Nhận xét hiệu quả của thở áp lực dương liên tục qua mũi trong điều trị suy hô hấp sơ sinh

Suy hô hấp ở trẻ sơ sinh Việt Nam cũng xuất hiện sớm. Nghiên cứu của Phạm Thị Thanh Tâm cho thấy 60% trẻ có biểu hiện lâm sàng trước 24 giờ tuổi 93% suy hô hấp do bệnh lý hô hấp, 1/3 trường hợp có nhiễm trùng. Trong nghiên cứu của chúng tôi ngày tuổi khởi bệnh có tỉ lệ thành công với thở NCPAP ở nhóm trẻ dưới 7 ngày 93/122 (78,81%) và trên 14 ngày tuổi 17/12 (85%) Về nguyên nhân suy hô hấp, tỉ lệ thành công thở NCPAP cao theo thứ tự viêm phổi nặng (95,9%), viêm phổi hít phân su (85,7%), bệnh phối hợp (nhiễm trùng huyết, vàng da, dị tật đi kèm với bệnh nền hô hấp) (80%) và bệnh màng trong (69,2%). Riêng cơn khó thở nhanh thoáng mặc dù cũng chiếm tỉ lệ cao nhưng chỉ chiếm 2 trong 150 trẻ sơ sinh suy hô hấp, do đó không nói được thành công. Điều này chứng tỏ trẻ bị suy hô hấp do bệnh lý nội khoa và trẻ non tháng ngày càng nhiều hơn. Vì bệnh màng trong là bệnh xảy ra sau khi khởi phát thở ở trẻ sơ sinh bị thiếu surfactant ở phổi, mà ở trẻ non tháng nhiều phế nang bị xẹp do thiếu surfactant gây suy hô hấp. Sở dĩ có sự khác biệt này do chúng tôi sử dụng surfactant sớm và điều trị phối hợp với thở NCPAP cho bệnh màng trong. Kết quả ghi nhận suy hô hấp nhẹ (26,7%) chiếm gần bằng ½ suy hô hấp nặng (73,3%), trong khi đó tỉ lệ thành công thở NCPAP ở nhóm suy hô hấp nặng chỉ chiếm 77,3% và ở nhóm suy hô hấp nhẹ chiếm tới 92,5%. Điều đó chứng tỏ hiệu quả của NCPAP tốt, cải thiện tình trạng suy hô hấp nhẹ đã thất bại với liệu pháp oxy thông thường.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 180 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét hiệu quả của thở áp lực dương liên tục qua mũi trong điều trị suy hô hấp sơ sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 1 NHẬN XÉT HIỆU QUẢ CỦA THỞ ÁP LỰC DƯƠNG LIÊN TỤC QUA MŨI TRONG ĐIỀU TRỊ SUY HÔ HẤP SƠ SINH Lê Thái Thiên Trinh *, Lâm Thị Mỹ** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tỉ lệ thành công và biến chứng của thở NCPAP trong điều trị suy hô hấp sơ sinh. Đối tượng và phương pháp:Mô tả hàng loạt ca, trong thời gian 7 tháng (11/2006 – 06/2007), chúng tôi khảo sát 150 trẻ sơ sinh suy hô hấp được điều trị bằng biện pháp thở áp lực dương liên tục qua mũi (NCPAP) với van Benveniste và cannula hai mũi tại bệnh viện Nhi Đồng 1 và Nhi Đồng 2. Kết quả: Các bệnh lý nội khoa chiếm tỉ lệ 86,7% gồm: viêm phổi, viêm phổi hít phân su, bệnh màng trong và cơn khó thở nhanh thoáng qua. Có 122 trường hợp được điều trị thành công với NCPAP. Không có trường hợp nào tử vong. Sau 1 giờ thở NCPAP có đáp ứng tốt trẻ bớt kích thích, nhịp thở giảm (p < 0,05), trị số SpO2 tăng từ 87,5+ 6,7% lên 95,3 + 3,3% (p < 0,005) và khí máu cải thiện PaO2 tăng từ 77 + 39,3 mmHg lên 100 + 39,8 mmHg (p < 0,005); PaO2/FiO2 tăng từ 142,8 + 94 lên 180 + 91 (p < 0,005) và PaCO2 từ 48 + 16,9 giảm xuống còn 40 + 13,5 mmHg (p < 0,005). Biến chứng thường gặp, chỉ có 1 trường hợp tràn khí màng phổi, 6 trường hợp chướng bụng và 8 trường hợp loét mũi. Kết luận: NCPAP là kỹ thuật học thích hợp vì dễ áp dụng, không xâm lấn, giá thành rẻ và có hiệu quả cao. ABSTRACT TO COMMENT ON NASAL CONTINUOUS POSITIVE AIRWAY PRESSURE EFFICACY IN THE TREATMENT OF NEONATAL RESPIRATORY FAILURE Le Thai Thien Trinh, Lam Thi My * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 114 - 119 Objectives: Identify the succesfull and complicaton of nasal continuous positive airway pressure (NCPAP) in the treatment of neonatal respiratory failure. Patients and method: Case series, prospective. During seven months (11/2006 – 06/2007), we evaluated 150 cases of neonatal respiratory distress were treated with binasal continuous positive airway pressure (NCPAP) using Benvenite’s valves at Children’s Hospital No1 and No2. Results: The rate of disease was 86.7%, such as pneumonia, meconium aspiration syndrome, respiratory distress syndrome, fugitive breathe rapidly dyspnea attack. One hundred and twenty two were successfully treated. There was no death. After one hour of application of NCPAP, there were well responses of clinical presentations as low agitation, decrease in respiratory rate (p < 0.05) with increase in SpO2 levels from 87.5+ 67% to 95.3+ 3.3% (p < 0.005) and improvement in blood gas: increase in PaO2 from 77 + 39.3 mmHg to 100 + 39.8 mmHg (p < 0,005) and increase in PaO2/FiO2 from 142.8 + 94 to 180 + 91 (p < 0.005), decrease in PaCO2 from 48 + 16.9 mmHg to 40 + 13.5 (p < 0.005). Common complications were one case with pneumothorax, six cases with abdominal miasma and eight cases with ulceration of nose. Conclusion, NCPAP is an appropriate technique for treatment of neonatal respiratory distress, depend on easily using, noninvasive, low cost and high effect. * Khoa Nhi, Bệnh viện Đa Khoa Trung Tâm An Giang ** Bộ Môn Nhi, Đại Học Y Dược TP.HCM Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 2 ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, suy hô hấp vẫn là là hội chứng thường gặp nhất và cũng là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng đầu trong giai đoạn sơ sinh. Thở áp lực dương liên tục (CPAP) là kiểu thở trợ giúp cho bệnh nhân còn tự thở được, là một phương pháp điều trị suy hô hấp sơ sinh đơn giản, không xâm lấn. Ở thành phố Hồ Chí Minh chưa có nghiên cứu nào đề cập rõ đến chỉ số oxy hóa máu (PaO2/ FiO2) và áp dụng áp lực ban đầu của NCPAP là 5 - 6 cmH2O trong điều trị suy hô hấp sơ sinh bằng van Benveniste. Chính tầm quan trọng về bệnh tật và tử vong của suy hô hấp sơ sinh, nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm khảo sát hiệu quả của thở NCPAP trong điều trị suy hô hấp sơ sinh, góp phần nâng cao chất lượng điều trị và giảm tỉ lệ tử vong. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỉ lệ thành công và biến chứng của thở NCPAP trong điều trị suy hô hấp sơ sinh tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 và Nhi Đồng 2 ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Tiền cứu, mô tả hàng loạt ca. Đối tượng nghiên cứu Tất cả trẻ sơ sinh bị suy hô hấp được điều trị tại khoa Hồi sức sơ sinh, khoa Sơ sinh của bệnh viện Nhi Đồng 1 và khoa Sơ sinh của bệnh viện Nhi Đồng 2 bằng thở NCPAP, từ tháng 11/2006 đến tháng 06/2007. Tiêu chuẩn chọn vào Trẻ sơ sinh < 30 ngày tuổi, nhập viện vì suy hô hấp do bệnh lý nội khoa, còn tự thở, có một hay hai tiêu chuẩn sau đây: - Suy hô hấp do các bệnh lý: viêm phổi, xẹp phổi, hội chứng hít ối phân su, bệnh màng trong; do cơn khó thở nhanh thoáng qua; cơn ngưng thở nặng; phù phổi, thất bại khi thở oxy qua mũi với FiO2 > 40% hoặc SpO2 < 90% hoặc PaO2 < 50mmHg. - Tất cả các trẻ < 30 tuần tuổi hoặc có cân nặng lúc sinh < 1500g còn thở nhanh với thở oxy FiO2 = 40%. Tiêu chuẩn loại trừ - Tràn khí màng phổi chưa được dẫn lưu. - Trẻ bị tim bẩm sinh. - Suy hô hấp do nguyên nhân thần kinh trung ương (xuất huyết não, viêm màng não, ngạt, vàng da nhân, thuốc Morphin ). - Đang sốc. - PaCO2 > 65 mmHg. Thu thập số liệu Phương pháp tác động Hỗ trợ hô hấp bằng thở NCPAP với van Benveniste và cannula qua mũi bệnh nhân. Bắt đầu điều trị NCPAP ở áp lực 5 -6 cmH2O, áp lực thấp dùng cho trẻ nhẹ cân, tỉ lệ oxy hít vào là FiO2 = 41 – 100% tùy theo mức độ suy hô hấp. Nếu bệnh nhi tím tái nhiều thì bắt đầu với FiO2= 100% để nhanh chóng đưa bệnh ra khỏi tình trạng suy hô hấp nặng, thiếu oxy máu nặng, sau đó áp lực CPAP và FiO2 sẽ được điều chỉnh tùy theo đáp ứng lâm sàng và SpO2 sao cho áp lực không quá 8 cmH2O và FiO2 ≤ 60%. Thở oxy 100% trong thời gian ngắn trong vòng 4 giờ không sợ nguy cơ tai biến do ngộ độc oxy. Khi tình trạng suy hô hấp tương đối ổn, mỗi 30 – 60 phút chúng tôi giảm dần FiO2 mỗi 10% và sau đó là giảm áp lực CPAP mỗi 1 cmH2O. Chúng tôi ngưng NCPAP khi bệnh nhân ổn định trong 12 – 24 giờ với áp lực 4 cmH2O và FiO2 = 21%. Đánh giá điều trị Tính hiệu quả Sau một giờ thở NCPAP, tình trạng bệnh nhi được cải thiện hơn: Lâm sàng Tỉnh, hết tím, SpO2 > 90%, nhịp thở giảm hoặc giảm co kéo các cơ hô hấp phụ, hoặc giảm thở rên, hoặc giảm phập phồng cánh mũi. Khí máu cải thiện oxy hóa máu Tỉ lệ PaO2 / FiO2 tăng, PaCO2 giảm. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 3 Thành công Khi đạt được một trong ba mức độ sau: + Mức độ 1 Bệnnh nhi có đáp ứng ở ngưỡng áp lực ban đầu của thở NCPAP = 5 - 6 cmH2O, FiO2 = 40% - 60%. + Mức độ 2 Đáp ứng ở ngưỡng Sau khi đã thở NCPAP áp lực ban đầu của thở NCPAP > 6-8 cmH2O, FiO2 = 60% - 100%. + Mức độ 3 Bệnh nhi tím nhiều thì bắt đầu với FiO2 = 100% trong vòng 4 giờ để nhanh chóng đưa bệnh ra khỏi tình trạng suy hô hấp nặng, thiếu oxy máu nặng, theo dõi sát lâm sàng và SpO2 để giảm FiO2 dần dần. Thất bại Khi có một trong hai tiêu chuẩn sau: - Khi đang thở NCPAP với áp lực = 8 cmH2O và FiO2 = 100%, bệnh nhi còn tím tái, SpO2 <90% và/hoặc PaO260mmHg - Khi đang thở NCPAP với áp lực = 8 cmH2O và FiO2 = 100%, bệnh nhi có cơn ngưng thở nặng (cơn ngưng thở kéo dài > 20 giây hoặc trên 3 lần trong một giờ hoặc cơn ngưng thở < 20 giây và nhịp tim < 100 lần/phút). Trẻ thất bại với NCPAP sẽ được đặt nội khí quản và thở máy. Biến chứng Khi có một trong những biểu hiện sau đây: - Loét mũi - Tràn khí màng phổi - Phù mặt - Chướng bụng . Phân tích số liệu Phân tích bằng phần mềm SPSS 12.0 với giá trị p< 0,05 dùng để xác định mức có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ Trong thời gian 7 tháng (11/2006 đến 06/2007), tổng cộng có 150 trẻ sơ sinh suy hô hấp được điều trị NCPAP. Bảng 1: Đặc điểm bịnh nhi (n = 150) Đặc điểm N (%) Nam 96 (64%) Giới tính Nữ 54 (36%) Non tháng 102 (68%) Đủ tháng 45 (30%) Tuổi thai Già tháng 3 (2%) Rất nhẹ cân 35 (23%) Nhẹ cân 56 (37,7%) Cân nặng lúc sinh Không nhẹ cân 59 (39,3%) 1-7 ngày 118 (78,7%) 7-14 ngày 12 (8%) Ngày tuổi khởi bệnh > 14 ngày 20 (13,3%) Nơi sinh Trong bệnh viện Ngoài bệnh viện 145 (96,7%) 5 (3,3%) Nguyên nhân suy hô hấp Thường gặp chiếm 86,7%: như viêm phổi, viêm phổi hít phân su, bệnh màng trong và cơn khó thở nhanh thoáng qua. Tỉ lệ này phù hợp với y văn. Bảng 2: Nguyên nhân suy hô hấp Bệnh lý N = 150 N (%) 1. Viêm phổi nặng 49 (32,7) 2. Viêm phổi hít phân su 14 (9,3) 3. Bệnh màng trong 65 (43,3) 4. Cơn khó thở nhanh thoáng qua 2 (1,3) 5. Bệnh phối hợp  20 (13,3)  Bệnh phối hợp gồm: Nhiễm trùng huyết + dị tật bẩm sinh: 6 ca; Viêm phổi nặng + vàng da tăng bilirubin gián tiếp: 12 ca; Viêm phổi nặng + vàng da tăng bilirubin gián tiếp + dị tật bẩm sinh: 2 ca. Bảng 3: Đặc điểm lâm sàng shh, khí máu động mạch trước và sau 1giờ thở CPAP Yếu tố Trước NCPAP n = 64 Sau NCPAP n = 64 P Tri giác: Tỉnh - Lừ đừ hoặc bức rức 30 (46,9%) 34 (53,1%) 40 (62,5%) 24 (37,5%) 0,000 Nhịp thở 65,8 (16,5)  55,1(13,1)  0,0004 Thở co kéo nặng 58 (90,6%) 47/ (73,4%) 0,001 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 4 Yếu tố Trước NCPAP n = 64 Sau NCPAP n = 64 P SpO2 (%) 87,5 (6,7) 95,31(3,3)  0,000 pH/máu 7,2 (0,1)  7,3 (0,1)  0,000 PaO2/ máu (mmHg) 77 (39,3)  100 (39,8)  0,000 PaCO2/máu (mmHg) 48 (16,9)  40 (13,5)  0,000 PaO2/ FiO2 142,8 (94)  180 (91)  0,000  Kết quả trình bày: trung bình (độ lệch chuẩn) Bảng 4: Kết quả điều trị bằng thở NCPAP Đặc điễm Thành công Thất bại P Non tháng 78/102 (76,5%) 24/102 (3,5%) χ2, p = 0,043 Đủ tháng 42/ 45 (93,3%) 3/45 (6,67%) Tuổi thai Già tháng 2/3 (66,7%) 1/3 (33,3%) < 1000 g 2/122 (1,64%) 1/28 (3,6%) 1000 – 1499 g 25/122 (20,5%) 7/28 (25%) 1500 – 2499 g 41/122 (33,6%) 15/28 (53,6%) Cân nặng lúc sinh > 2500 g 54/122 (44,26%) 5/28 (17,8%) χ2, p = 0,101 1- < 7 93/118 (78,8%) 25/118 (21,2%) 7- 14 12/12 (100%) 0 Ngày tuổi (ngày) > 14 17/20 (85%) 3/20 (15%) χ2, p = 0,18 Viêm phổi nặng 47/49 (95,92%) 2/49 (4,08%) Viêm phổi hít phân su 12/14 (85,71%) 2/14 (14,29%) Bệnh Màng trong 45/65 (69,23%) 20/65 (30,8%) Bệnh lý Cơn khó thở nhanh thoáng qua 2/2 (100%) 0 χ2, p = 0,008 Bệnh phối hợp 16/20 (80%) 4/20 (20%) Mức độ suy hô hấp χ2, p = 0,034 Suy hô hấp nhẹ 37/40 (92,5%) 3/40 (7,5%) Suy hô hấp nặng 85/110 (77,3%) 25/110 (22,7%) Biến chứng của thở NCPAP Bảng 5: Biến chứng của thở NCPAP Biến chứng Tràn khí màng phổi Chướng bụng Loét mũi Số ca (Tỉ lệ %) 1 (0,7%) 6 (4%) 8 (5,3%) BÀN LUẬN Trong tổng số 150 trẻ sơ sinh suy hô hấp, trẻ nam có tần suất mắc bệnh gần gấp 2 lần (1,77/1) so với trẻ nữ, tỉ lệ này phù hợp với các nghiên cứu khác đã tiến hành trên trẻ sơ sinh suy hô hấp. Trong nghiên cứu, tỉ lệ trẻ đủ tháng (30%) xấp xỉ bằng ½ trẻ non tháng (68%), chỉ có 3 trẻ già tháng chiếm tỉ lệ thấp nhất 2%. Tỉ lệ trẻ non tháng cao hơn kết quả nghiên cứu của các tác giả trước, có thể một phần do chúng tôi khảo sát bệnh nhân suy hô hấp sơ sinh ở cả hai khoa: Hồi sức sơ sinh và Sơ sinh của bệnh viện Nhi Đồng 1 và khoa Sơ sinh của bệnh viện Nhi Đồng 2, một phần khác do tỉ lệ trẻ sinh non từ các tỉnh chuyển đến thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng dần. Hơn 2/3 trẻ khởi bệnh trong vòng 7 ngày đầu tiên chiếm 78,7%. Điều này cho thấy những ngày đầu sau sinh là giai đoạn thật sự khó khăn của trẻ, trẻ vừa phải thích nghi nhanh chóng, tự cung cấp dưỡng khí bằng hai lá phổi của mình để thích ứng với cuộc sống mới, vừa phải chống chọi với nhiều yếu tố nguy cơ nhất là vi trùng từ mẹ, trong cuộc sanh và cả môi trường bệnh viện, sự khác biệt này cho thấy cần phải phát hiện sớm và điều trị kịp thời các bệnh gây suy hô hấp sơ sinh. Có 96,7% trẻ được sinh trong bệnh viện, trong lô nghiên cứu chỉ có 3,3% trẻ được sinh ngoài bệnh viện (tại nhà, nhà hộ sinh tư...). Hiện tượng này có thể do nhiều nguyên nhân: người nhà lo lắng, con quí hiếm đòi hỏi sự chăm sóc cao hơn nên tự đến y tế tuyến trên. Có nhiều nguyên nhân gây suy hô hấp sơ sinh, trong lô nghiên cứu của chúng tôi bốn nguyên nhân suy hô hấp do bệnh lý nội khoa thường gặp chiếm 86,7%, tỉ lệ này cũng giống với y văn là 80%. Trong các nguyên nhân tại phổi, bệnh màng trong là gặp nhiều 43%, do trẻ non tháng ngay sau khi ra đời hoặc sau một thời gian thở bình thường, nhiều phế nang bị xẹp do thiếu surfactant gây suy hô hấp. So sánh giữa trước và sau 1giờ thở NCPAP các triệu chứng lâm sàng có cải thiện mang tính ý nghĩa thống kê là: tri giác, nhịp thở, thở co kéo nặng và SpO2. Đồng thời khí máu động mạch cũng cải thiện hơn như pH máu tăng nhưng còn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 5 giảm dưới mức bình thường, PaO2 tăng, tỉ lệ PaO2/ FiO2 tăng, PaCO2 giảm hơn, chứng tỏ NCPAP giúp tăng thông khí tốt với áp lực ban đầu là 5– 6 cmH2O (áp lực thấp cho trẻ nhẹ cân). Mục đích của NCPAP là cung cấp một áp lực dương liên tục cho đường hô hấp trên và phổi, áp lực này làm nở lại các phế nang bị xẹp, tăng thể tích phế nang, tăng dung tích cặn chức năng, làm tăng trao đổi khí, giảm shunt trong phổi, do đó cải thiện áp lực oxy máu động mạch. Trong 150 trường hợp có 122 ca điều trị thành công với thở NCPAP chiếm 81,33%, còn lại 28 ca thất bại chiếm 18,67% phải chuyển sang thở máy, không có trường hợp nào tử vong. Tỉ lệ thành công với thở NCPAP ở trẻ non tháng là 76,47% cao hơn các tác giả trước, vì trong nghiên cứu của chúng tôi có 68% bệnh nhân sơ sinh suy hô hấp là trẻ non tháng, và có lẽ do chúng tôi khảo sát bệnh nhân suy hô hấp ở cả hai khoa: Hồi sức sơ sinh, khoa Sơ sinh của cả hai bệnh viện Nhi Đồng 1 và 2. Mặt khác, tỉ lệ trẻ non tháng được chuyển đến từ các tỉnh tập trung về thành phố Hồ Chí Minh nhiều hơn những năm trước kia. Do ở những trẻ sanh cực non, lớp cơ thành ngực mỏng nên hiệu quả thở NCPAP hạn chế, còn ở trẻ đủ tháng với hệ thần kinh phát triển tương đối ổn định nên có tỉ lệ thành công với thở NCPAP cao nhất là 42/45 (93,33%). Cân nặng lúc sinh gắn liền với tuổi thai, trẻ càng non tháng, cân nặng lúc sinh càng thấp, tỉ lệ thành công với thở NCPAP càng thấp. Tỉ lệ thành công với thở N.CPAP ở nhóm trẻ rất nhẹ cân 22,1% và trẻ nhẹ cân (< 2500g) chiếm 33,6% Suy hô hấp ở trẻ sơ sinh Việt Nam cũng xuất hiện sớm. Nghiên cứu của Phạm Thị Thanh Tâm cho thấy 60% trẻ có biểu hiện lâm sàng trước 24 giờ tuổi 93% suy hô hấp do bệnh lý hô hấp, 1/3 trường hợp có nhiễm trùng. Trong nghiên cứu của chúng tôi ngày tuổi khởi bệnh có tỉ lệ thành công với thở NCPAP ở nhóm trẻ dưới 7 ngày 93/122 (78,81%) và trên 14 ngày tuổi 17/12 (85%) Về nguyên nhân suy hô hấp, tỉ lệ thành công thở NCPAP cao theo thứ tự viêm phổi nặng (95,9%), viêm phổi hít phân su (85,7%), bệnh phối hợp (nhiễm trùng huyết, vàng da, dị tật đi kèm với bệnh nền hô hấp) (80%) và bệnh màng trong (69,2%). Riêng cơn khó thở nhanh thoáng mặc dù cũng chiếm tỉ lệ cao nhưng chỉ chiếm 2 trong 150 trẻ sơ sinh suy hô hấp, do đó không nói được thành công. Điều này chứng tỏ trẻ bị suy hô hấp do bệnh lý nội khoa và trẻ non tháng ngày càng nhiều hơn. Vì bệnh màng trong là bệnh xảy ra sau khi khởi phát thở ở trẻ sơ sinh bị thiếu surfactant ở phổi, mà ở trẻ non tháng nhiều phế nang bị xẹp do thiếu surfactant gây suy hô hấp. Sở dĩ có sự khác biệt này do chúng tôi sử dụng surfactant sớm và điều trị phối hợp với thở NCPAP cho bệnh màng trong. Kết quả ghi nhận suy hô hấp nhẹ (26,7%) chiếm gần bằng ½ suy hô hấp nặng (73,3%), trong khi đó tỉ lệ thành công thở NCPAP ở nhóm suy hô hấp nặng chỉ chiếm 77,3% và ở nhóm suy hô hấp nhẹ chiếm tới 92,5%. Điều đó chứng tỏ hiệu quả của NCPAP tốt, cải thiện tình trạng suy hô hấp nhẹ đã thất bại với liệu pháp oxy thông thường. Biến chứng do thở NCPAP: có 8 ca bị loét mũi chiếm 5,3%, 6 ca bị chướng bụng chiếm 4% và 1 ca bị tràn khí màng phổi. Loét mũi do thở NCPAP nhiều ngày cố định ống thông mũi 2 nhánh quá chặt, chèn ép kích thích mũi làm tổn thương màng nhầy, da bị tổn thương hay bị hoại tử. Theo Paoli để tránh biến chứng này nên cố định ống thông mũi 2 nhánh ở mức vừa phải, không quá chặt cũng không quá lỏng. Tràn khí màng phổi thường gặp trong những trường hợp áp lực nguồn oxy tăng đột ngột, hoặc nguồn khí nén hay oxy không có van điều hòa. Biện pháp để hạn chế tai biến tràn khí màng phổi là luôn luôn kiểm tra áp lực NCPAP trước khi cho bệnh nhi thở, kiểm tra mỗi khi có y lệnh thay đổi các thông số về lưu lượng hoặc áp lực NCPAP. Biến chứng chướng bụng thường gặp trong thở NCPAP ở những giờ đầu với áp lực cao, bệnh nhi nuốt hơi vào dạ dày gây chướng bụng và làm hạn chế hoạt động của cơ hoành gây suy hô hấp nặng hơn. Theo Omari gọi là “ hội chứng CPAP dạ dày” được xem như lành tính. Do đó, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 6 trong những giờ đầu nên cho bệnh nhi tạm nhịn ăn qua đường tiêu hóa, nuôi ăn đường tĩnh mạch, đặt ống thông dạ dày dẫn lưu dịch và thoát bớt khí vào trong dạ dày. KẾT LUẬN Trong 150 trường hợp này có 122 trường hợp điều trị thành công với thở NCPAP chiếm 81,33%, còn lại 28 trường hợp thất bại chiếm 18,67% phải chuyển sang thở máy, không có trường hợp nào tử vong, với áp lực NCPAP trung bình là 4,9 + 1,5 cmH2O, FiO2 trung bình là 58,7 + 10 %. Có sự khác biệt ý nghĩa về tỉ lệ thành công thở NCPAP ở nhóm tuổi thai, cân nặng trung bình lúc sinh ở nhóm thành công là: 2215.7 g + 792 và cân nặng trung bình lúc sinh ở nhóm thất bại là: 1867 g + 652,7, về tỉ lệ thành công ở nguyên nhân và độ nặng suy hô hấp. Nhưng không có sự khác biệt về tỉ lệ thành công thở NCPAP ở ngày tuổi khởi bệnh Biến chứng của thở NCPAP: có 8 ca bị loét mũi chiếm 5,33%, 6 ca bị chướng bụng chiếm 4% và 1 ca bị tràn khí màng phổi chiếm 0,7%. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. AARC. Clinical Pratice Guideline (2004), “ Neonatal Continuous Positive Airway Pressure”, Revision & Update, pp. 1100-1108. 2. Ashok K (2004), “Continuous positive airway pressure – a gentler approach to ventilation”, Divison of Neonatology, Department of Pediatrics, All India Institute of Medical Sciences, New Delhi 110029, pp. 1-11. 3. Bạch văn Cam, Đặng Thanh Tuấn, Hà Mạnh Tuấn, Tăng Chí Thượng, Nguyễn Thị Kim Thoa (2000), “Thở áp lực dương liên tục qua mũi ”, Nguyên tắc, cấu tạo, tác dụng và ứng dụng trên lâm sàng, lưu hành nội bộ Bệnh viện Nhi Đồng 1, tr. 1 -28. 4. Davis PG (2001),“Nasal intermittent positive pressure ventilation (NIPPV) versus nasal continuous positive airway pressure (NCPAP) for preter neonates after extubation”, Cochrane Database Syst Re. (03): CD003212. 5. De Paoli A G (2003), “Nasal CPAP for neonates: What do we know in 2003”, Arch. Dis. Child. Fetal Neonatal Ed;88; pp. 168-172 . Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 7 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Nhi Khoa 8

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhan_xet_hieu_qua_cua_tho_ap_luc_duong_lien_tuc_qua_mui_tron.pdf
Tài liệu liên quan