thức, thái độ, thói quen ăn uống. ABSTRACT AWARENESS, ATTITIDES AND DIET RELATED DENTAL EROSION AMONG A GROUP OF VIETNAMESE ADULTS Tran Thu Thuy, Tran Duc Thanh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 181 - 185 Objectives: This study was to describe the prevalence of dental erosion and its association with awareness, attitudes and dietary habits in a group of Vietnamese adults. Method: First-year students of the Ho Chi Minh University of Medicine and Pharmacy were invited to participate. Students were examined for dental erosion using the Basic erosive Wear Examination (BEWE) and interviewed about their awareness, attitudes and dietary habits related to dental erosion. Results: Of the subjects 69.6% (n=276) showed signs of dental erosion. Severe erosion (BEWE 3) was found in 16.3% subjects. The total BEWE scores were significantly different between age groups (35 year * Bộ môn NKCC - Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: TS Trần Thu Thủy ĐT: 0913115959 Email: tranthuthuyrhm@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 182 old) (Kruskal Wallis, p<0.001). Dental erosion was associated with age (Chi-Square, p<0.001). There was no significant differences in both prevalence and severity between gender. Half of subjects having BEWE 2 (49,4%) and BEWE 3 (44,4%) had not perceived dental erosion. There was no significant association between BEWE score and both perception and attitude toward dental erosion. 75.8% subjects with BEWE ≥2 selected incorrect methods for erosive status. Compared to subjects with no erosion, those with mild erosion had a significantly higher consumption of soft drinks and snacks (Chi-Square, p<0.001). Consumption of drinks and foods with an erosive potential were frequent (78.3% consumed acidic fruit juices, 74.6% consumed acidic foods, 55.0% consumed soft drinks). Conclusion: The results suggested that erosive dental wear is of concern for this studied population. There should be increased awareness of erosive dietary foods as the consumption of acidic foods and drinks are very popular. Key words: Dental erosion, Awarness, Attitude, Dietary habit. ĐẶT VẤN ĐỀ Mòn ngót răng (dental erosion) là tình trạng mô răng bị ăn mòn bề mặt do acid hay chất chelat mà không phải do sâu răng. Acid hay chất gây mòn ngót răng có thể có nguồn gốc từ trong các loại thực phẩm, thức uống được ăn uống vào hay từ chính acid nội sinh bên trong cơ thể. Trên thế giới trước đây tình trạng mòn ngót răng ít được quan tâm cả trong thực hành nha khoa lâm sàng lẫn lãnh vực sức khoẻ răng miệng cộng đồng. Ngay cả ở những nước đã phát triển mòn ngót răng hiếm khi được nhận diện và chẩn đoán, đặc biệt ở giai đoạn khởi phát, can thiệp ít được thực hiện ở giai đoạn sớm(9). Kiến thức về mối nguy hại của mòn ngót răng chưa phổ biến rộng rãi. Nhưng do lối sống thay đổi, các loại thức uống và thực phẩm chứa acid đa dạng hơn trên thị trường và được tiêu thụ nhiều hơn. Đồng thời một số hoạt động, tình trạng hoặc bệnh lý làm giảm khả năng bảo vệ răng tự nhiên của cơ thể (do giảm tiết nước bọt hoặc thay đổi chất lượng nước bọt) như các hoạt động thể thao gắng sức hay sử dụng thuốc hàng ngày ở những người mắc các bệnh mạn tính như cao huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim mạch Việc tăng tiêu thụ các thực phẩm có khả năng gây mòn ngót răng và có thể kết hợp với các tình trạng làm giảm khả năng bảo vệ tự nhiên của cơ thể đã làm cho tình trạng hư hại răng do mòn ngót mòn ngót răng trở thành phổ biến ở các nước đã phát triển, làm hư hại răng gây ê buốt đau nhức ảnh hưởng chất lượng lượng cuộc sống. Vì thế ở các nước đã phát triển, mòn ngót răng đã trở thành một loại tổn thương răng đáng quan tâm, là thách thức đối với các nhà lâm sàng vì khi đã tiến triển nặng việc điều trị phục hồi thường phức tạp và rất tốn kém. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, lối sống của người Việt nam cũng đang dần thay đổi với việc các loại nước giải khát và thực phẩm chế biến sẵn có tiềm năng gây mòn ngót răng ngày càng phổ biến trên thị trường. Theo thống kê của Tổ chức Sức khoẻ thế giới năm 2011 Việt Nam ở trong nhóm nước có tỷ lệ tiêu thụ chất có cồn/người/năm tăng cao. Năm 2012 có tổng số 3 tỷ lít bia được tiêu thụ ở nước ta, trung bình 32 lít một người. Tuy nhiên cho đến nay dường như vấn đề này vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của giới chuyên môn, cả về mặt lâm sàng cũng như phương diện sức khoẻ cộng đồng. Chưa có số liệu báo cáo chính thức nào về tình trạng mòn ngót răng và các yếu tố có liên quan. Liệu đây có phải là vấn đề sức khoẻ răng miệng cộng đồng thực sự đáng quan tâm? Nghiên cứu thực hiện để khảo sát tỷ lệ mòn ngót răng do acid và mối liên quan với nhận thức, thái độ và thói quen ăn uống thực phẩm có tiềm năng gây mòn ngót ở một nhóm người Việt Nam trưởng thành. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên sinh viên Đại học Y Dược Tp.HCM. Đề cương Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 183 nghiên cứu đã được Hội đồng Y đức của Đại Học Y Dược Tp.HCM thông qua. Sinh viên liên thông năm thứ nhất (năm học 2013-1014) được mời tham gia nghiên cứu. Người đồng ý tham gia nghiên cứu được phỏng vấn và khám đánh giá tình trạng sức khỏe răng miệng (WHO, 1997) và tình trạng mòn ngót răng do acid (dental erosion). Nhóm khám gồm 3 giảng viên bộ môn Nha khoa công cộng đã được tập huấn. Tiêu chuẩn chọn vào: người tham gia được hỏi xem họ có cảm thấy răng của họ có biểu hiện thay đổi gì về màu sắc (bị vàng đi, bóng láng hơn) hay thực thể (mẻ bờ, sắc cạnh, có vết nứt, ê buốt). Nếu trả lời có ít nhất một ý thì sẽ chọn vào mẫu và tiếp tục phỏng vấn để thu thập thông tin cần thiết. Nếu trả lời không thì dừng phỏng vấn và loại trừ ra khỏi nghiên cứu này. Phỏng vấn sử dụng bảng câu hỏi của Chu(3) có điều chỉnh cho phù hợp. Bảng phỏng vấn gồm 13 câu hỏi về cảm nhận và hiểu biết về mòn răng do acid, thái độ đối với mòn răng do acid và thói quen ăn uống các thực phẩm có tiềm năng gây mòn ngót răng. Về cảm nhận và hiểu biết, người tham gia được hỏi liệu họ có từng nghe nói về “mòn ngót răng” chưa, có biết dấu chứng nào là mòn ngót răng không, có lo ngại không khi có dấu chứng của mòn ngót răng... Về thái độ người tham gia được hỏi về cách họ đã thực hiện hoặc sẽ lựa chọn khi bị mòn ngót răng. Về chế độ ăn, hỏi về thói quen ăn uống, ăn vặt, ăn hay uống những loại thức ăn và thức uống có tiềm năng gây mòn ngót răng. Khám lâm sàng được thực hiện trên ghế nha khoa dưới ánh sáng đèn, có lau khô khi cần thiết. Tình trạng mòn ngót răng được đánh giá bằng chỉ số Basic Erosive Wear Examination (BEWE)(1) và chụp ảnh lâm sàng. Chỉ số BEWE gồm các mức độ: 0- Không có mòn răng, 1- Bắt đầu mất kết cấu bề mặt men, 2- Tổn thương dễ dàng nhận thấy và liên quan dưới 50% diện tích bề mặt, 3- Mô cứng mất trên 50% diện tích bề mặt. Xử lý số liệu: Số liệu thu thập được nhập bằng phần mềm Epi Data 3.1 và xử lý thống kê với phần mềm Stata 10. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Có tổng số 276 sinh viên năm thứ nhất hệ liên thông (178 nữ, 98 nam) đồng ý tham gia khám và cung cấp đầy đủ thông tin thoả mãn điều kiện của bảng phỏng vấn. Tiếp theo khảo sát đầu tiên mô tả tỷ lệ và mức độ mòn ngót răng, chúng tôi phân tích các thông tin về nhận thức và thái độ của người tham gia nghiên cứu về vấn đề mòn ngót răng do acid. Đồng thời thông tin về thói quen ăn uống các loại thực phẩm có tiềm năng gây mòn ngót răng cũng được thu thập và phân tích. Mòn ngót răng khá phổ biến trong mẫu nghiên cứu với 69,6% có biểu hiện mòn ngót răng, trong đó 16,3% ở mức độ nặng (BEWE 3). Mòn ngót răng ở sinh viên Malaysia cũng tương tự với tỷ lệ 68%(10). Tỷ lệ mòn ngót răng theo các báo cáo khá dao động từ 4-100% ở người trưởng thành(7). Việc tỷ lệ khá tương đồng giữa hai nhóm sinh viên Việt Nam và Malaysia có thể suy đoán một phần do cùng nằm trong vùng Đông Nam Á nên khá tương đồng về khí hậu và điều này có thể có tác động đến dạng thực phẩm và thói quen ăn uống. Tương tự, cũng không có sự khác biệt về tỷ lệ và mức độ mòn ngót răng giữa nam và nữ, ở cả sinh viên Việt Nam và số liệu từ sinh viên Malaysia(10). Tổng điểm BEWE khác nhau có ý nghĩa giữa các nhóm tuổi (35)(Kruskal Wallis, p<0,001) (Bảng 1). Mức độ mòn ngót răng có liên kết với tuổi (Chi-Square, p<0,001). Tỷ lệ và mức độ mòn ngót răng cao hơn ở người lớn tuổi hơn đã được ghi nhận trong các báo cáo(4,5,13). Sự gia tăng theo tuổi này hoàn toàn phù hợp với bản chất và căn nguyên của hiện tượng mòn ngót răng. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 184 Bảng 1: Điểm số BEWE theo nhóm tuổi Nhóm n Điểm BEWE (TB ± ĐLC) Phép kiểm Kruskal Wallis <30 tuổi 153 3,38 ± 3,8 p = 0,0006 30-35 tuổi 94 4,06 ± 3,8 >35 tuổi 29 6,07 ± 3,6 Về nhận thức, 48,9% trả lời không nghe nói hay biết gì về “mòn ngót răng”. Trong tổng số những người đã bị mòn ngót răng (BEWE ≥ 1) 43,2% không nhận thức được tình trạng của mình, cũng giống như nhóm không bị mòn ngót. Một nửa nhóm đã có mòn ngót ở mức độ BEWE 2 (49,4%) và BEWE 3 (44,4%), tức là mòn ngót thường đã tiến triển vào ngà răng, chưa từng nghe nói hay biết về “mòn ngót răng”. Trong số các dấu hiệu biểu hiện mòn ngót răng, các thay đổi thực thể (răng có bờ mỏng, răng có vết nứt) dễ nhận biết hơn so với các thay đổi khác (răng đổi màu vàng, răng bóng láng hơn) (Chi-Square, p<0,05). Trong một nghiên cứu về chế độ ăn uống và kiến thức về mòn ngót răng ở Hong Kong có 71% người trả lời chưa từng nghe qua về “mòn ngót răng” dù họ đã nhận thức được dấu chứng thay đổi trên răng của họ(3). Điều này cho thấy giáo dục nha khoa là cần thiết để giúp công chúng hiểu về “mòn ngót răng” và tác động nguy hại của mòn ngót răng tới sức khoẻ răng miệng. Không thấy có sự kết hợp có ý nghĩa giữa điểm số BEWE và nhận thức cũng như thái độ đối với mòn ngót răng. Về thái độ xử trí đối với tình trạng mòn ngót răng, 75,8% người có tổn thương ở mức độ BEWE 2 trở lên đã lựa chọn không đúng cách xử trí (chải răng ngay sau khi ăn, chải răng mạnh hơn, chải răng thường xuyên hơn và dùng chanh lát chà lên răng). Việc không hề biết tới răng có thể bị mòn ngòn răng do acid, không nhận thức được tình trạng mòn ngót răng đang hiện có và tiếp đến là không biết cách xử trí là vấn đề đáng quan ngại. Từ chuỗi tác động liên hoàn này người bị mòn ngót răng sẽ chỉ tìm kiếm chăm sóc chuyên môn ở giai đoạn trễ khi đã có những tác động khá nặng nề về mặt thẩm mỹ hoặc chức năng như ê buốt hay thậm chí đau nhức. Thói quen ăn hay uống các loại thực phẩm có tiềm năng gây mòn ngót răng khá phổ biến (Biểu đồ 1). Không thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thói quen ăn uống và điểm số BEWE. So với nhóm không có biểu hiện mòn ngót thì nhóm bị mòn ngót ở mức độ nhẹ có tần suất uống nước giải khát (nước ngọt, nước có gaz) và ăn vặt cao hơn có ý nghĩa (Chi-square, p<0.001). Tỷ lệ nam uống rượu bia (69,4%) và nước giải khát (73,47%) cao hơn so với nữ (10,7% uống rượu bia, 44,9% uống nước giải khát); tuy nhiên không có khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ và mức độ mòn ngót giữa nam và nữ trong mẫu nghiên cứu này. Rượu bia, nước giải khát là những loại thức uống có tiềm năng gây mòn ngót do độ pH của thức uống. Theo các kết quả nghiên cứu phân tích các thức uống giải khát phổ biến ở các nước châu Âu và Mỹ đều có độ acid với pH thấp dưới 3,5 trong khi men răng sẽ bắt đầu bị hoà tan khi pH từ 5,5 trở xuống(2,8). Khảo sát một số thức uống giải khát trên thị trường thành phố Hồ Chí Minh cho thấy đều có độ pH dưới 4,0(12). Lượng tiêu thụ các thức uống có tiềm năng gây mòn ngót ở Việt Nam hiện gia tăng đáng chú ý. Theo Eurowatch Việt Nam trở thành nước tiêu thụ bia nhiều nhất Đông Nam Á, thứ 3 châu Á, nằm trong nhóm 25 nước hàng đầu thế giới. Năm 2013 số lượng tiêu thụ bia tăng gấp 4 lần so với năm 2004. Ở sinh viên và người trẻ tuổi, khảo sát gần đây cho thấy 25,5% uống rượu bia trên 3 lần/tuần(6). Biểu đồ 1: Thói quen ăn uống. *Thực phẩm vị chua: Nước cam vắt, nước ép bưởi/thơm, nước chanh, nước tắc, nước mơ muối, nước xí muội, đồ ăn vặt có vị chua (me, cóc, xoài dầm). Đồ ăn chua đặc trưng: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 185 canh chua/lẩu chua, gỏi chua, nước chấm pha dấm/chanh. Nước ngọt, nước có gaz: Pepsi/Cola/Sprite, Fanta orange, nước vị trái cây có gaz, nước tăng lực, nước thể thao (sport drink), nước trái cây lên men. Rượu bia: các loại bia, rượu đế, rượu vang, rượu mạnh Về thói quen khám răng, không thấy có sự khác biệt về số lần đi khám răng trong một năm giữa nhóm có và không có biểu hiện mòn ngót răng cũng như giữa nhóm không có mòn ngót răng và nhóm có mòn ngót răng tiến triển vào ngà răng (BEWE 2, BEWE 3). Trong số người có mòn ngót răng mức độ BEWE 3 có 71,1 % trả lời họ có đi khám răng ít nhất 1 lần trong 1 năm trong khi có tới 44,4% trả lời chưa hề nghe nói về “mòn ngót răng”. Kết quả một lần nữa cho thấy sự thiếu thông tin và hiểu biết trong quần thể nghiên cứu về “mòn ngót răng”. Đặc biệt mẫu nghiên cứu đều là nhân viên y tế, những người đã tốt nghiệp một chương trình đào tạo y dược bậc đại học. Đồng thời cũng đáng quan ngại về việc bệnh nhân đến phòng khám có tình trạng mòn ngót răng nhưng đã bị bỏ qua, hoặc là người khám đã không nhận diện và chẩn đoán được hoặc là đã không quan tâm đến tình trạng mòn ngót răng của bệnh nhân dù tổn thương đã rất rõ để nhận biết. KẾT LUẬN Các kết quả bước đầu cho mòn ngót răng không phải là tình trạng hiếm gặp ở mẫu nghiên cứu, có nguy cơ ảnh hưởng sức khoẻ răng miệng. Ghi nhận tình trạng mòn ngót răng do acid ở 69% cá thể trong nhóm khảo sát cho thấy đây là một tình trạng khá phổ biến trong mẫu khảo sát và không có sự khác biệt về giới. Đa số không có nhận thức về nguy cơ mòn ngót răng trong khi thói quen tiêu thụ các loại thực phẩm có tiềm năng mòn ngót răng lại rất phổ biến. Do vậy cần có giáo dục nha khoa giúp cho công chúng hiểu về “mòn ngót răng” và làm sao giảm thiểu những tác hại. Đây chỉ là một nghiên cứu khảo sát bước đầu, cần có các nghiên cứu tiếp tục trên trên nhiều phương diện trong lãnh vực này. Đồng thời hy vọng các số liệu ban đầu này sẽ tạo được sự quan tâm của giới chuyên môn, hướng tới duy trì và gia tăng sức khoẻ răng miệng cho cộng đồng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bardlett D, Ganss C, Lussi A (2008). Basic erosive wear examination (BEWE): a new scoring system for scientific and clinical needs. Clin Oral Invest, 12(Suppl 1): S65–S68. 2. Borjian A, Ferrari CC, Anouf A, Touyz LZ (2010). Pop-cola acids and tooth erosion: an in vitro, in vivo, electron-microscopic, and clinical report. Int J Dent, 2010: 957842. 3. Chu CH, Pang KK, Lo EC (2010). Dietary behavior and knowledge of dental erosion among Chineses adults. BMC Oral Health, Jun 3: 10-13. 4. Donachie MA, Walls AWG (1995). Assessment of tooth wear in an ageing population. J Dent , 23: 157–164. 5. Ekfeld A (1989). Incisal and occlusal tooth wear and wear of some prosthodontic materials: an epidemio- 
 logical and clinical study. Swed Dent J, Suppl 65: 1–62. 6. Huỳnh Văn Sơn (2014). Mức độ nghiện rượu bia ở nam sinh viên và người trưởng thành trẻ tuổi tại Tp.HCM hiện nay. Tại chí Khoa học ĐHSP TPHCM 2014, 5: 173-183. 7. Jaeggi T, Lussi A (2014). Prevalence, incidence and distribution of erosion. In: Lussi A. Erosive Tooth Wear, Monogr Oral Sci, vol 25, 55-73. Karger, Basel. 8. Lussi A and Jaeggi T (2006). Chemical factors. In: Lussi A. Dental Erosion, Monogr Oral Sci., vol 20, 77–87. Karger, Basel. 9. Lussi A (2014). Erosive Tooth Wear – A Multifactorial Condition of Growing Concern and Increasing Knowledge. In: Lussi A. Erosive tooth wear, Monogr Oral Sci., vol 25, 1–8. Karger, Basel. 10. Manaf ZA et al (2012). Relationship between food habits and tooth erosion occurrence in Malaysian University students. Malays J Med Sci, Apr 19(2): 56-66. 11. Mulic A (2012). On dental erosive wear among different groups in Norway. Doctoral thesis, 10-13. The Faculty of Dentistry, University of Oslo, Norway. 12. Nguyễn Võ Ngọc Trang, Lê Đức Lánh, Siriruk Nakomchai (2013). Nồng độ Fluor và tính acit của nước giải khát tại thành phố Hồ Chí Minh 2012. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 17(2): 9-14. 13. Smith BG, Robb ND (1996). The prevalence of tooth wear in 1,007 dental patients. J Oral Rehabil, 23: 232–239. Ngày nhận bài báo: 14/02/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/03/2015 Người phản biện: TS Trần Xuân Vĩnh Ngày bài báo được đăng: 10/04/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhan_thuc_thai_do_va_thoi_quen_an_uong_lien_quan_den_mon_ngo.pdf