Nhận xét bước đầu về hiệu quả cây thông nòng cải tiến trong đặt ống nội khí quản khó
Mức độ tiện lợi của các phiên bản (bảng
2)
Do chưa thực sự giải quyết được vấn đề kỹ
thuật vì cây thông nòng được làm thủ công nên
phiên bản I và II chưa đủ độ vững chắc, vì vậy
tuy có nhiều chức năng hơn nhưng ít được sử
dụng hơn. Phiên bản III gọn, dễ làm, dễ sử dụng
và tiện lợi hơn nên được sử dụng nhiều hơn hai
phiên bản còn lại.
Tai biến, biến chứng (bảng 3)
16 trường hợp sử dụng CTN thường trước
khi sử dụng CTN cải tiến đều gây ra tai biến đặc
biệt là giảm SpO2. Nguyên nhân của các biến
chứng là do khi gặp tình huống khó đặt ống
NKQ, người đặt ống có xu hướng dùng sức
mạnh, tì lưỡi đèn soi thanh quản vào cung răng,
ép đầu lưỡi đèn về phía trước họng hầu để cố
gắng quan sát thanh môn nên gây gãy răng,
sang chấn họng hầu gây tăng tiết, chảy máu. Các
trường hợp này khó thông khí nên cung cấp Oxy
hạn chế, thời gian thông khí kém hiệu quả kéo
dài dẫn tới SpO2 giảm.
Khi sử dụng cây thông nòng cải tiến chúng
tôi ít sử dụng sức mạnh và không cần phải cố
gắng nhìn thấy thanh môn vẫn đặt được ống
NKQ nên hạn chế sang chấn. Mặt khác, việc đặt
ống khá dễ dàng và nhanh nên thời gian không
thông khí ngắn, nhờ đó tránh được nguy cơ
thiếu Oxy.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét bước đầu về hiệu quả cây thông nòng cải tiến trong đặt ống nội khí quản khó, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 1
NHẬN XÉT BƯỚC ĐẦU VỀ HIỆU QUẢ CÂY THÔNG NÒNG CẢI TIẾN
TRONG ĐẶT ỐNG NỘI KHÍ QUẢN KHÓ
Trần Viết Vinh*, Hà Thúc Thọ*, Phùng Văn Việt*, Nguyễn Ngọc Huy*
TÓM TẮT
Mở đầu: Đặt ống nội khí quản khó luôn là tình huống lâm sàng khẩn cấp. Tỉ lệ đặt ống nội khí quản
khó chiếm khoảng 0,5%-5% các trường hợp đặt ống nội khí quản. Tỉ lệ thất bại khoảng 3,5%, tỉ lệ tử vong
do không đặt được ống nội khí quản chiếm khoảng 5,9% các trường hợp tử vong do gây mê.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của cây thông nòng cải tiến trong đặt ống nội khí quản khó.
Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả. Đối tượng là các bệnh nhân được gây mê nội khí quản
nhưng thất bại khi đặt ống nội khí quản với cây thông nòng thường hoặc được dự đoán đặt ống nội khí quản
khó.
Kết quả: 26/26 trường hợp đặt ống nội khí quản thành công với cây thông nòng cải tiến, trong đó có 16
trường hợp thất bại với cây thông nòng thường, 10 trường hợp được lựa chọn đặt ống nội khí quản với cây
thông nòng cải tiến. 24 trường hợp đặt ống dưới gây mê, 2 trường hợp đặt ống dưới gây tê tại chỗ. Thời
gian trung bình đặt ống nội khí quản với cây thông cải tiến là 1,5 phút, với cây thông nòng thường là 6,5
phút. Số lần đặt trung bình với cây thông nòng cải tiến là 1,1 lần, với cây thông nòng thường là 2,3 lần.
Không ghi nhận các tai biến, biến chứng khi sử dụng cây thông nòng cải tiến.
Kết luận: cây thông nòng cải tiến có hiệu quả và hữu ích trong lâm sàng.
ABSTRACT
INITIAL REMARKS ON EFFICACY OF IMPROVED STYLET
IN DIFFICULT ENDOTRACHEAL INTUBATION
Tran Viet Vinh, Ha Thuc Tho, Phung Van Viet, Nguyen Ngoc Huy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 – 2008: 72 - 77
Background:The difficult endotracheal intubation is an emergency situation in clinic. The rate of the
difficult endotracheal intubation is about 0.5-5% of endotracheal intubations. The failed intubation rate is
3.5% of difficult endotracheal intubations. The mortality rate causing by failed intubation is about 5.9% of
mortalities of anesthesia.
Objective:- To evaluate the efficacy of improved stylet in resolving situation of difficult endotracheal
intubation.
Methods: - Prospective, descriptive study. - Patients underwent endotracheal anesthesia with failed
intubation by normal stylet or predicted difficult endotracheal intubation were chosen.
Results: - 26/26 successful cases of endotracheal intubation by improved stylet in patients with difficult
endotracheal intubation, among them 16 cases could not been intubated by normal stylet and 10 cases were
chosen to intubate by improved stylet. 24 cases were intubated under general anesthesia and 2 cases were
intubated under local anesthesia. Mean time to intubate with improved stylet was 1.5 minute and with
normal one was 6.5 minute. Mean effort was 1.1 with improved stylet and was 2.3 with normal stylet. No
complications were seen in use of improved mandrin.
Conclusion: The improved stylet that we had created is very efficient and useful in clinic.
* Bệnh viện 175
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đặt ống nội khí quản khó luôn là tình huống
lâm sàng khó khăn, cấp bách, đòi hỏi người gây
mê hồi sức phải xử trí nhanh chóng, kịp thời
tránh nguy cơ thiếu Oxy đe doạ tính mạng bệnh
nhân. Tỉ lệ đặt ống nội khí quản khó chiếm
khoảng 0,5 - 5% tuỳ tác giả. Tỉ lệ thất bại hoàn
toàn khi đặt ống NKQ khó chiếm khoảng 3,5%
các trường hợp đặt ống NKQ. Tỉ lệ tử vong do
không đặt được ống NKQ chiếm khoảng 5,9%
các trường hợp tử vong do gây mê. Để giải
quyết tình huống này nhiều dụng cụ, phương
tiện hỗ trợ đã được sáng chế và sử dụng. Nhưng
ngoài cây thông nòng thường thì các dụng cụ
khác đều đắt tiền và chưa tiện lợi nên chưa được
sử dụng rộng rãi ở Việt Nam.
Qua thực tiễn lâm sàng chúng tôi nghiên
cứu, cải tiến cây thông nòng nhằm góp phần
khắc phục các trường hợp đặt ống NKQ khó
trong Gây mê và Hồi sức cấp cứu. Đề tài này
tổng hợp và sơ bộ đánh giá hiệu quả sử dụng
cây thông nòng cải tiến.
ĐÁNH GIÁ ĐẶT ỐNG NỘI KHÍ QUẢN KHÓ -
CẤU TẠO CÂY THÔNG NÒNG CẢI TIẾN
Đánh giá đặt ống nội khí quản khó
Có nhiều cách đánh giá đặt ống NKQ khó, ở
đây chúng tôi sử dụng phân độ của Cormack và
Lehane vì liên quan trực tiếp tới kỹ thuật đặt ống
NKQ khó với CTN cải tiến:
- Độ I (Cormack I): Nhìn thấy toàn bộ
thanh môn.
- Độ II (Cormack II): Nhìn thấy phần sau
thanh môn.
- Độ III (Cormack III): Chỉ nhìn thấy sụn nắp
thanh quản, không nhìn thấy thanh môn.
- Độ IV (Cormack IV): Không nhìn thấy cả
sụn nắp thanh quản.
Cormack III và IV được coi là các trường
hợp khó.
Cấu tạo của cây thông nòng cải tiến
Dựa trên hình dáng, kích thước của cây
thông nòng thường, có sự cải tiến để khắc phục
nhược điểm của nó và thêm chức năng cho cây
thông nòng.
* Cây thông nòng thường: là 1 cây kim loại dẻo,
có độ cứng cần thiết để uốn ống NKQ theo độ
cong mong muốn. Khi được luồn vào ống NKQ
thì đầu CTN không được thò ra ngoài ống. Đây là
điểm khác biệt quan trọng so với CTN cải tiến.
* Cây thông nòng cải tiến: Ống nhựa rỗng có
lõi bằng kim loại. Lõi gồm 2 phần: phần cứng
dài khoảng 40 cm, có độ cứng tương đương với
cây thông nòng thường, phần mềm nằm ở đầu
xa (phía bệnh nhân) dài 10 cm có tác dụng dẫn
đường, phần mềm không quá cứng để tránh
thủng khí quản, không quá mềm tránh bị gập,
lõi có tác dụng định hướng ống và dẫn điện,
quấn quanh lõi là một dây dẫn điện có đường
kính nhỏ (có thể sản xuất vỏ nhựa đủ cứng để
thay thế cho lõi của cây thông nòng). Ở đầu xa
có bóng đèn nhỏ được cung cấp bởi nguồn điện
3 vôn (nguồn được gắn vào đầu gần). Đầu gần
có cành ngang thông với bên ngoài, là nơi cung
cấp Oxy, bơm thuốc tê và nối với máy hút. Đầu
xa được đục lỗ để Oxy thuốc tê thoát ra ngoài và
đờm dãi đi vào khi hút. Đường kính ngoài cây
thông nòng khoảng 0,6 cm, đường kính trong
khoảng 0,4 cm, dài 50-60 cm (tính cả nguồn
điện). Đầu xa được bịt kín bằng nhựa để tránh
rơi bóng đèn vào khí quản.
Hình 1: Cấu tạo cây thông nòng cải tiến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 3
Hình 2: Phiên bản I
Hình 3: Phiên bản II
Hình 4: Phiên bản III
Có 3 phiên bản khác nhau của CTN.
Phiên bản I
Có cấu tạo như mô tả ở trên. Chức năng: dẫn
đường, định vị ống NKQ, bơm thuốc tê, cung
cấp Oxy, ánh sáng, hút đờm dãi.
Phiên bản II
Bỏ cành ngang và lỗ thông với bên ngoài.
Chức năng: dẫn đường, định vị ống NKQ, cung
cấp ánh sáng.
Phiên bản III
Bỏ luôn bóng đèn, chỉ còn lại lõi có đoạn
mềm. Chức năng: dẫn đường.
Sau mỗi lần sử dụng, CTN được ngâm khử
trùng sau đó được rửa bằng nước vô khuẩn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên có chỉ định phẫu
thuật dưới gây mê NKQ, dự kiến đặt ống NKQ
khó hoặc thất bại khi đặt ống nội khí quản với
cây thông nòng thường.
Phương pháp nghiên cứu
- Tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng, mô tả
cắt ngang.
Kỹ thuật đặt ống nội khí quản bằng cây
thông nòng cải tiến
Dụng cụ, phương tiện
Tương tự khi đặt ống NKQ thông thường, có
thêm CTN cải tiến.
Thực hiện kỹ thuật
- Đưa cây thông nòng vào trong ống NKQ,
để đầu xa cây thông nòng lòi ra ngoài đầu ống
NKQ khoảng 8 cm.
- Dẫn mê hoặc xịt thuốc tê vào họng hầu,
thanh, khí quản tuỳ trường hợp.
- Dùng đèn soi thanh quản để quan sát thanh
môn (trong các trường hợp khó thường không
nhìn thấy thanh môn).
- Luồn cây thông nòng trượt phía sau sụn
nắp thanh quản, kiểm tra ánh sáng phản chiếu
lên phía trước khí quản, nếu thấy bóng đèn phản
chiếu lên phía dưới sụn nhẫn là được. Lúc CTN
đi vào khí quản sẽ có cảm giác “hẫng tay” và
bệnh nhân ho nếu đặt ống dưới gây tê. Với
phiên bản III, vì không có bóng đèn nên phải
dựa vào cảm giác “hẫng tay” và phản xạ ho để
xác định vị trí CTN.
- Đẩy ống NKQ và cây thông nòng vào sâu
trong khí quản.
- Rút cây thông nòng, kiểm tra vị trí ống NKQ.
- Cố định ống và kết thúc kỹ thuật.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 4
Hình 5: Ống NKQ được luồn vào CTN
Hình 6: Ánh đèn phản chiếu trước khí quản cải tiến
KẾT QUẢ
- Từ 5/2004 đến 8/2007: tại phòng mổ bệnh
viện 175 chúng tôi đã đặt ống NKQ với CTN cải
tiến cho 26 trường hợp (20 nam, 6 nữ, tuổi 37-72)
trong đó có 3 trường hợp sẹo co kéo cằm cổ, 2
trường hợp chấn thương cột sống cổ nặng.
- 16 trường hợp thất bại với CTN thường (gồm
14 tr.hợp Cormack III, 2 tr.hợp Cormack IV).
- 10 trường hợp chủ động dùng CTN cải tiến
(gồm 8 tr.hợp Cormack III, 2 tr.hợp Cormack IV).
- 9 trường hợp đặt ống NKQ với thuốc mê
Thiopental, thuốc dãn cơ Succinylcholine.
- 15 trường hợp đặt ống NKQ với thuốc mê
Propofol, thuốc dãn cơ Esmeron.
- 2 trường hợp đặt ống NKQ dưới gây tê.
- Thời gian đặt ống NKQ trung bình với CTN
thường là 6,5 phút (5 phút -14 phút) với CTN cải
tiến là 1,5 phút (15 giây- 12 phút). Thời gian đặt
ống NKQ được tính từ lúc mở miệng đưa lưỡi đèn
soi thanh quản vào quan sát lần đầu tiên cho tới
khi kiểm tra và chắc chắn ống NKQ đã nằm trong
khí quản ở lần đặt cuối cùng. Mỗi trường hợp
được sử dụng một phiên bản.
Bảng 1: Số lần đặt ống NKQ và kết quả
Số lần
Kỹ thuật
1
lần
2
lần
3
lần
4
lần
Thành
công
Thất
bại
Tổng số
tr. hợp
Với CTN thường - 10 4 2 0/16 16/16 16
Với CTN cải tiến 24 1 1 - 26/26 0/26 26
Bảng 2: Số lần sử dụng các phiên bản
Phiên bản I II III Tổng
Số tr.hợp 4 6 16 26
Bảng 3: Tai biến, biến chứng
Tai biến,
B /chứng
Kỹ thuật
Chảy
máu
Gãy
răng
Đau
họng
sau mổ
Giảm
SpO2
Tai biến,
biến chứng
khác
Với CTN
thường
16/16 3/16 16/16 4 Không
Với CTN cải
tiến
Không Không Không Không Không
2 trường hợp SpO2 giảm tới 85%, 2 trường
hợp SpO2 giảm tới 80%.
BÀN LUẬN
Hiệu quả của CTN cải tiến
Kết quả bảng 1 cho thấy hiệu quả của CTN
cải tiến cao hơn hẳn CTN thường.
Trong các trường hợp khó đặt ống NKQ,
cung răng và khí quản di chuyển về phía trước,
còn lưỡi di chuyển về phía sau. Sự di chuyển
ngược chiều này ngăn cản tầm nhìn của người
đặt ống. Nguyên nhân trực tiếp gây thất bại là
ống NKQ không thể vượt qua được thanh môn
vào khí quản nên trượt ra sau và chui vào thực
quản. Cây thông nòng thường ít có khả năng giúp
giải quyết tình huống này.
Nhờ có đoạn mềm dẫn đường và với đường
kính nhỏ, CTN cải tiến dễ dàng vượt qua thanh
môn vào khí quản. Khi đã ở trong khí quản nó
định hướng và buộc ống NKQ phải đi theo vào
khí quản. Vì vậy, đã khắc phục được nguyên
nhân trực tiếp gây thất bại khi đặt ống NKQ với
CTN thường.
Trường hợp đặt 2 lần là do lúc đầu ít kinh
nghiệm. Trường hợp đặt 3 lần là do bệnh nhân
có sẹo cằm cổ dày, co kéo mạnh, phải đặt ống
dưới gây tê nhưng không tìm được khí quản và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 5
thanh môn để bơm thuốc tê. Trong quá trình đặt
ống bệnh nhân khó chịu và khó hợp tác. Phối hợp
thiếu đồng bộ giữa người đặt ống và người phụ.
Mức độ tiện lợi của các phiên bản (bảng
2)
Do chưa thực sự giải quyết được vấn đề kỹ
thuật vì cây thông nòng được làm thủ công nên
phiên bản I và II chưa đủ độ vững chắc, vì vậy
tuy có nhiều chức năng hơn nhưng ít được sử
dụng hơn. Phiên bản III gọn, dễ làm, dễ sử dụng
và tiện lợi hơn nên được sử dụng nhiều hơn hai
phiên bản còn lại.
Tai biến, biến chứng (bảng 3)
16 trường hợp sử dụng CTN thường trước
khi sử dụng CTN cải tiến đều gây ra tai biến đặc
biệt là giảm SpO2. Nguyên nhân của các biến
chứng là do khi gặp tình huống khó đặt ống
NKQ, người đặt ống có xu hướng dùng sức
mạnh, tì lưỡi đèn soi thanh quản vào cung răng,
ép đầu lưỡi đèn về phía trước họng hầu để cố
gắng quan sát thanh môn nên gây gãy răng,
sang chấn họng hầu gây tăng tiết, chảy máu. Các
trường hợp này khó thông khí nên cung cấp Oxy
hạn chế, thời gian thông khí kém hiệu quả kéo
dài dẫn tới SpO2 giảm.
Khi sử dụng cây thông nòng cải tiến chúng
tôi ít sử dụng sức mạnh và không cần phải cố
gắng nhìn thấy thanh môn vẫn đặt được ống
NKQ nên hạn chế sang chấn. Mặt khác, việc đặt
ống khá dễ dàng và nhanh nên thời gian không
thông khí ngắn, nhờ đó tránh được nguy cơ
thiếu Oxy.
KẾT LUẬN
Với 26/26 (100%) trường hợp đặt ống NKQ
khó thành công khá dễ dàng không để lại tai
biến, biến chứng chúng tôi cho rằng cây thông
nòng mà chúng tôi đã cải tiến có hiệu quả cao,
giúp giải quyết tình huống thường gây lo lắng
cho người làm công tác gây mê hồi sức.
- Rút ngắn thời gian đặt ống NKQ khó.
- Rẻ tiền, tiện lợi (nhất là phiên bản 3) có thể
phổ biến tới mọi cơ sở gây mê, hồi sức cấp cứu.
* Nhược điểm
- Trong điều kiện ban ngày, ánh đèn quá sáng
hoặc mô trước khí quản bệnh nhân quá dày sẽ làm
lu mờ ánh sáng phản chiếu qua khí quản.
- Chỉ hiệu quả đối với các trường hợp đặt
ống NKQ thông thường qua đường miệng.
Hình 7-8: 2 trường hợp Cormack IV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cormack R.S., Lehane J. (1984). “Difficult tracheal
intubation in obstetrics”, Anaesthesia, 39, pp.1105-11.
2. Frédéric A. et al (2003). “Airway management in adult
scheduled anaesthesia”, Annales francaises d’Anesthésie et de
Réanimation, 22,pp.60-65.
3. Bishop M.J., Tchaoussouf J. (2000). “Trucs et astuces de
l’intubation trache’ale: Le biseau de la sonde”, Anesthesiol,
48, pp.99-103.
4. Saravan K. (2005). “Failed intubation in obstetrics has the
incidence changed recently? ”. British Journal of Anesthesia,
94 (5), p. 690.
5. Jacobs L.M., Bennett B., et al (1983). “Endotracheal
intubation in the prehospital phase of emergency medical
care”. British Journal of Anesthesia, 250 (16), pp 2175-2177.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 6
6. Fakhry S.M, Scalon J.M. (2006) “Prehospital rapid
sequence intubation for head trauma: conditions for a
successful program”. J Trauma, May (5), pp. 997-1001.
7. Nguyễn Ngọc Anh và cs (2004). “Nhận xét qua 10 trường
hợp đặt ống NKQ khó bằng mandrin Eishman tại phòng
mổ bệnh viện nhân dân 115”,Tài liệu báo cáo sinh hoạt khoa
học hàng năm chuyên đề Gây mê hồi sức, tr.11-13.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Gây Mê Hồi Sức 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_xet_buoc_dau_ve_hieu_qua_cay_thong_nong_cai_tien_trong.pdf