KẾT LUẬN
- Kết quả nắn chỉnh phục hồi hình thể
giải phẫu từ mức khá ≥ 92,8%; 2 BN (2,9%)
chỉ đạt mức trung bình; 3 BN (4,3%) ở
mức kém.
- Kết quả liền xương 100%. Kiểm tra
kết quả xa 62/69 BN (89,9%). Thời gian
theo dõi, đánh giá kết quả xa ngắn nhất
6 tháng, xa nhất 78 tháng, trung bình
33,74 tháng. Kết quả phục hồi chức năng:
tốt 52 BN (83,9%), khá 3 BN (4,8%), trung
bình 4 BN (6,5%), kém 3 BN (4,8%).
- Chỉ định tốt cho gãy KC không vững
theo chiều xoay, còn vững theo chiều
thẳng đứng (loại B theo phân loại của
Tile.M). Gãy không vững cả chiều xoay
và chiều thẳng đứng (loại C) cần chỉ định
kéo liên tục trước khi CĐN. BN có sốc
điều trị không hiệu quả, sau khi đã loại trừ
các nguyên nhân chảy máu từ cơ quan
khác ngoài KC, có chỉ định mổ cấp cứu
CĐN KC để giảm đau, hỗ trợ cầm máu,
chống sốc. Có thể CĐN KC trong cùng
cuộc mổ, xử trí tổn thương kết hợp nếu
tình trạng BN cho phép. CĐN KC sau xử
trí thương tổn bụng, tiết niệu để không
cản trở các thao tác trên vùng bụng và
trước khi phẫu thuật xương khớp khác.
- Vị trí xuyên đinh ở mào chậu. Nên làm
càng sớm càng tốt, có thể làm ngay tại
giường bệnh sau khi loại trừ cấp cứu bụng
ngoại khoa.
- Biến chứng nhiễm khuẩn chân đinh
51/276 chân đinh (18,47%) với 22/69 BN
(31,9%). Số chân đinh nhiễm khuẩn phải
can thiệp điều trị (độ III): 8/51 (16%).
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 34 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét kết quả điều trị gãy khung chậu không vững bằng khung cố định ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
65
NHẬN XÉT KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY KHUNG CHẬU
KHÔNG VỮNG BẰNG KHUNG CỐ ĐỊNH NGOÀI
Nguyễn Văn Ninh*; Nguyễn Tiến Bình*; Phạm Đăng Ninh*; Nguyễn Bá Ngọc*
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá kết quả điều trị gãy khung chậu không vững bằng phương pháp cố định
ngoài trên các mặt nắn chỉnh phục hồi giải phẫu, sự liền xương và phục hồi chức năng, rút ra
một số nhận xét về chỉ định, kỹ thuật và biến chứng. Đối tượng và phương pháp: 71 bệnh nhân
gãy khung chậu không vững được điều trị bằng cố định ngoài tại Bệnh viện Quân y 103 và
Bệnh viện Bỏng Quốc gia từ tháng 5 - 2010 đến 2 - 2017. Phân loại gãy B, C theo Tile.M.
Nghiên cứu tiến cứu 49 bệnh nhân và hồi cứu 22 bệnh nhân. Dùng khung cố định ngoài là bộ
cọc ép ren ngược chiều của Nguyễn Văn Nhân, 4 đinh Schanz Ø 4,5 mm xuyên vào mào chậu.
Kết quả: 69 bệnh nhân (97%) ổn định, thoát sốc; 2 bệnh nhân sốc không hồi phục và tử vong
do chấn thương ở bộ phận cơ thể khác. Nắn chỉnh khung chậu: tốt 56 bệnh nhân (78,9%),
khá 8 bệnh nhân (11,3%), trung bình 4 bệnh nhân (5,6%), kém 3 bệnh nhân (4,2%). Kỹ thuật
kết xương đạt yêu cầu 100%; thời gian mang khung trung bình 8,45 tuần. Kết quả xa: 62 bệnh
nhân (87,3%), thời gian theo dõi xa từ 6 - 78 tháng, trung bình 33,74 tháng. Liền xương tốt
62 bệnh nhân (100%); phục hồi chức năng (theo tiêu chuẩn của Majeed S.A, 1989): tốt 52 bệnh
nhân (83,9%), khá 3 bệnh nhân (4,8%), trung bình 4 bệnh nhân (6,5%), kém 3 bệnh nhân (4,8%).
Kết luận: điều trị gãy khung chậu không vững bằng khung cố định ngoài có kết quả tốt, đơn giản, dễ
làm, cố định chắc ổ gãy xương, giúp giảm đau, cầm máu, phòng chống sốc và thuận tiện cho
chăm sóc bệnh nhân.
* Từ khóa: Gãy khung chậu không vững; Cố định ngoài.
Remarks on Treatment Results of Unstable Fracture of the Pelvic
Ring by External Fixation
Summary
Objectives: To evaluate treatment results of the unstable fractures of the pelvic ring by
external fixation method on the anatomical recovery, the union of bone and rehabilitation and
take out some comments on indications, techniques and complications. Subjects and methods:
71 patiens with unstable fractures of the pelvic ring were treated by external fixation in 103 Military
Hospital and National Institute of Burns from May 2010 to Feb 2017. Classification of fracture
type B, C according to Tile.M. Prospective study of 49 patients and retrospective of 22 patients.
External frame of Nguyen Van Nhan was used, 4 Ø 4.5 mm Schanz pins was placed in the
illiac crests. Results: 69 patients (97%) became stable, out of shock; 2 patients with shock
unrecover and death due to injuries in the other body parts: good 56 patients (78.9%), fair
8 patients (11.3%), average 4 patients (5.6%), poor 3 (4.2%). The technique fixation: Achieve 100%;
* Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Văn Ninh (nguyenvanninh77@gmail.com)
Ngày nhận bài: 02/07/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 10/08/2018
Ngày bài báo được đăng: 29/08/2018
T¹p chÝ Y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
66
the time for skeletal recover and release the frame: 8.45 weeks. The later results: 62 patients
(87.32%); time of follow-up: from 6 to 78 months, average 33.74 months. Good union of bone
62 patients (100%). Results of rehabilitation: Good 52 patients (83.9%), fair 3 patients (4.8%),
average 4 patients (6.5%), poor 3 patients (4.8%). Conclusion: Treatment of unstable pelvic fracture
by the external fixation frame has good results. This technique is simple, easy to fixed the
skeletal fracture, reduce painful, stop bleeding, prevent shock, convenient for treating the patient.
* Keywords: Unstable fractures of the pelvic ring; External fixation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy khung chậu (KC) là chấn thương
hay gặp và là một tổn thương nặng.
Melton (1981) thống kê trong 10 năm
(1968 - 1977) tại Minnesota thấy tần suất
gặp gãy KC 37 bệnh nhân (BN)/100.000
dân/năm [4]. Ở Việt Nam, theo thống kê
của Ngô Bảo Khang (1995), gãy KC chiếm
3 - 5% tổng số gãy xương, tỷ lệ tử vong
cao, đứng thứ 2 về tử vong do nguyên
nhân chấn thương, chỉ sau tử vong do
chấn thương sọ não. Nguyên nhân chủ yếu
do tai nạn giao thông [1].
Phương pháp điều trị: cho BN nằm bất
động, gác chân tư thế ếch, nếu có di lệch
trượt lên thì kéo liên tục kết hợp với băng
treo để ép KC, tuy dễ thực hiện nhưng
kết quả phục hồi giải phẫu kém, cố định
không chắc chắn và phải nằm bất động lâu
[2].
Phương pháp kết xương bên trong tuy
phục hồi được về giải phẫu, BN vận động
sớm, tránh được biến chứng do nằm lâu,
nhưng là phẫu thuật lớn nên không thể chỉ
định trong giai đoạn cấp cứu và hạn chế
chỉ định với gãy KC hở.
BN gãy KC có chảy nhiều máu tại ổ gãy
và rất đau nên để phòng chống sốc có
hiệu quả, cần cố định chắc ổ gãy và ép
2 mặt gãy cầm máu và giảm đau. Trên
thế giới và Việt Nam đã có nhiều phẫu
thuật viên nghiên cứu ứng dụng phương
pháp cố định ngoài (CĐN) vào điều trị
cấp cứu gãy KC nhằm phòng chống sốc,
tạo thuận lợi cho xử trí tổn thương kết
hợp và dự phòng biến chứng do nằm lâu
[6]. Nhiều năm qua, Bộ môn - Khoa Chấn
thương Chỉnh hình, Bệnh viện Quân y 103
đã ứng dụng phương pháp CĐN một bên
bằng bộ cọc ép ren ngược chiều (CERNC)
của Nguyễn Văn Nhân để điều trị cho gãy
KC và thu được kết quả rất khả quan [2, 3].
Chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu này
nhằm mục tiêu:
- Đánh giá kết quả điều trị của phương
pháp về mặt nắn chỉnh phục hồi giải phẫu,
làm liền xương và phục hồi chức năng.
- Rút ra một số nhận xét về chỉ định,
kỹ thuật và biến chứng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
71 BN gãy KC không vững (41 nam,
30 nữ), tuổi từ 13 - 74 (trung bình 36 tuổi)
được điều trị kết xương bằng khung CĐN
tại Bệnh viện Quân y 103 và Bệnh viện Bỏng
Quốc gia. Tất cả BN đều được phẫu thuật,
chăm sóc, theo dõi, đánh giá kết quả điều trị.
* Tiêu chuẩn lựa chọn BN: BN được
chẩn đoán gãy KC không vững (loại B, C)
theo phân loại của Tile.M (2003); điều trị
kết xương bằng CĐN [5].
* Tiêu chuẩn loại trừ: gãy KC vững
(loại A); điều trị kết xương bằng các
phương pháp khác không phải CĐN.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
67
2. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu tiến cứu 49 BN, hồi cứu
22 BN.
* Dụng cụ: bộ CERNC của Nguyễn Văn
Nhân dài 35 cm; 2 đoạn đinh Steinmann
Ø 5 mm, dài 6 cm dùng để liên kết 2 cọc
với nhau; 4 đinh Schanz Ø 4,5 mm, dài
18 cm; khoan tay, khoan điện và mũi khoan
Ø 3,5 mm.
Hình 1: Bộ dụng cụ CĐN KC.
* Phương pháp vô cảm:
Nếu làm tại buồng bệnh, chỉ cần gây tê
tại chỗ ở các vị trí khoan và bắt đinh
Schanz, kết hợp thuốc giảm đau toàn
thân. Thuốc tê: dung dịch lidocain 2% +
adrenalin 0,1%.
* Kỹ thuật xuyên đinh lắp khung CĐN:
Thực hiện tại buồng bệnh hoặc tại phòng
mổ ngay sau khi mổ xử trí các thương tổn
trong ổ bụng, hoặc trước khi kết xương
ổ gãy xương chi dưới. BN nằm ngửa,
hai đùi gác trên hai giá Braun tư thế
“con ếch’’.
Xác định vị trí xuyên đinh: mào chậu
2 bên (mỗi bên 2 đinh), đinh thứ nhất
cách gai chậu trước trên 1,0 - 1,5 cm,
đinh thứ 2 cách đinh thứ nhất 5 cm. Gây
tê tại chỗ, sau đó rạch da dài 1 cm tại vị
trí bắt đinh Schanz, tách phần mềm đến
sát xương mào chậu, đưa ống bảo vệ
phần mềm (Sleeve-trocar) vào vết mổ đến
sát vỏ xương và phải giữ chặt vào mào
chậu trước khi khoan. Dùng mũi khoan
3,5 mm (qua ống bảo vệ) khoan dẫn đường
qua vỏ xương mào chậu, dùng khoan tay
để bắt 2 đinh Schanz theo lỗ vừa khoan,
theo hướng từ trước ra sau, chếch từ
ngoài vào trong, từ trên xuống dưới.
A
B
Hình 2: (A) Xuyên 2 đinh Schanz vào
mào chậu.
T¹p chÝ Y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
68
- Lắp 2 CERNC kết nối 4 đinh qua phía
trước thành bụng, liên kết 2 cọc với nhau
bằng hai đoạn đinh Steinman tạo khung
CĐN, kết hợp nắn chỉnh trực tiếp và dùng
cờ lê 10 vặn dần dần, tùy thuộc từng loại
gãy mà vặn ép hoặc giãn từng CERNC
để nắn chỉnh di lệch ổ gãy và nắn chỉnh
sai khớp mu, khớp cùng chậu:
- KC gãy kiểu mở quyển sách: ép trực
tiếp từ ngoài vào qua 2 cánh chậu hoặc
gián tiếp qua mấu chuyển lớn, đồng thời
vặn ép 2 thanh CERNC làm thu hẹp
khớp mu, khớp cùng chậu hoặc nắn chỉnh
di lệch ổ gãy về vị trí giải phẫu.
- KC gãy không vững kiểu khép quyển
sách: nắn chỉnh bằng cách ấn trực tiếp
vào cánh chậu bên tổn thương từ trong ra
ngoài hoặc gián tiếp bằng cách để chân
bên tổn thương lên gối bên đối diện làm
xoay ngoài đùi, qua đó xoay ngoài cánh
chậu. Với dạng gãy ngành ngồi mu, chậu
mu và bán sai khớp cùng chậu, vặn giãn
qua cọc CERNC trước dưới làm xoay
ngoài nửa KC bên tổn thương, vặn ép
qua cọc CERNC sau trên để nắn chỉnh
hết sai khớp cùng chậu. Với dạng gãy
ngành ngồi mu, chậu mu và gãy dọc
cánh chậu, vặn giãn qua 2 cọc CERNC
làm xoay ngoài nửa KC bên tổn thương
để nắn chỉnh hết di lệch.
- KC gãy loại C (không vững theo cả
chiều xoay và chiều thẳng đứng): xuyên
đinh Kirschner qua lồi cầu đùi bên tổn
thương, kéo liên tục trên giá Bohler nắn
chỉnh di lệch lên trên. Kiểm tra X quang
thấy hết di lệch lên trên thì tiến hành kết
xương CĐN, đồng thời vặn ép 2 cọc CERNC
nắn chỉnh hết di lệch theo chiều xoay.
Hình 3: Hoàn thành cuộc mổ.
Căn cứ vào mức độ di lệch mất vững
của KC, tình trạng gioãng của khớp mu
trên phim X quang để vặn ép cho 2 mặt
gãy áp với nhau làm KC vững hơn. Chụp
lại X quang sớm khi toàn thân BN ổn định
để vặn chỉnh tiếp khi ổ gãy xương chậu
hay khớp mu còn di lệch giãn cách nhiều.
* Đánh giá kết quả:
- Kết quả gần: kết quả nắn chỉnh phục
hồi giải phẫu, chụp X quang ngày thứ hai
sau phẫu thuật với BN đã nắn chỉnh đạt
yêu cầu, không cần nắn chỉnh bổ sung;
BN phải nắn chỉnh bổ sung được chụp
X quang sau khi đã hoàn thành nắn chỉnh
bổ sung di lệch còn lại, đo kích thước
di lệch trên phim X quang KC thẳng (phim
tiêu chuẩn), X quang kỹ thuật số tỷ lệ 100%,
đo di lệch của KC theo phương pháp của
Richard C. Henderson (1989) [8]; kết quả
liền xương, thời gian mang khung CĐN;
nhiễm khuẩn chân đinh.
- Dựa vào tiêu chuẩn đánh giá kết quả
phục hồi giải phẫu của Tile.M [5], Richard
C. Henderson (1989) [8], Majeed (1989) [9],
Lindahl (1999), xây dựng bảng tiêu chuẩn
đánh giá kết quả phục hồi giải phẫu.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
69
Bảng 1: Tiêu chuẩn đánh giá kết quả phục hồi giải phẫu.
Kết quả giải phẫu Tốt Khá Trung bình Kém
Di lệch gioãng khớp mu hoặc cung
chậu trước (cm) 3,5
Di lệch cung chậu sau (cm) 1,5
- Kết quả xa: đánh giá kết quả phục
hồi chức năng theo bảng phân loại của
Majeed S.A (1989) gồm 4 mức: tốt
> 85 điểm; khá 70 - 84 điểm; trung bình
55 - 69 điểm; kém < 55 điểm [9].
* Bảng điểm đánh giá kết quả phục hồi
chức năng theo Majeed (1989) [9]:
Đau: 30 điểm; hiệu suất làm việc:
20 điểm; ngồi: 30 điểm; quan hệ tình dục:
4 điểm; đi đứng: 30 điểm, trong đó đi có
dụng cụ trợ giúp 12 điểm, đi không có
dụng cụ trợ giúp 12 điểm, có khả năng
đi xa 12 điểm.
* Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung.
* Nguyên nhân chấn thương: tai nạn
giao thông 39/71 BN (54,9%); ngã cao
20/71 BN (28,2%); tai nạn lao động 8/71 BN
(11,3%); tai nạn sinh hoạt 4/71 BN (5,6%).
* Phân loại gãy KC theo Tile.M (2003) [5]:
- Nhóm B: gãy KC mất vững không
hoàn toàn (mất vững chiều xoay, còn vững
chiều thẳng đứng) 58 BN (81,7%).
- B1: gãy KC kiểu mở quyển sách (open
book-lực ép trước sau)19 BN (26,8%).
- B2: gãy KC kiểu khép quyển sách
(close book-lực ép bên) 36 BN (50,7%).
- B3: gãy KC cả hai bên, thường là dạng
mở quyển sách 3 BN (4,2%).
+ Nhóm C: 13 BN (18,3%), gãy KC mất
vững hoàn toàn (cả chiều xoay và chiều
thẳng đứng) gồm:
- C1: gãy KC không vững cả chiều xoay
và thẳng đứng một bên (Malgaigne):
4 BN.
- C2: gãy KC không vững cả chiều xoay
và thẳng đứng ở hai bên: 7 BN.
- C3: gãy KC cả hai bên loại C: 2 BN.
37 BN (52,1%) có sốc chấn thương,
trong đó 17 BN (23,9%) nhập viện đang
trong tình trạng sốc chấn thương, 20 BN
(28,2%) có sốc nhưng đã điều trị ổn định
tại bệnh viện tuyến trước trước khi nhập
viện. 2 BN (3%) tử vong, trong đó 1 BN
tử vong tại viện (BN sốc đa chấn thương
mức độ nặng: chấn thương sọ não, chấn
thương bụng kín, tụ máu lớn sau phúc mạc;
gãy KC loại C3 theo Tile.M; gãy dập nát
1/3 dưới cẳng chân phải) và 1 BN có suy
hô hấp nặng dẫn đến sốc không hồi phục,
gia đình xin về, sau đó tử vong tại nhà
(BN sốc đa chấn thương: chấn thương
ngực kín, gãy cung sau xương sườn 4, 5,
6, 7, dập phổi, tràn máu, tràn khí khoang
màng phổi trái; gãy KC loại B3 theo Tile.M.
* Tổn thương kết hợp:
- 14 BN có chấn thương sọ não kèm theo,
trong đó 2 BN chấn thương sọ não, máu
tụ ngoài màng cứng phải mổ lấy máu tụ
(1 BN mổ đặt CĐN KC ngay sau khi mổ
T¹p chÝ Y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
70
lấy máu tụ nội sọ ngày đầu, 1 BN mổ đặt
CĐN KC ngày thứ 3 sau chấn thương,
đến ngày thứ 7 phát hiện có khối máu tụ
ngoài màng cứng, được mổ sọ não lấy
máu tụ mà không phải tháo khung).
- 8 BN có chấn thương bụng kín, trong
đó thủng trực tràng 3 BN, thủng hỗng
tràng 1 BN, sảy thai do chấn thương 1 BN,
vỡ thận độ II 1 BN, thủng trực tràng + vỡ
bàng quang + thoát vị cơ hoành 1 BN,
1 BN vỡ gan + thoát vị cơ hoành + chấn
thương ngực kín, tràn máu, tràn khí
khoang màng phổi 2 bên, gãy xương sườn
5 - 9 (trái), 4, 7, 8 (phải), vỡ đốt sống D12,
trượt đốt sống D11.
- 10 BN máu tụ lớn sau phúc mạc.
- 8 BN chấn thương ngực kín, trong đó
3 BN dập phổi và 5 BN có tràn máu, tràn
khí khoang màng phổi.
- 12 BN chấn thương tiết niệu sinh dục:
đứt niệu đạo ở nam (2 BN), trong đó 1 BN
kèm theo vỡ bàng quang; vỡ bàng quang
(4 BN); rách âm đạo (2 BN); vết thương
phần mềm bẹn bìu, tụ máu lớn bìu (4 BN).
- 42 BN có chấn thương xương khớp
khác: gãy đốt sống 7 BN (trong đó 1 BN
gãy đốt sống D12, trượt D11, dập tủy, hạ
liệt hoàn toàn); gãy KC kèm theo gãy ổ
cối 14 BN, trong đó sai khớp háng thể
trung tâm 3 BN (9 BN gãy loại B2, 3 BN
gãy loại B1, 1 BN gãy loại C2 và 1 BN
gãy loại C3), gãy cổ xương đùi 2 BN, thân
xương đùi 6 BN, liên mấu chuyển 3 BN,
gãy xương chày 6 BN; gãy xương gót 3 BN;
gãy xương bàn chân 4 BN; gãy xương bả
vai 2 BN; gãy xương cánh tay 3 BN, xương
cẳng tay 8 BN, xương đòn 3 BN; gãy xương
sườn 8 BN; vết thương phần mềm 25 BN.
- Bỏng 2 BN: 1 BN bỏng điện 17% đầu
mặt, cổ thân mình, 1 BN bỏng lửa xăng
60% mặt, cổ, thân, cẳng chân.
- 13 BN gãy KC loại C (mất vững cả
chiều xoay và dọc) một bên hoặc cả 2 bên
cánh chậu bị trượt lên trên và 3 BN gãy
loại B2 (cơ chế ép) kèm theo gãy ổ cối sai
khớp háng thể trung tâm, chúng tôi xuyên
đinh kéo liên tục qua lồi cầu xương đùi để
nắn chỉnh khớp háng và KC về vị trí giải
phẫu, chụp phim X quang kiểm tra thấy
hết di lệch hoặc còn di lệch ít mới thực
hiện đặt CĐN. Sau khi đặt khung CĐN
mới tháo kéo liên tục.
* Thời điểm thực hiện kỹ thuật:
- Ngay sau khi BN thoát sốc hoặc BN
được hồi sức tích cực mà chưa thoát sốc,
sau khi mổ cấp cứu xử trí các thương tổn
trong ổ bụng như bàng quang, niệu đạo,
đại tràng, hỗng tràng.
+ 0 - 24 giờ: 10 BN; > 24 - 72 giờ: 28 BN;
> 3 - 7 ngày: 19 BN; > 7 ngày: 14 BN.
Một số BN được CĐN KC muộn do đã điều
trị tổn thương kết hợp ở bệnh viện khác,
sau đó chuyển đến Bệnh viện Quân y 103
và Bệnh viện Bỏng Quốc gia điều trị tiếp.
- CĐN thực hiện sau khi hoàn tất xử trí
thương tổn ổ bụng và đóng vết mổ để
tránh cản trở thao tác trong ổ bụng, có thể
làm đồng thời (nếu toàn trạng BN cho phép)
với tổn thương về sọ não, lồng ngực.
CĐN KC trước khi xử trí tổn thương xương
khớp khác.
- Thời gian mang khung từ 8 - 10 tuần.
2. Kết quả gần.
Đánh giá kết quả gần sau kết thúc cuộc
mổ, chụp lại phim X quang kiểm tra đến khi
BN liền xương và tháo khung CĐN.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
71
53 BN thấy đỡ đau ở KC ngay sau khi
xuyên đinh và lắp khung CĐN. 16 BN sau
khi tỉnh lại mới thấy KC đỡ đau (6 BN mổ
bụng kết hợp, 1 BN mổ sọ não, 9 BN sốc
được CĐN khi đang thở máy); 1 BN suy
hô hấp nặng do dập phổi kết hợp và sốc
không hồi phục, gia đình xin về sau đó
tử vong tại nhà; 1 BN bị đa chấn thương
phải phẫu thuật ổ bụng xử trí tổn thương,
cắt cụt cẳng chân một bên, rối loạn đông
máu sau truyền máu dẫn đến sốc không
hồi phục, tử vong tại bệnh viện ngày
thứ 2.
Kiểm tra X quang thấy 64 BN (92,8%)
nắn chỉnh phục hồi hình thể giải phẫu từ
mức khá trở lên; 2 BN (2,9%) chỉ đạt mức
trung bình; 3 BN (4,3%) ở mức kém.
Trong đó, 1 BN kèm theo gãy cột sống liệt
2 chi dưới, 1 BN gãy di lệch lớn đến viện
muộn được CĐN KC sau tai nạn 37 ngày
nên khó nắn chỉnh. 1 BN kèm theo bỏng
điện nặng vùng chẩm, chấn thương sọ não,
quá trình thay băng, chăm sóc bỏng phải
xoay trở BN nhiều nên ảnh hưởng đến
kết quả nắn chỉnh và CĐN (3 BN này có
kết quả phục hồi chức năng kém).
Bảng 2: Phân bố loại gãy theo kết quả phục hồi giải phẫu (n = 69).
Kết quả phục hồi hình thể giải phẫu
Phân loại
Tốt (n, %) Khá (n, %) Trung bình (n, %) Kém (n, %)
Tổng
(n, %)
Loại mở quyển
sách
18
26,1%
3
4,3%
0
0,0%
0
0,0%
21
30,4%
Loại khép quyển
sách
33
47,8%
1
1,4%
1
1,4%
1
1,4%
36
52,2%
Loại C 5 7,2%
4
5,8%
1
1,4%
2
2,9%
12
17,4%
Tổng (n, %) 56 81,2%
8
11,6%
2
2,9%
3
4,3%
69
100,0%
Gãy KC loại C có tỷ lệ kết quả phục hồi hình thể giải phẫu kém hơn các loại khác,
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
* Kết quả kết xương: đinh Schanz bắt đúng vị trí, nằm trong xương mào chậu.
Không BN nào xuyên đinh trượt ra ngoài.
* Nhiễm khuẩn chân đinh: 22 BN (31,0%) phải can thiệp điều trị (độ III, IV) 5/71 BN
(7%) với 14/284 (5%) chân đinh nhiễm khuẩn.
3. Kết quả xa.
Thời gian theo dõi, đánh giá kết quả xa từ tháng thứ 6 sau mổ. 62/69 BN (89,9%)
được kiểm tra đánh giá kết quả xa. 7 BN không đánh giá được kết quả xa do thất lạc
địa chỉ. BN được theo dõi, đánh giá kết quả xa ngắn nhất 6 tháng, xa nhất 78 tháng,
trung bình 33,74 tháng.
T¹p chÝ Y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
72
69/69 BN (100%) liền xương tốt, chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp nào không
liền xương. Thời gian liền xương trung bình của các loại gãy:
+ Gãy không vững kiểu mở quyển sách 8,38 tuần.
+ Gãy không vững kiểu khép quyển sách 8,39 tuần.
+ Gãy không vững loại C 8,75 tuần.
+ Thời gian liền xương trung bình cả nhóm 8,45 tuần.
- Kết quả phục hồi chức năng: tốt 52 BN (83,9%), khá 3 BN (4,8%), trung bình 4 BN
(6,5%), kém 3 BN (4,8%).
Bảng 3: Kết quả phục hồi chức năng theo phân loại gãy (n = 62).
Kết quả phục hồi chức năng
Phân loại gãy
Tốt Khá Trung bình Kém
Tổng
Loại mở quyển sách
(n, %)
16
25,8%
2
3,2%
1
1,6%
0
0,0%
19
30,6%
Loại khép quyển sách
(n, %)
29
46,8%
1
1,6%
1
1,6%
1
1,6%
32
51,6%
Loại C
(n, %)
7
11,3%
0
0,0%
2
3,2%
2
3,2%
11
17,7%
Tổng 52 83,9%
3
4,8%
4
6,5%
3
4,8%
62
100,0%
BÀN LUẬN
1. Về kết quả nắn chỉnh phục hồi
hình thể giải phẫu.
Khung CĐN có khả năng nắn chỉnh tốt
với các gãy loại B, kết quả nắn chỉnh gãy
loại B tốt và khá đạt 96,5% (55/57 BN),
trong đó: B1 - gãy kiểu mở quyển sách
(21/57BN = 37,0%), B2 - gãy kiểu khép
quyển sách (34/57BN = 59,6%). Kết quả
nắn chỉnh gãy loại C tốt và khá đạt 75,0%
(9/12 BN).
Lindahl (1999) với tiêu chuẩn của mình,
đạt tỷ lệ tốt và khá 40/110 BN (41,51%).
Do tổn thương về giải phẫu của gãy
KC rất phức tạp, việc nắn chỉnh phục hồi
hình thể rất khó khăn, kết quả đạt được
không theo ý muốn. KC với chức năng
chính chứa các cơ quan trong ổ bụng và
tiếp chuyển trọng lực của toàn bộ cơ thể
từ thân mình xuống hai chi khi ở tư thế đứng
và xuống hai ụ ngồi, khi ở tư thế ngồi, KC
méo mó biến dạng, trong chừng mực nào
đó ảnh hưởng ít nhiều đến chức năng
của KC.
2. Kết quả phục hồi chức năng.
Chúng tôi thống nhất với các tác giả
châu Âu sử dụng bảng đánh giá kết quả
phục hồi chức năng của Majeed (1989)
[9]. Kiểm tra kết quả xa cho 62/69 BN
(89,9%), kết quả phục hồi chức năng ở
mức khá và tốt 88,7%. Trong nghiên cứu,
49 BN phục hồi giải phẫu mức tốt, tất cả
đạt kết quả phục hồi chức năng ở mức tốt.
03 BN đạt kết quả phục hồi giải phẫu mức
kém, kết quả phục hồi chức năng cũng kém.
Mối liên quan giữa kết quả phục hồi giải
phẫu và phục hồi chức năng có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05).
Chúng tôi so sánh kết quả nghiên cứu
với một số tác giả khác.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
73
Bảng 4: So sánh kết quả phục hồi chức năng.
Số liệu
Tác giả
Số BN
Tốt Khá Trung bình Kém
Michelangelo Scaglione 41 12 (29%)
18
(44%)
7
(17%)
4
(10%)
Rommens P.M 122 57 (46,7%)
36
(29,5%)
24
(19,7%)
5
(4,1%)
Nguyễn Ngọc Toàn [3] 81 22 (27,2%)
30
(37,0%)
20
(24,7%)
9
(11,1%)
Nghiên cứu này 62 52 83,9%
3
4,8%
4
6,5%
3
4,8%
Kết quả nghiên cứu của các tác giả
khác nhau ở từng loại, nhưng nhìn
chung tổng tỷ lệ tốt + khá tương đương,
kết quả tốt của các tác giả thấp hơn của
chúng tôi, nhưng tỷ lệ khá lại cao hơn.
Chúng tôi cho rằng thời gian theo dõi xa
khác nhau, nghiên cứu này trung bình
33,74 tháng (Nguyễn Ngọc Toàn 25,6 tháng;
Rommens P.M 21,6 tháng) nên kết quả
cũng khác nhau (chúng tôi nhận thấy
những BN khi kiểm tra kết quả xa trong
năm đầu cho kết quả phục hồi chức năng
khá, nhưng sau một thời gian tích cực
luyện tập kéo dài, sang năm thứ 2, 3 đã
cho kết quả tốt).
3. Về chỉ định phương pháp CĐN trong
điều trị gãy KC.
Theo Tile.M [5], Pol M. Rommens [6],
Nguyễn Vĩnh Thống, Ngô Bảo Khang [1],
việc chọn một phương pháp điều trị cho
BN gãy KC phải căn cứ vào tình trạng
toàn thân của BN, phân loại gãy KC.
Bảng phân loại của Tile.M hiện đang
được nhiều phẫu thuật viên áp dụng. Đối
với gãy loại A (A1, A2, A3) - là các loại
gãy KC vững, nếu không có tổn thương
kết hợp, chỉ cần cho BN nằm bất động,
gác chân trên giá đỡ trong 4 tuần. Với gãy
loại B (B1, B2, B3) - là gãy không vững
theo chiều xoay (dạng mở hoặc khép
quyển sách) và gãy loại C (C1, C2, C3) -
gãy mất vững cả chiều xoay và chiều
thẳng đứng: cần phẫu thuật kết xương làm
vững KC. Lý do chúng tôi chọn phương
pháp nắn chỉnh kín CĐN vì:
- Thao tác kỹ thuật đơn giản, chấn thương
phẫu thuật không lớn, độ an toàn cao,
có thể làm ngay tại phòng hồi sức và làm
sớm trong ngày đầu sau khi đã loại trừ
tình trạng bụng ngoại khoa.
- Việc cố định ổ gãy vững chắc có tác
dụng giảm đau, tiện lợi cho chăm sóc BN.
Những năm gần đây, phương pháp
nắn chỉnh mở kết xương bên trong điều
trị gãy KC được áp dụng rộng rãi trên
thế giới, có nhiều nghiên cứu và báo cáo
khoa học về phương pháp này. Đây là
phương pháp kết xương giúp phục hồi
hình thể giải phẫu và cố định ổ gãy xương
tốt nhất, BN vận động sớm, tránh được
các biến chứng do nằm lâu. Tuy nhiên,
phương pháp này cũng có những hạn chế:
phẫu thuật lớn nên không thể chỉ định
trong giai đoạn cấp cứu và hạn chế chỉ
định với gãy KC hở, gãy KC có tổn thương
phần mềm phức tạp [11].
T¹p chÝ Y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
74
4. Về kỹ thuật kết xương.
- Thời điểm tiến hành: chúng tôi cho
rằng nên làm càng sớm càng tốt, vì mục
tiêu quan trọng là giảm đau, cầm máu để
phòng chống sốc. Do đó, nếu BN có tổn
thương kết hợp phải mổ cấp cứu (tổn
thương các cơ quan trong ổ bụng phải
can thiệp ngoại khoa), đưa BN lên phòng
mổ xử trí tổn thương trong ổ bụng và kết
hợp CĐN KC sau khi đóng vết mổ. Nếu BN
không có thương tổn kết hợp trong ổ bụng,
nên làm ngay tại giường bệnh và cần
làm sớm khi loại trừ được cấp cứu bụng
ngoại khoa.
Theo Tile.M [5], Pol M. Rommens [6],
Nguyễn Vĩnh Thống, Ngô Bảo Khang [1],
Phạm Đăng Ninh [2], Nguyễn Ngọc Toàn
[3], khi gãy KC mục đích CĐN để nắn
chỉnh KC về giải phẫu, cố định ổ gãy giúp
giảm đau, cầm máu và chống sốc, tạo điều
kiện cho việc di chuyển BN khi cần thiết,
do chấn thương phẫu thuật không nhiều
nên chủ trương làm sớm. Với một số BN
gãy KC loại B (gãy kiểu mở, khép quyển
sách - theo Tile.M), khi vào cấp cứu, sau
khi thực hiện biện pháp chống sốc cơ bản
như tiêm giảm đau, truyền đủ dịch và
máu mà vẫn chưa thoát sốc, chúng tôi
thực hiện CĐN ngay, kết quả BN ổn định.
Tuy nhiên, đối với gãy loại C có di lệch
theo chiều thẳng đứng, trước tiên chúng
tôi kéo liên tục KC bên tổn thương, vừa
để nắn chỉnh di lệch lên cao, vừa bất
động ổ gãy, tùy trường hợp có thể cho
chụp lại X quang KC của BN từ ngày thứ
2 sau khi kéo liên tục, nếu thấy nửa KC
về vị trí giải phẫu, tiến hành CĐN, sau đó
có thể tháo kéo liên tục.
Vị trí xuyên đinh: chúng tôi chọn mào
chậu là vị trí xuyên đinh. Vị trí này sờ
ngay dưới da, dễ làm và không gây tổn
thương mạch máu, tổn thương tạng trong
ổ bụng. Vị trí xuyên đinh vào mào chậu
cũng được các tác giả trên thế giới và
trong nước lựa chọn [1, 2, 3, 4, 6, 8.
Tile. M [10], Kim W.Y [12] nghiên cứu ảnh
hưởng của vị trí xuyên đinh đến độ vững
của hai mô hình CĐN khác nhau, tác giả
nhận thấy vị trí xuyên đinh giữa gai chậu
trước trên và gai chậu trước dưới cho
kết quả cố định khớp cùng chậu ít di lệch
hơn khi xuyên đinh vào mào chậu. Tác giả
kết luận: xuyên đinh vào vị trí giữa gai
chậu trước trên và gai chậu trước dưới
tạo kết xương vững chắc hơn. Tuy nhiên,
kỹ thuật xuyên đinh vào gai chậu trước
dưới phức tạp hơn, cách xuyên đinh này
thường chỉ định cho BN mổ cấp cứu trì
hoãn, điều kiện toàn trạng đã ổn định.
Kỹ thuật xuyên đinh thực hiện dưới vô
cảm gây mê toàn thân [4].
Khoan trước bằng mũi khoan đường
kính 3,5 mm qua vỏ xương chậu, sau đó
dùng khoan tay bắt đinh có ren. Làm như
vậy để bắt đinh chính xác và chắc vào
thành xương chậu. Khi dùng đinh Schanz
có đầu nhọn, có thể lắp trực tiếp đinh và
khoan chậm mà không cần khoan trước
bằng mũi khoan. Làm thế nào để bắt đinh
nằm gọn chính giữa xương cánh chậu,
không bị trượt sang bên. Vì nếu khoan bị
trượt sang bên phải khoan lại, đinh không
còn cắm chắc vào xương nữa, có thể
dùng 1 đinh Kirschner đưa qua vết mổ
vào sát mặt trong cánh chậu tại vị trí
xuyên đinh để định hướng cho khoan và
bắt đinh Schanz.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
75
Khi lắp cọc ép nên để CERNC cách da
thành bụng 4 - 5 cm là đủ để thay băng
vết mổ ổ bụng nếu có.
Tại sao chọn bộ CERNC: đây là bộ
khung mà các bác sỹ quân y quen sử
dụng, thao tác đơn giản, có khả năng nắn
chỉnh và cố định chắc (trong nghiên cứu,
kết quả nắn chỉnh phục hồi hình thể giải
phẫu từ mức khá ≥ 92,8%), là loại khung
có sẵn ở các bệnh viện quân y. CERNC
có thể sử dụng cho nhiều vị trí gãy xương,
tiện cho bảo quản, sử dụng ở tuyến trước.
KẾT LUẬN
- Kết quả nắn chỉnh phục hồi hình thể
giải phẫu từ mức khá ≥ 92,8%; 2 BN (2,9%)
chỉ đạt mức trung bình; 3 BN (4,3%) ở
mức kém.
- Kết quả liền xương 100%. Kiểm tra
kết quả xa 62/69 BN (89,9%). Thời gian
theo dõi, đánh giá kết quả xa ngắn nhất
6 tháng, xa nhất 78 tháng, trung bình
33,74 tháng. Kết quả phục hồi chức năng:
tốt 52 BN (83,9%), khá 3 BN (4,8%), trung
bình 4 BN (6,5%), kém 3 BN (4,8%).
- Chỉ định tốt cho gãy KC không vững
theo chiều xoay, còn vững theo chiều
thẳng đứng (loại B theo phân loại của
Tile.M). Gãy không vững cả chiều xoay
và chiều thẳng đứng (loại C) cần chỉ định
kéo liên tục trước khi CĐN. BN có sốc
điều trị không hiệu quả, sau khi đã loại trừ
các nguyên nhân chảy máu từ cơ quan
khác ngoài KC, có chỉ định mổ cấp cứu
CĐN KC để giảm đau, hỗ trợ cầm máu,
chống sốc. Có thể CĐN KC trong cùng
cuộc mổ, xử trí tổn thương kết hợp nếu
tình trạng BN cho phép. CĐN KC sau xử
trí thương tổn bụng, tiết niệu để không
cản trở các thao tác trên vùng bụng và
trước khi phẫu thuật xương khớp khác.
- Vị trí xuyên đinh ở mào chậu. Nên làm
càng sớm càng tốt, có thể làm ngay tại
giường bệnh sau khi loại trừ cấp cứu bụng
ngoại khoa.
- Biến chứng nhiễm khuẩn chân đinh
51/276 chân đinh (18,47%) với 22/69 BN
(31,9%). Số chân đinh nhiễm khuẩn phải
can thiệp điều trị (độ III): 8/51 (16%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Vĩnh Thống, Ngô Bảo Khang và
CS. Cố định ngoài KC. Số đặc biệt thành tựu
khoa học 5 năm Bệnh viện Chợ Rẫy. Y học
Thành phố Hồ Chí Minh. 2002, tr.57-64.
2. Phạm Đăng Ninh và CS. Kết quả điều
trị gãy KC không vững bằng khung CĐN tại
Bệnh viện Quân y 103. Tạp chí Y - Dược học
quân sự. Học viện Quân y. 2011, số 3, tr.98.
3. Nguyễn Ngọc Toàn. Nghiên cứu điều trị
gãy KC không vững bằng khung CĐN. Luận án
Tiến sỹ Y học. Học viện Quân y. 2013.
4. Melton L.J, Sampson J.M et al.
Epidemiologic features of pelvic fracture.
Clin Orthop & Related Research. 1981, 155,
pp.43-147.
5. M Tile. Classification of Pelvic Ring
Injuries. 3rd edition. Lippincott Williams &
Wilkins. 2003.
6. Pol M. Rommens, Martin H. Hessmann.
External fixation for the injured pelvic ring.
Fractures of the Pelvis and Acetabulum.
3rd edition © 2003 Lippincott Williams & Wilkins.
2003.
T¹p chÝ Y - d−îc häc qu©n sù sè 7-2018
76
7. Pavlin A, Martin B, Petar M. Methods
and techniques of percutaneous external
fixation in pelvic fractures. Journal of IMAB -
Annual Proceeding (Scientific Papers). 2011,
Vol 17, Book 1.
8. Richard C. Henderson. The long-term
results of nonoperatively treated major pelvic
disruptions. Journal of Orthopaedic Trauma.
1989, Vol 3, No 1, pp.41-47.
9. Majeed S.A. Grading the outcome of
pelvic fractures. J Bone and Joint Surg. 1989,
71B, pp.304-306.
10. John Gorczyca, Trevor Hearn, M Tile.
Biomechanics and methods of pelvic fixation.
Fractures of the Pelvis and Acetabulum. 3rd
edition © Lippincott Williams & Wilkins. 2003.
11. Berton R. Moed, James F. Kellam,
Alexander Mc Laren. Internal fixation for the
injured pelvic ring. Fractures of the Pelvis and
Acetabulum. 3rd edition © Lippincott Williams
& Wilkins. 2003.
12. Kim W.Y, Hearn T.C, Seleem O et al.
Effect of pin location on stability of pelvic
external fixation. Clin Orthop. 1999, 361, p.237.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhan_xet_ket_qua_dieu_tri_gay_khung_chau_khong_vung_bang_khu.pdf