Nhìn chung, nhận thức đúng toàn diện về HIV của người dân cộng đồng còn khá
khiêm tốn. Nữ giới có kiến thức đúng về HIV cao hơn nam giới. Trong đó, quan niệm sai
lầm về đường lây và cách phòng tránh của người dân còn cao. Đặc biệt, người dân cộng
đồng chưa biết thông tin chung về điều trị kháng vi rút ART. Khi người dân hiểu xu
hướng hiện nay, điều trị ART cho người nhiễm HIV là dự phòng lây nhiễm HIV, thì sẽ
làm cho họ bớt lo sợ và giảm sự kỳ thị cộng đồng.
Nghiên cứu cho thấy rằng thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng đối với trẻ em
bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS vẫn còn rất cao, đặc biệt, đối với các tình huống liên quan
trực tiếp đến con, cháu của họ thì sự kỳ thị lại càng thể hiện rõ hơn. Định kiến của người
dân cộng đồng đối với người có HIV còn khá nặng nề. Nhưng, nhầm lẫn về HIV và định
kiến gán nhãn người có HIV với “các tệ nạn xã hội” lại không có mối tương tác với thái
độ kỳ thị của người dân. Kiểm định phản ảnh rằng bốn nhân tố tác động đến thái độ kỳ
thị của người dân là: (i) Giới tính; (ii) Học vấn, (iii) Nghề nghiệp, và (iiii) Hiểu biết chưa
đầy đủ về HIV.
Kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần tác động đến những nhà hoạch định chính
sách, những người thực hiện chương trình, quản lý Nhà nước, truyền thông đại chúng và
những người làm việc trong lãnh vực HIV/AIDS cần phải tiếp tục đẩy mạnh hoạt động
truyền thông nâng cao nhận thức người dân về HIV/AIDS bao gồm thông tin mới như lợi
ích điều trị sớm, điều trị ART là dự phòng lây nhiễm HIV để cho người dân không còn
lo sợ quá mức và giảm thái độ kỳ thị với người có HIV và trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV
11 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 779 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận thức về hiv/aids và thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS: Nghiên cứu tại quận 8 và quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 8, Số 4, 2018 11–21
11
NHẬN THỨC VỀ HIV/AIDS VÀ THÁI ĐỘ KỲ THỊ CỦA NGƯỜI
DÂN CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI TRẺ EM BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI
HIV/AIDS: NGHIÊN CỨU TẠI QUẬN 8 VÀ QUẬN BÌNH THẠNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Võ Hoàng Sơna*
aHọc viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam
*Tác giả liên hệ: Email: sonvh2010@gmail.com
Lịch sử bài báo
Nhận ngày 15 tháng 11 năm 2017
Chỉnh sửa ngày 12 tháng 12 năm 2017 | Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 12 năm 2017
Tóm tắt
Sử dụng dữ liệu định lượng từ đề tài nghiên cứu của chính tác giả “Kỳ thị đối với trẻ bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS: Nghiên cứu tại Quận 8 và Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí
Minh”, qua khảo sát 200 người dân cộng đồng tại hai Quận, bài viết phân tích nhận thức về
HIV/AIDS và thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS. Kết quả phân tích cho thấy nhận thức đúng toàn diện về HIV/AIDS của người
dân chưa cao, vẫn còn nhầm lẫn nhiều về HIV/AIDS. Thái độ kỳ thị của người dân trong
cộng đồng đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV vẫn còn rất cao, đặc biệt, đối với các tình
huống liên quan trực tiếp đến con, cháu họ thì sự kỳ thị lại càng thể hiện rõ hơn. Định kiến
gán nhãn của người dân cộng đồng đối với người có HIV còn khá nặng nề. Thế nhưng, định
kiến và nhầm lẫn về HIV không tác động đến thái độ kỳ thị của người dân. Kiểm định cho
thấy, giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp và chưa hiểu biết đầy đủ về HIV là những nhân
tố ảnh hưởng đến sự ngăn cản không cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV học chung với trẻ
khác.
Từ khóa: Nhận thức về HIV/AIDS; Thái độ kỳ thị; Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Mã số định danh bài báo:
Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt
Bản quyền © 2018 (Các) Tác giả.
Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC-ND 4.0
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN]
12
KNOWLEDGE ON HIV/AIDS AND STIGMA OF THE COMMUNITY
TOWARD CHILDREN AFFECTED BY HIV/AIDS: RESEARCH
CONDUCTED IN DISTRICT 8 AND BINHTHANH DISTRICT,
HOCHIMINH CITY
Vo Hoang Sona*
aThe Graduate Academy of Social Sciences, The Vietnam Academy of Social Sciences, Hanoi, Vietnam
*Corresponding author: Email: sonvh2010@gmail.com
Article history
Received: November 15th, 2017 | Received in revised form: December 12th, 2017
Accepted: December 18th, 2017
Abstract
Using quantitative data from a research by the author titled "Stigma toward children affected
by HIV/AIDS: A research conducted in District 8 and Binhthanh District, Hochiminh City",
involving 200 people in the two Districts, the article analyses HIV/AIDS knowledge and
stigma of the community toward children affected by HIV/AIDS. The results show that the
accuracy of the people’s knowledge on HIV/AIDS is not high. There are still many
misperceptions. People’s attitude towards children affected by HIV/AIDS is highly
stigmatized, especially in situations where HIV/AIDS patients are their own children and
grandchildren, the stigma is more apparent. The labelling of the community towards people
living with HIV is quite heavy. However, prejudice and misperceptions about HIV do not
affect people’s attitude. The results of the analysis show that gender, education, occupation,
and lack of complete knowledge about HIV are factors that prevent the children affected by
HIV from going to school together with other children.
Keywords: Children affected by HIV/AIDS; Discrimination; Knowledge on HIV/AIDS.
Article identifier:
Article type: (peer-reviewed) Full-length research article
Copyright © 2018 The author(s).
Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC-ND 4.0
Võ Hoàng Sơn
13
1. GIỚI THIỆU
Kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS là một vấn đề toàn cầu, mà cả thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng đang cùng nhau giải quyết để đạt được mục tiêu “Không còn kỳ
thị với người có HIV” do chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS
(UNAIDS) hướng đến nhằm kết thúc dịch HIV/AIDS vào năm 2030 (UNAIDS, 2010).
Nhìn lại trong 30 năm đương đầu với HIV/AIDS, thì kỳ thị liên quan đến HIV được coi
là trở ngại chính đối với sự thành công và loại trừ được dịch AIDS. Báo cáo phân tích
tình hình trẻ em năm 2010 của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) đã ghi nhận
những thành công nhanh chóng của Việt Nam về kinh tế và tiến bộ đáng kể về xã hội, khi
chỉ trong hai thập kỷ qua đã đạt được vị thế quốc gia có thu nhập trung bình thấp vào năm
2009. Tuy nhiên, báo cáo cũng nhấn mạnh rằng mục tiêu liên quan đến HIV/AIDS, trong
đó vấn đề kỳ thị phân biệt đối xử với người có HIV vẫn chưa hoàn toàn đạt được. Đó là
một trong những rào cản chính đến hiệu quả của chương trình dự phòng và chăm sóc điều
trị HIV/AIDS (Rebeca, Vũ, & Nguyễn, 2011). Chính vì vậy, nâng cao nhận thức của
người dân về HIV/AIDS để đảm bảo mọi người có hiểu biết đúng, tránh lây nhiễm HIV
và góp phần giảm kỳ thị là một mục tiêu quan trọng và xuyên suốt trong chương trình
phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam. Ngay trong Chiến lược quốc gia phòng, chống
HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030, mục tiêu cụ thể đầu tiên đã xác định
tăng tỷ lệ người dân trong độ tuổi từ 15 đến 49 tuổi có hiểu biết đầy đủ về HIV/AIDS đạt
80% vào năm 2020 (Uỷ ban Quốc gia Phòng chống HIV/AIDS, ma túy, mại dâm, 2012).
Kết quả điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ - MICS năm 2014, đã phản ảnh
rằng, có 94.5% phụ nữ trong độ tuổi từ 15-49 đã nghe về HIV/AIDS và 79.7% biết hai
cách chính phòng tránh HIV: (i) Chỉ quan hệ tình dục với một người chung thủy và không
bị lây nhiễm HIV và (ii) Sử dụng bao cao su mỗi lần quan hệ tình dục (Tổng cục Thống
kê, 2015). Riêng tại TP. Hồ Chí Minh, một khảo sát đánh giá kiến thức thái độ và hành
vi về HIV/AIDS của phụ nữ mang thai đã chỉ ra rằng, có trên 90% người tham gia khảo
sát trả lời đúng về đường lây và cách phòng tránh HIV (Nguyễn, Nguyễn, & Phạm, 2014).
Liên quan đến thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng đối với người có HIV và
những người có liên quan, nghiên cứu của Lưu (2010) cho thấy 61.7% người dân có thái
độ kỳ thị với người có HIV trong xã hội và 47% người có HIV ghi nhận thái độ xa lánh
từ cộng đồng xã hội sau khi nhiễm HIV. Người kỳ thị chính là hàng xóm, láng giềng
41.3% họ hàng và bạn bè thấp hơn lần lượt là 14% và 13.4% còn tự kỳ thị là 23.4%. Thêm
vào đó, nghiên cứu đánh giá chỉ số kỳ thị mô tả rằng có 4% con của người có HIV không
được đến trường, do sự kỳ thị của cộng đồng xã hội (VNP+, 2012). Tuy nhiên, đối với trẻ
em bị ảnh hưởng bởi HIV, có những bằng chứng cho thấy khoảng trống trong nghiên cứu
về nhận thức và thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS (BAHBH) ở Việt Nam. Bài viết này hướng tới chính những vấn đề đó với
mục tiêu phân tích nhận thức về HIV/AIDS và thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng
đối với trẻ BAHBH ở TP. Hồ Chí Minh. Những dữ liệu trong bài viết này được rút ra từ
đề tài nghiên cứu của Võ (2014) với tiêu đề “Kỳ thị đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi
HIVAIDS: Nghiên cứu tại Quận 8 và Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh”.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN]
14
2. KHÁI NIỆM, CÁC QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA
SỰ KỲ THỊ
2.1. Khái niệm kỳ thị (Stigma)
Kỳ thị như là “một thuộc tính hết sức cá nhân và dẫn tới việc loại bỏ một người
hoặc một nhóm người ra khỏi cộng đồng” và những người bình thường, coi họ là một
người hoặc một nhóm người “vô dụng” và “phế phẩm”. Kỳ thị như là một quá trình gồm
ba bước: (i) Phân loại người “phế phẩm” ra khỏi những người “bình thường” bằng cách
phân biệt và gán nhãn; (ii) Liên hệ những sự khác biệt đó với những thuộc tính xấu; (iii)
Tách “chúng ta” ra khỏi “chúng nó”. Kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS đã thể hiện đầy đủ
quá trình của cả ba bước này, qua việc tách và gán nhãn người có HIV và những người
liên quan, gắn cho những người này là những người có hành vi “vô đạo đức” thuộc nhóm
“tệ nạn xã hội” và tách họ ra như những thành phần thấp kém trong xã hội (Tổ chức Lao
động Quốc tế tại Việt Nam, 2004, tr. 10). UNAIDS (2015) định nghĩa kỳ thị liên quan tới
HIV/AIDS là một quá trình làm giảm giá trị (devaluation) của một cá nhân trong con
mắt người khác. Kỳ thị này nói đến thái độ, cảm nhận và niềm tin tiêu cực hướng đến
người có HIV hoặc là liên quan với HIV.
Trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được quy định theo Quyết định 570/QĐ-TTg*1,
nhưng trong bài viết này trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV là trẻ nhiễm HIV và trẻ bị ảnh hưởng
bởi HIV trực tiếp bao gồm: Trẻ mồ côi cha hoặc mẹ hay cả cha và mẹ đã chết bởi
HIV/AIDS; Trẻ có cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ, người chăm sóc trực tiếp nhiễm
HIV/AIDS.
2.2. Cơ sở lý luận
Lý thuyết kỳ thị: Dựa theo sự công nhận của UNAIDS (2015), trong nghiên cứu
này, sự kỳ thị được hiểu là một quá trình hạ thấp giá trị và làm mất đi cơ hội sống của
những người có HIV hoặc những người bị nghi ngờ nhiễm HIV/AIDS và những người
thân của họ bao gồm trẻ BAHBH. Rõ ràng, về mặt xã hội, kỳ thị đã cách ly những người
bị kỳ thị ra khỏi xã hội hoặc cản trở họ tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ xã hội mà đáng lý họ
phải được hưởng đời sống xã hội một cách đầy đủ. Sự “kỳ thị” đề cập đến thái độ, cảm
nhận và niềm tin tiêu cực hướng đến người có HIV hoặc là những người liên quan với
HIV. Việc kỳ thị này đã tước đi những quyền cơ bản mà trẻ BAHBH đáng được hưởng
như việc tiếp cận giáo dục, chăm sóc y tế, và vui chơi giải trí.
Lý thuyết gán nhãn (Labeling, một số tài liệu dịch dán nhãn). Howard (1963)
khẳng định rằng sự lệch lạc chỉ có thể định nghĩa như "hành vi mà con người được gọi
như thế" vì sự lệch lạc có tính tương đối và phụ thuộc vào tình huống tương tác xã hội cụ
1Theo quyết định 570/QĐ-TTg, ngày 22/4/2014 về Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cho giai đoạn
2014-2020. Xác định đối tượng trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS bao gồm: Trẻ nhiễm HIV và trẻ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi HIV:
Trẻ mồ côi do bố và mẹ hoặc bố hoặc mẹ chết vì lý do liên quan đến HIV/AIDS; Trẻ sống với bố, mẹ hoặc người nuôi dưỡng nhiễm
HIV; Trẻ có nguy cơ cao nhiễm HIV: Trẻ em sử dụng ma túy, trẻ em con của người mua dâm, bán dâm, sử dụng ma túy, trẻ sống
trong các cơ sở trợ giúp xã hội. Tuy nhiên trong bài viết này chỉ giới hạn trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV là trẻ nhiễm HIV và trẻ bị ảnh
hưởng bởi HIV trực tiếp.
Võ Hoàng Sơn
15
thể. Ông nhấn mạnh đến phản ứng của người khác cũng như những hệ quả của phản ứng
đó là tạo ra sự lệch lạc. Khi một người đã bị gán nhãn lệch lạc, người đó sẽ trở nên bị tách
rời khỏi xã hội, tìm đến với những người cùng cảnh ngộ và đến một mức độ nào đó, sẽ
phản ứng theo đúng những gì mà xã hội gán cho (Howard, 1963). Lý thuyết gán nhãn
được áp dụng trong nghiên cứu để mô tả sự định kiến, kỳ thị đối với trẻ BAHBH. Nó giúp
tác giả mô tả được những biểu hiện của sự kỳ thị từ cộng đồng do dán nhãn. Chẳng hạn
những người chăm sóc trực tiếp cho trẻ thường bị gán cho cái nhãn là những người thuộc
diện “tệ nạn xã hội” hoặc là người nghiện ma túy, mại dâm hay ăn chơi lêu lổng mới bị
mắc HIV và trẻ BAHBH bị xem là con “của những người tệ nạn xã hội”.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết này sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với bảng hỏi bán cấu
trúc. Tổng số 200 người dân cộng đồng tham gia là những người đại diện trong hộ gia
đình (không nhất thiết là chủ hộ), nhưng phải có con hoặc cháu trong độ tuổi từ nhà trẻ
đến dưới 18 tuổi đang sinh sống tại bốn phường có nhiều trẻ BAHBH của hai Quận và họ
đồng ý tham gia nghiên cứu. Trong 200 người dân cộng đồng có 61.5% là nữ giới, tuổi
nhỏ nhất là 20 tuổi và lớn nhất là 86 tuổi. Độ tuổi trung bình tham gia nghiên cứu là 40-
59 tuổi chiếm 51%; Tuổi trung vị của người dân là 46; Trình độ học vấn đa số là THCS,
chiếm 55%.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nhận thức về HIV/AIDS của người dân cộng đồng
Nhận thức đúng toàn diện là hiểu biết đúng về các đường lây, cách phòng tránh
và phân biệt rõ ràng những quan niệm sai lầm trong lây nhiễm HIV như ăn uống chung
với người có HIV, ngủ chung, tắm chung hồ bơi với người có HIV thì không thể nào bị
lây nhiễm HIV, cũng như những thông tin liên quan đến điều trị ART (Anti Retrovirus
Therapy - Liệu pháp thuốc kháng vi rút HIV). Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, 62% người
dân cộng đồng có nhận thức đúng toàn diện đầy đủ về HIV/AIDS. Tuy nhiên, vẫn còn
38% người tham gia nghiên cứu chưa có kiến thức đúng và đầy đủ về HIV/AIDS, nên rất
cần các chương trình truyền thông về HIV/AIDS tiếp tục được đẩy mạnh để cải thiện tỷ
lệ người dân có nhận thức chưa đầy đủ này. So sánh giữa nam và nữ, thì có sự khác biệt
đáng kể khi tỷ lệ nữ có kiến thức đúng toàn diện cao hơn nam giới lần lượt là 60.5% và
39.5% như được trình bày trong Bảng 1. Tỷ lệ nữ có kiến thức đúng cao hơn nam giới
cho thấy rằng các hoạt động truyền thông HIV/AIDS, trong thời gian qua, đã ưu tiên tập
trung hơn vào phụ nữ. Bởi ngay từ đầu dịch HIV/AIDS, không ít các nghiên cứu chỉ ra
rằng phụ nữ có nguy cơ lây nhiễm HIV cao hơn và chịu tác động HIV nặng nề hơn nam
giới nhưng việc tiếp cận thông tin HIV/AIDS lại còn hạn chế. Vì vậy, một trong những
chỉ tiêu then chốt của các Mục tiêu thiên niên kỷ và báo cáo tiến trình phòng chống
HIV/AIDS toàn cầu (Global AIDS Response Progress Reporting - GARPR; Trước đây là
báo cáo của United Nations General Assembly Special session on HIV and AIDS -
UNGASS) luôn có phần trăm phụ nữ, trẻ em và thanh niên có hiểu biết toàn diện và đúng
về sự lây truyền, cách phòng tránh HIV. Trong những năm qua, Việt Nam luôn thực hiện
báo cáo điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ, gọi tắt là MICS (Multiple
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN]
16
Indicator Cluster Survey), được tiến hành định kỳ hai năm để thu thập thông tin có tính
so sánh toàn cầu về một loạt các chỉ tiêu phản ảnh tình trạng trẻ em và phụ nữ liên quan
đến dinh dưỡng, sức khỏe, tiêm chủng mở rộng ở trẻ em, giáo dục và HIV/AIDS. Rõ ràng,
các báo cáo này đã góp phần tăng cường các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức
về HIV/AIDS cho phụ nữ và trẻ em.
Khi phân tích về đường lây truyền HIV và cách phòng tránh, kết quả cho thấy,
71% người dân cộng đồng có kiến thức đúng về các đường lây và 64% người tham gia
nghiên cứu đã trả lời chính xác về cách phòng tránh HIV. So sánh giữa nam và nữ thì nữ
giới xác định đúng các đường lây và cách phòng tránh HIV cao hơn nam giới theo thứ tự
lần lượt 65.5% so với 34.5% và 60.2% so với 39.8% như được tóm tắt trong Bảng 1.
Những quan niệm sai lầm về lây nhiễm HIV dễ gây ra thái độ kỳ thị, trong những
năm qua truyền thông đại chúng từ trung ương đến địa phương, cùng các ban ngành, đoàn
thể đã có nhiều hoạt động truyền thông để nâng cao nhận thức cho người dân, góp phần
xóa những quan niệm sai lầm về HIV/AIDS như: Ăn uống chung với người có HIV, ngủ
chung với người có HIV, tắm chung với người có HIV là không bị lây HIV. Điều này giúp
cải thiện đáng kể những hiểu biết sai lầm của người dân. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
đã phản ảnh có tới 42% người dân vẫn còn quan niệm sai lầm về HIV/AIDS, khi có người
dân cho rằng ngủ chung (không quan hệ tình dục) có thể lây nhiễm HIV, hay không ăn
chung với người nhiễm HIV và không dùng chung nhà vệ sinh, hồ bơi để phòng tránh lây
nhiễm HIV. So sánh giữa nam và nữ, thì nam bị nhầm lẫn cao hơn nữ. Bằng chứng là
trong khi tỷ lệ nữ có kiến thức đúng là 65.5% thì tỉ lệ nam giới chỉ là 34.5%.
Bảng 1. Tỷ lệ % người hiểu đúng về HIV theo giới tính
Nội dung
% giới tính người có
hiểu đúng về HIV
Tổng người có hiểu biết
đúng về HIV
Nam Nữ
Số người
(N=200)
Tỷ lệ %
Kiến thức đúng toàn diện về HIV/AIDS 39.5 60.5 124 62.0
Kiến thức đúng về các đường lây HIV 34.5 65.5 142 71.0
Kiến thức đúng về cách phòng tránh HIV 39.8 60.2 128 64.0
Kiến thức đúng về các nhầm lẫn liên quan HIV 34.5 65.5 116 58.0
Kiến thức đúng về thông tin điều trị ART 47.1 52.9 51 25.5
Nguồn: Võ (2014).
Hiện nay khi quan điểm của các nhà chuyên môn trên thế giới và tại Việt Nam
đều đang xem điều trị ART là dự phòng lây nhiễm HIV, nên việc người dân có kiến thức
đúng về điều trị ART sẽ góp phần giảm kỳ thị, kết quả chỉ ra rằng, 149 người (74.5%)
chưa có kiến thức đúng về điều trị ART. Nghiên cứu cho thấy, nữ luôn có kiến thức đúng
toàn diện về các đường lây, cách phòng tránh và những nhầm lẫn về HIV gần gấp đôi
nam giới. Nhưng kiến thức đúng về thông tin điều trị ART giữa nam và nữ thì không có
sự khác biệt đáng kể (47.1% nam và 52.9% nữ), như vậy cả nam và nữ chỉ đúng khoảng
50% kiến thức về thông tin điều trị ART. Dường như thông tin về điều trị ART chưa thu
Võ Hoàng Sơn
17
hút sự quan tâm của người dân. Đây là vấn đề cần được chú ý để đẩy mạnh thông điệp
truyền thông điều trị ART là dự phòng, góp phần giảm kỳ thị.
3.2. Thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng
Thái độ là xu hướng phản ứng (tích cực hay tiêu cực; đồng tình ủng hộ hay không
đồng tình, phản đối) của cá nhân đối với các đối tượng hay tình huống mà người đó gặp
phải thông qua nhận thức, tình cảm và cách ứng xử của mình. Thái độ hình thành trong
quá trình các cá nhân gia nhập vào các quan hệ xã hội và mang tính lịch sử (Nguyễn &
Trần, 2011).
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, 80.5% người dân vẫn còn kỳ thị với trẻ em
BAHBH. So sánh giữa nam và nữ, thì nữ có thái độ kỳ thị cao hơn nam giới gần gấp đôi
(65.2% so với 34.8%), mặc dù hiểu biết đúng về HIV/AIDS của phụ nữ lại cao hơn nam
giới. Điều này có phải chăng do phụ nữ thường nặng cảm tính với con cháu nhiều hơn
nam giới, nên dễ lo sợ quá mức mà có thái độ kỳ thị?
Để có thể hiểu rõ hơn về thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng, các tình huống
cụ thể trong cuộc sống minh chứng thái độ có kỳ thị hay không của người dân. Khi được
hỏi chung “trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV có nên đến trường học chung với các trẻ em
khác không?” thì 76.5% người dân đã cho rằng có. Rõ ràng, đa số người dân đều muốn
trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV cần được đến trường như bao trẻ em khác, và việc trẻ học
chung chắc không bị ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, khi được hỏi tiếp “giả sử con, cháu ông
bà ngồi chung ghế, học chung lớp với trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV, ông bà cảm thấy như
thế nào?”, số người tham gia nghiên cứu cảm thấy bình thường chỉ còn 60.5%, số người
dân lo sợ đã chiếm 39.5%. Mức độ lo sợ của phụ nữ (69.6%) cao hơn gấp đôi so với nam
giới (30.4%). Mặc dù, đa số người người dân đều biết rằng việc học chung, ngồi chung
ghế không thể nào bị lây nhiễm HIV, thế nhưng vẫn còn khá nhiều người (39.5%) lại lo
sợ quá mức trẻ học chung, ngồi chung với nhau sẽ có nguy cơ bị lây nhiễm HIV? Chính
sự lo sợ quá mức không cần thiết này của người dân, sẽ dễ dàng tạo ra thái độ và hành vi
kỳ thị đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV. Tiếp tục với câu hỏi, “giả sử ông bà biết
trong xóm/cộng đồng có trẻ nhiễm HIV/trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV hay đến chơi với con,
cháu ông bà, vậy ông bà có để cho con, cháu mình chơi với chúng hay không?” thì chỉ có
65% người tham gia nghiên cứu đồng ý cho chơi chung, còn 35% là không đồng ý. Tuy
nhiên tỷ lệ phụ nữ phản đối trẻ chơi chung gần gấp ba lần nam giới.
Như vậy, có thể thấy rằng, khi chúng ta đưa ra các quan điểm, tình huống chung
chung để đánh giá về thái độ kỳ thị, thì người dân cộng đồng bày tỏ thái độ ít kỳ thị, tuy
nhiên, khi các tình huống này liên quan trực tiếp đến con, cháu của họ thì những người
tham gia nghiên cứu thể hiện ngay sự dè dặt, thái độ kỳ thị càng rõ ràng hơn và phụ nữ
thể hiện sự dè dặt, kỳ thị nhiều hơn nam giới. Tất cả những điều này gợi nhắc rằng, sự
hiểu biết về HIV có thể khiến người ta ít kỳ thị hơn. Nhưng thái độ kỳ thị không hẳn chỉ
bị chi phối bởi kiến thức mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc, bởi định kiến và bởi thực
hành trong thực tế. Từ đó có thể suy diễn rằng để người dân không có thái độ kỳ thị, việc
phổ biến kiến thức không thôi vẫn chưa đủ, mà còn cần có những biện pháp giúp người
dân thay đổi thái độ đối với người BAHBH.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN]
18
Thái độ này ngày càng rõ ràng hơn khi được tiếp tục với câu hỏi “nếu biết một
người bán quán ăn trong hẻm là người có HIV, ông bà sẽ có ăn hàng của người đó
không?” kết quả phản ảnh rằng chỉ có 34% người dân đồng ý tiếp tục ăn hàng của người
có HIV. Như vậy, có tới 66% người dân không dám ăn hay có thái độ kỳ thị với quán ăn
của người có HIV. Có sự khác biệt đáng kể, khi tỷ lệ phụ nữ (64.4%) cao gần gấp đôi
nam giới với 35.6% còn lo lắng không dám ăn ở quán ăn của người có HIV.
Sự định kiến, gán nhãn người có HIV hoặc những người liên quan là thành phần
“tệ nạn xã hội” như những nhân tố then chốt tạo ra sự kỳ thị trong cộng đồng xã hội. Kết
quả nghiên cứu đã phản ảnh rằng, có 72.5% người dân còn định kiến, trong đó nữ còn
định kiến cao hơn nam theo thứ tự 64.7% và 35.8%.
Hình 1. Thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng đối với trẻ em BAHBH (%)
Nguồn: Võ (2014).
3.3. Tương quan giữa thái độ kỳ thị với các nhân tố tác động đến sự kỳ thị
Nhằm tìm các nhân tố ảnh hưởng đến sự kỳ thị của người dân cộng đồng đối với
trẻ em BAHBH, phân tích hồi quy Logistic được sử dụng. Bảng 2 trình bày mô hình
“không cho trẻ em BAHBH học chung với trẻ em khác” làm biến phụ thuộc. Các phân
nhóm đặc trưng bao gồm các biến độc lập như giới tính, nhóm tuổi, học vấn, nghề nghiệp
và nhận thức đúng toàn diện về HIV/AIDS. Định kiến và nhầm lẫn cũng được phân tích
thử nghiệm nhưng không có tác động đáng kể có ý nghĩa thống kê, nên không đưa vào
bảng. Kết quả phân tích hồi quy Logistic cho thấy có sự chênh lệnh theo giới tính giữa
nam và nữ trong xác suất để cho trẻ em BAHBH học chung với trẻ khác. Hành vi cho trẻ
em BAHBH học chung có xu hướng tăng từ nữ đến nam. Hay nói cách khác, nam giới có
xu hướng đồng ý cho trẻ em BAHBH học chung với trẻ khác cao hơn gần gấp đôi nữ giới
và sự chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (Exp (B)=0.442; 95%; p<0.05). Việc này một
lần nữa xác nhận thêm cho kết quả phân tích về thái độ kỳ thị của người dân theo giới
tính ở Bảng 1. Liệu có phải nữ giới thường lo sợ quá mức về nguy cơ lây nhiễm HIV ở
trẻ em nên dễ có thái độ dè dặt, kỳ thị hơn nam giới chăng? Mặc dù kiến thức đúng toàn
diện về HIV/AIDS của nữ cao hơn nam giới như minh chứng trong phần nhận thức của
người dân cộng đồng ở trên. Không có sự chênh lệch đáng kể giữa các nhóm tuổi của
người dân cộng đồng trong việc không cho trẻ em BAHBH học chung.
Võ Hoàng Sơn
19
Kết quả hồi quy một lần nữa khẳng định khi các biến số khác là như nhau có trong
mô hình, hệ số chênh lệch giữa xác suất không cho trẻ em BAHBH học chung với trẻ
khác của người có trình độ học vấn tiểu học có xu hướng kỳ thị cao gần gấp 4 lần so với
người có trình độ học vấn từ THPT trở lên, sự chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (Exp
(B)=3.909; 95%; p<0.05). Người có trình độ học vấn THCS có xu hướng kỳ thị hơn gần
gấp ba (2.8 lần) khi so với nhóm tham chiếu là trình độ THPT trở lên, nhưng không có ý
nghĩa thống kê. Hay nói cách khác, người có trình độ học vấn càng thấp thì thường có xu
hướng kỳ thị càng cao khi so với người có trình độ học vấn cao.
Nghề nghiệp của người dân cộng đồng lại có ảnh hưởng đến khả năng cho trẻ em
BAHBH học chung. Hệ số hồi quy cho thấy, khi các biến số khác là như nhau, người làm
nhân viên văn phòng có xu hướng không đồng ý cho trẻ em BAHBH học chung với các
trẻ khác cao hơn 3.8 lần khi so với những người nội trợ, không việc làm và sự chênh lệch
này là có ý nghĩa thống kê (Exp (B)=3.837; 95%; p<0.05). Điều này, dường như là do
những nhân viên văn phòng thường không có thời gian quan tâm cập nhật thông tin mới
về HIV, hay do họ luôn lo sợ quá mức về nguy cơ lây nhiễm HIV khi cho trẻ học chung
với nhau, thành thử nhân viên văn phòng có xu hướng kỳ thị hơn các nhóm khác.
Bảng 2. Mô hình hồi quy Logistic về xác suất không cho trẻ BAHBH học chung
Đặc trưng
Mô hình (exp B)
Không cho trẻ BAHBH học chung
Giới tính
Nam 0.442*
Nữ 1
Nhóm tuổi
Dưới 40 1.004
40-54 0.953
55 trở lên 1
Học vấn
Tiểu học 3.909*
THCS 2.815
THPT, trở lên 1
Nghề nghiệp
Viên chức, văn phòng 3.837*
Buôn bán nhỏ, LĐ PT 0.640
Nội trợ, không làm việc 1
Nhận thức về HIV/AIDS
Nhận thức chưa đầy đủ 4.299**
Nhận thức đúng, toàn diện 1
Hằng số 0.066
Ghi chú: * là mức ý nghĩa nhỏ hơn 0.05; ** là mức ý nghĩa nhỏ hơn 0.01;
Hosmer và Lemeshow test = 0.973. N=200.
Nguồn: Võ (2014).
Hiểu biết về HIV có ảnh hưởng đến thái độ hành vi kỳ thị của người dân, khi kết
quả hồi quy chỉ ra rằng người có hiểu biết chưa đầy đủ về HIV có xu hướng không cho
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN]
20
trẻ em BAHBH học chung với trẻ khác cao hơn 4.3 lần những người dân có kiến thức
đúng toàn diện về HIV, sự chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (Exp (B)=4.299; 95%;
p<0.01). Nói cách khác, người có hiểu biết chưa đầy đủ về HIV thường có xu hướng kỳ
thị hơn những người có hiểu biết đúng toàn diện về HIV.
Nhìn chung, phân tích hồi quy Logistic cho thấy rằng bốn nhân tố cản trở trẻ em
BAHBH học chung với trẻ khác là: (i) Giới tính; (ii) Học vấn; (iii) Nghề nghiệp; và (iiii)
Hiểu biết chưa đầy đủ về HIV.
4. KẾT LUẬN
Nhìn chung, nhận thức đúng toàn diện về HIV của người dân cộng đồng còn khá
khiêm tốn. Nữ giới có kiến thức đúng về HIV cao hơn nam giới. Trong đó, quan niệm sai
lầm về đường lây và cách phòng tránh của người dân còn cao. Đặc biệt, người dân cộng
đồng chưa biết thông tin chung về điều trị kháng vi rút ART. Khi người dân hiểu xu
hướng hiện nay, điều trị ART cho người nhiễm HIV là dự phòng lây nhiễm HIV, thì sẽ
làm cho họ bớt lo sợ và giảm sự kỳ thị cộng đồng.
Nghiên cứu cho thấy rằng thái độ kỳ thị của người dân cộng đồng đối với trẻ em
bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS vẫn còn rất cao, đặc biệt, đối với các tình huống liên quan
trực tiếp đến con, cháu của họ thì sự kỳ thị lại càng thể hiện rõ hơn. Định kiến của người
dân cộng đồng đối với người có HIV còn khá nặng nề. Nhưng, nhầm lẫn về HIV và định
kiến gán nhãn người có HIV với “các tệ nạn xã hội” lại không có mối tương tác với thái
độ kỳ thị của người dân. Kiểm định phản ảnh rằng bốn nhân tố tác động đến thái độ kỳ
thị của người dân là: (i) Giới tính; (ii) Học vấn, (iii) Nghề nghiệp, và (iiii) Hiểu biết chưa
đầy đủ về HIV.
Kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần tác động đến những nhà hoạch định chính
sách, những người thực hiện chương trình, quản lý Nhà nước, truyền thông đại chúng và
những người làm việc trong lãnh vực HIV/AIDS cần phải tiếp tục đẩy mạnh hoạt động
truyền thông nâng cao nhận thức người dân về HIV/AIDS bao gồm thông tin mới như lợi
ích điều trị sớm, điều trị ART là dự phòng lây nhiễm HIV để cho người dân không còn
lo sợ quá mức và giảm thái độ kỳ thị với người có HIV và trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Howard, S. (1963). Outsiders: Studies in the sociology of deviance. New York, USA:
Free Press.
Lưu, B. N. (2010). Gia đình Việt Nam đối mặt với HIV/AIDS: Các thái độ kỳ thị (nghiên
cứu đối chứng ở Hạ Long, Việt Nam). Bài báo được trình bày tại Hội nghị Khoa
học quốc gia Phòng chống HIV/AIDS lần thứ IV, Việt Nam.
Nguyễn, A. D., Nguyễn, H. T., & Phạm, T. T. (2014). Đánh giá kiến thức thái độ hành vi
về HIV/AIDS trên phụ nữ mang thai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bài báo được
trình bày tại Hội nghị Khoa học quốc gia Phòng chống HIV/AIDS lần thứ VI,
2015.
Võ Hoàng Sơn
21
Nguyễn, M. H., & Trần, H. T. (2011). Thái độ của thanh thiếu niên Việt Nam về hôn nhân
gia đình. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, (4), 3-14.
Rebeca, K. R., Vũ, H. X., & Nguyễn, G. T. (2011). Báo cáo phân tích tình hình trẻ em
năm 2010. New York, USA: UNICEF.
Tổng cục Thống kê. (2015). Điều tra đánh giá các mục tiêu phụ nữ, trẻ em năm 2014. Hà
Nội, Việt Nam: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Tổ chức Lao động Quốc tế tại Việt Nam. (2004). Giảm thiểu kỳ thị, phân biệt đối xử ở
nơi làm việc. Hà Nội, Việt Nam: Tổ chức Lao động Quốc tế.
UNAIDS. (2010). Getting to zero (2011-2015 strategy joint united nations programme
in HIV/AIDS). Genève, Switzerland: UNAIDS.
UNAIDS. (2015). UNAIDS terminology guidelines. Genève, Switzerland: UNAIDS.
Ủy ban Quốc gia Phòng chống HIV/AIDS, ma túy, mại dâm. (2012). Chiến lược quốc
gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Hà Nội, Việt Nam:
Ủy ban Quốc gia Phòng chống HIV/AIDS, ma túy, mại dâm.
VNP+ (2012). Nghiên cứu về chỉ số đánh giá mức độ kỳ thị người có H tại Việt Nam. Hà
Nội, Việt Nam: Mạng lưới quốc gia những người sống với HIV/AIDS của Việt
Nam.
Võ, H. S. (2014). Kỳ thị đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS: Nghiên cứu tại Quận
8 và Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. (Luận án Tiến sĩ), Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học Xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_thuc_ve_hivaids_va_thai_do_ky_thi_cua_nguoi_dan_cong_do.pdf