Nhận xét kết quả nội soi phế quản ống mềm trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hô hấp ở trẻ em tại bệnh viện trẻ em Hải Phòng

KẾT LUẬN Qua kết quả nghiên cứu ở 77 bệnh nhi và bàn luận ở trên, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau: 5.1. Về hình thái tổn thương quan sát được qua nội soi Viêm niêm mạc phế quản cấp được quan sát thấy ở 63 trường hợp (83,1%), dị vật ở 7 trường hợp (9,1%), dị dạng thanh quản 2 trường hợp (2,6%), dị dạng khí phế quản 3 trường hợp (3,9%), tổn thương khác 1 trường hợp (1,3%). Trong các trường hợp viêm niêm mạc phế quản cấp thì 100% có sung huyết và xuất tiết niêm mạc phế quản, trong khi đó 35,9% có đờm quánh/nút đờm và 29,7% có bít tắc nhánh phế quản. Trong các trường hợp dị vật thì dị vật ở phế quản gốc phải gặp nhiều nhất (3/7 bệnh nhân) và chủ yếu là dị vật hữu cơ (6/7 bệnh nhân) như các loại hạt, thức ăn. 5.2. Kết quả của nội soi phế quản ống mềm NSPQ ống mềm được chỉ định trong 69/77 trường hợp (89,6%) với mục đích thăm dò chẩn đoán. Về các biện pháp can thiệp được thực hiện trong quá trình nội soi: bơm rửa phế quản được thực hiện nhiều nhất ở 64/77 bệnh nhi (83,1%); 6/7 bệnh nhi phát hiện dị vật đường thở qua NSPQ ống mềm được chuyển nội soi ống cứng gắp dị vật (7,8%); không can thiệp gì ở 7/77 ca (9,1%). Về tỷ lệ chẩn đoán trước và sau nội soi: viêm phế quản phổi kéo dài/tái diễn dẫn đến chỉ định thủ thuật ở 65/77 trường hợp; NSPQ ống mềm dẫn đến thay đổi chẩn đoán ở trường hợp (19,5%). Về tỷ lệ vi khuẩn phân lập được trong dịch hút phế quản: S.pneumoniae và H.influenzae chiếm đa số với 24,4% và 14,6%. Tai biến nhẹ và ít.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét kết quả nội soi phế quản ống mềm trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hô hấp ở trẻ em tại bệnh viện trẻ em Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
75 phần nghiên cứu NHẬN XÉT KẾT QUẢ NỘI SOI PHẾ QUẢN ỐNG MỀM TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ HÔ HẤP Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN TRẺ EM HẢI PHÒNG Phạm Văn Dương**, Hoàng Thị Diễm Hương*, Nguyễn Ngọc Sáng*, Vũ Trọng Tài** *Trường Đại học Y Dược Hải Phòng; **Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả các hình thái tổn thương đường hô hấp qua nội soi phế quản (NSPQ) ống mềm ở trẻ em; nhận xét kết quả của nội soi phế quản ống mềm trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hô hấp ở trẻ em tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng. Đối tượng: 77 bệnh nhi có bệnh lý hô hấp được chỉ định nội soi phế quản ống mềm tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng từ 06/2016 đến 02/2017. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả một loạt các ca bệnh. Kết quả: Đa số bệnh nhi có độ tuổi dưới 24 tháng; 89,6% bệnh nhi được nội soi phế quản ống mềm với mục đích chẩn đoán. Hình thái tổn thương hay gặp nhất là viêm niêm mạc phế quản cấp chiếm 83,1%, trong đó 100% các trường hợp có sung huyết và xuất tiết niêm mạc phế quản. Dị vật đường thở (n=7) gặp nhiều nhất ở phế quản gốc phải và đa số có nguồn gốc hữu cơ như các loại hạt và thức ăn. Nội soi phế quản ống mềm dẫn đến thay đổi chẩn đoán ở 19,5% số bệnh nhân, chủ yếu là các trường hợp dị vật và dị dạng đường thở. Bơm rửa phế quản được thực hiện ở 83,1% các bệnh nhi trong quá trình nội soi, dịch phế quản được nuôi cấy và phân lập được tác nhân gây bệnh ở 41 trường hợp, trong đó S.pneumonia và H.influenzae chiếm tỷ lệ cao nhất, lần lượt là 24,4% và 16,4%. Tỷ lệ tai biến thấp và nhẹ. Kết luận: NSPQ ống mềm có vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hô hấp ở trẻ em với tính an toàn cao, có thể áp dụng rộng rãi. Từ khóa: Nội soi phế quản ống mềm, trẻ em. ABSTRACT REMARK THE RESULTS OF FLEXIBLE BRONCHOSCOPY IN DIAGNOSIS AND TREATMENT OF PEDIATRIC RESPIRATORY DISEASES IN HAIPHONG CHILDREN HOSPITAL Pham Van Duong**, Hoang Thị Diem Huong*, Nguyen Ngoc Sang*, Vu Trong Tai** Objectives: Describe pediatric respiratory diseases observed via flexible bronchoscopy; remark the results of flexible bronchoscopy in diagnosis and treatment of pediatric respiratory diseases in Haiphong Children Hospital. Subjects: 77 patients were diagnosed respiratory diseases and underwent flexible bronchoscopy in Haiphong Children Hospital from 06/2016 to 02/2017. Methods: Case series study. Results: Almost patients are under 24 months old; 89.6% of children experienced flexible bronchoscopy for diagnostic purpose. The most common lesion morphology is acute bronchitis with Nhận bài: 19-7-2017; Thẩm định: 4-8-2017 Người chịu trách nhiệm chính: Phạm Văn Dương Địa chỉ: Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng tạp chí nhi khoa 2017, 10, 4 76 1. ĐẶT VẤN ĐỀ NSPQ là thủ thuật thăm khám đường thở ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết trong thăm dò, chẩn đoán và can thiệp các bệnh lý hô hấp. NSPQ có thể được thực hiện cả bằng ống nội soi cứng và ống nội soi mềm, phụ thuộc vào tình trạng của bệnh nhân, điều kiện cơ sở vật chất và kỹ năng của người nội soi. Trên thực tế, ống nội soi mềm được sử dụng rộng rãi hơn [1]. Ống nội soi mềm với ưu điểm về kích thước, có thể đi xuống những nhánh phế quản nhỏ, cung cấp hình ảnh trực tiếp của cây phế quản và phổi, đồng thời cho phép can thiệp điều trị tức thì và lấy mẫu bệnh phẩm xét nghiệm, mang lại lợi ích rõ rệt trong chẩn đoán và can thiệp điều trị các bệnh lý hô hấp [8]. Sự tiến bộ về phương tiện và kỹ thuật nội soi cho phép đánh giá và can thiệp trên những tổn thương đường thở ở đối tượng trẻ nhỏ. Tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng, NSPQ ống mềm mới được đưa vào tiến hành thường quy từ 06/2016. Vì vậy chúng tôi đặt ra câu hỏi phương pháp này hướng đến những đối tượng nào và kết quả cụ thể ra sao? Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với 2 mục tiêu: 1. Mô tả các hình thái tổn thương ở đường hô hấp qua nội soi phế quản ống mềm ở trẻ em tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng. 2. Nhận xét kết quả nội soi phế quản ống mềm trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hô hấp ở trẻ em tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Gồm 77 bệnh nhân có bệnh lý hô hấp được chỉ định NSPQ ống mềm tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng từ 06/2016 đến 02/2017. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả một loạt ca bệnh. Mỗi bệnh nhân có một bệnh án theo mẫu thiết kế, bao gồm các thông tin về tuổi, giới, nơi sinh sống, tình trạng bệnh lý, đặc biệt các thông tin về quá trình, kết quả cũng như tai biến của NSPQ được chúng tôi thu thập và xử lý, như các hình thái tổn thương quan sát được qua hình ảnh nội soi, các biện pháp can thiệp được thực hiện, sự khác biệt chẩn đoán trước và sau nội soi, kết quả nuôi cấy dịch hút phế quản tìm tác nhân gây bệnh, tai biến trong và sau nội soi. Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm thống kê y học SPSS 20.0. Nghiên cứu được cho phép bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Trường Đại học Y Dược Hải Phòng. Đối tượng tham gia nghiên cứu là tình nguyện. Thông tin về bệnh nhân được giữ kín và chỉ phục vụ nghiên cứu khoa học. 3. KẾT QUẢ 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu gồm 77 trẻ từ 0 đến 16 tuổi, đa số trẻ nhỏ hơn 24 tháng tuổi (n=66), trong đó nhóm từ 1 tháng đến dưới 2 tuổi chiếm 51,9% (n=40). Số lượng nam là 55, nữ là 22, tỷ lệ nam : nữ là 2,5, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Tỷ lệ bệnh nhi đến từ thành thị là 23,4% (n=18), còn lại đến từ nông thôn (n=59), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. 83.1%, in which bronchial congestion and secretion appeared in 100% of patients. Airway foreign bodies (n=7) almost located in right main bronchus and had organic origin such as nuts and pieces of food. After technique, diagnostic modification appears in 19.5% of patients. Bronchoalveolar lavage was performed in 83.1% children during procedure then fluid return was used for microbiological culturing; pathogenic factors were isolated in 41 cases which indicated that S.pneumoniae and H.influenzae were the most common with 24.4% and 16.4% respectively. Complications were rare and not severe. Conclusion: Flexible bronchoscopy is a quite safe procedure that plays an important role in diagnosis and treatment pediatric respiratory diseases, should be widely applied. Keyword: Flexible bronchoscopy, children. 77 phần nghiên cứu 3.2. Mô tả các hình thái tổn thương quan sát được qua nội soi phế quản ống mềm Bảng 1. Các hình thái tổn thương quan sát được qua nội soi phế quản ống mềm Hình thái tổn thương Số bệnh nhân(n) Tỷ lệ (%) Dị dạng thanh quản 2 2,6 Dị dạng khí - phế quản 3 3,9 Dị vật 7 9,1 Viêm niêm mạc phế quản cấp 64 83,1 Chảy máu mũi 1 1,3 Tổng 77 100 Nhận xét: Viêm niêm mạc phế quản cấp là tổn thương hay gặp nhất trên hình ảnh nội soi phế quản ống mềm (n=64), đứng thứ 2 là dị vật đường thở (n=7). Bảng 2. Các mức độ tổn thương viêm niêm mạc phế quản cấp Tổn thương Số bệnh nhân(n = 64) Tỷ lệ (%) Sung huyết niêm mạc phế quản 64 100 Xuất tiết dịch lòng phế quản 64 100 Đờm quánh, nút đờm 23 35,9 Bít tắc nhánh phế quản 19 29,7 Giả mạc 2 3,1 Nhận xét: 100% các trường hợp viêm niêm mạc phế quản cấp có sung huyết và xuất tiết dịch lòng phế quản. 29,9% có đờm quánh/nút đờm và 24,7% nhánh phế quản bị bít tắc. Bảng 3. Dị vật đường thở phát hiện được qua nội soi Dị vật Số BN ( n=7) Vị trí Thanh môn 1 Phế quản gốc (T) 2 Phế quản gốc (P) 3 Vị trí khác 1 Loại Hữu cơ Vô cơ 6 1 Nhận xét: Dị vật gặp ở phế quản gốc phải gặp nhiều nhất (n=3). Chủ yếu là dị vật hữu cơ (n=6) 3.3. Nhận xét kết quả của nội soi phế quản ống mềm 3.3.1. Mục đích chỉ định NSPQ ống mềm 89,6% số bệnh nhân được chỉ định NSPQ ống mềm nhằm mục đích thăm dò chẩn đoán (n=69); 10,4% được chỉ định với mục đích can thiệp điều trị. 3.3.2. Can thiệp trong nội soi tạp chí nhi khoa 2017, 10, 4 78 Bảng 4. Các biện pháp can thiệp được thực hiện trong quá trình nội soi Can thiệp Số bệnh nhân (n) Tỷ lệ(%) Chuyển nội soi ống cứng gắp dị vật 6 7,8 Bơm rửa phế quản 64 83,1 Không can thiệp 7 9,1 Tổng 77 100 Nhận xét: Bơm rửa phế quản là biện pháp được thực hiện nhiều nhất với 83,1%. 6/7 trường hợp phát hiện dị vật đường thở được chuyển qua nội soi ống cứng gắp dị vật. 3.3.3. Sự thay đổi chẩn đoán sau nội soi Bảng 5. Chẩn đoán trước và sau nội soi phế quản ống mềm Chẩn đoán Trước nội soi Sau nội soi Số BN (n) Tỷ lệ (%) Số BN (n) Tỷ lệ (%) Dị vật 4 5,2 7 9,1 Dị dạng 0 0 5 6,5 VPQP kéo dài/tái diễn 65 84,4 58 75,3 Ho ra máu 1 1,3 0 0 Xẹp phổi 7 9,1 7 9,1 Tổng 77 100 77 100 Nhận xét: Viêm phế quản phổi kéo dài/tái diễn là chỉ định hay gặp nhất của nội soi phế quản ống mềm. Có 3 ca dị vật và 5 ca dị dạng đường thở được phát hiện qua nội soi. Sự chênh lệch chẩn đoán trước và sau nội soi là 19,5% chủ yếu là các trường hợp dị vật và dị dạng đường thở. 3.3.4. Kết quả nuôi cấy dịch hút phế quản Bảng 6. Tỷ lệ các loại vi khuẩn phân lập được qua nuôi cấy dịch hút khí phế quản Tác nhân Số bệnh nhân(n = 41) Tỷ lệ (%) Vi khuẩn S.pneumoniae 10 24,4 H.influenzae 6 14,6 Klebsiella 5 12,2 S.viridans 4 9,7 M.catarrhalis 4 9,7 E.coli 3 7,3 S.epidermidis 3 7,3 P.aeruginosa 2 4,9 Acinetobacter 1 2,4 Nấm Candida albicans 3 7,3 Nhận xét: S.pneumoniae và H.influezae là vi khuẩn gặp nhiều nhất trong dịch hút phế quản, lần lượt là 24,4% và 14,6%. Có 3 trường hợp nhiễm nấm Candida albicans chiếm 7,3%. 79 phần nghiên cứu 3.3.5. Tai biến của nội soi phế quản ống mềm 03 trường hợp xuất hiện co thắt khí phế quản trong quá trình nội soi. 4. BÀN LUẬN 4.1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu - Về tuổi: đa số bệnh nhi có tuổi nhỏ hơn 2 tuổi (n=66), nhiều nhất là nhóm từ 1 tháng đến 2 tuổi (n=40), chiếm 51,9%. Theo số liệu của WHO, viêm phổi là bệnh xuất hiện phổ biến ở nhóm trẻ dưới 5 tuổi, và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở nhóm tuổi này với 16% [10]. Thống kê tại Mỹ, có từ 74 - 92/1000 trẻ đến khám vì viêm phổi ở độ tuổi nhỏ hơn 2 tuổi, trong khi tỷ lệ này là 35 – 52/1000 trẻ ở độ tuổi 3 – 6 tuổi [6]. Những số liệu trên cho thấy tỷ lệ viêm phổi ở trẻ dưới 5 tuổi là cao, đặc biệt ở nhóm dưới 2 tuổi, điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi khi có đến 80,5% số trẻ được chỉ định nội soi phế quản ống mềm do viêm phổi là trẻ nhỏ hơn 2 tuổi. - Về giới: Tỷ lệ bệnh nhi nữ là 28,6% (n=22); tỷ lệ bệnh nhi nam là 71,4% (n=55). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Sự khác biệt này có thể lý giải 1 phần là do sự chênh lệch giới tính khi sinh, số trẻ trai nhiều hơn số trẻ gái. Theo nghiên cứu của Đào Minh Tuấn tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2008 trên đối tượng trẻ em dưới 2 tháng tuổi cũng cho tỷ lệ bệnh nhi nam là 64,9% [1]. Nghiên cứu của Samia Hamouda cũng cho kết quả tỷ lệ trẻ trai là 60% [5]. - Về địa dư: Số trẻ đến từ ngoại thành chiếm 76,6% (n=59), cao hơn số trẻ đến từ nội thành 53,2% và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê p < 0,001. Hiện nay, có khoảng 68,3% dân số sống ở ngoại thành, do đó tỷ lệ bệnh nhân đến từ ngoại thành nhiều hơn nội thành là điều dễ hiểu. Hơn nữa, ngày nay sự giao lưu giữa nội thành và ngoại thành rất nhanh chóng và thuận tiện do vậy bệnh nhân ngoại thành đến Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng để được chữa bệnh là lựa chọn số một. 4.2. Mô tả các hình thái tổn thương quan sát được qua nội soi phế quản ống mềm - Viêm niêm mạc phế quản cấp là hình thái tổn thương hay gặp nhất chiếm 83,1% (n=63) tương ứng với số bệnh nhân viêm phế quản phổi có chỉ định nội soi phế quản ống mềm (n=65; 84,4%). Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của Samia Hamouda [5]. Trong các trường hợp trên thì 100% có sung huyết và xuất tiết niêm mạc phế quản ở các mức độ khác nhau; 35,9% có đờm quánh, nút đờm và 29,7% gây bít tắc một hoặc nhiều nhánh phế quản. Các tổn thương này là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng khó thở trên lâm sàng. - Dị vật: tất cả 7 trường hợp có dị vật đường thở đều thuộc độ tuổi từ 10 tháng đến 2,5 tuổi. Nghiên cứu của Alaaddin M Salih cũng chỉ ra rằng dị vật đường thở gặp nhiều nhất ở trẻ nhỏ hơn 3 tuổi [7]. Dị vật ở phế quản gốc phải là nhiều hơn cả (3/7 trường hợp), có thể giải thích do cấu trúc giải phẫu đường hô hấp khi phế quản gốc phải ngắn, dốc và to hơn phế quản gốc trái. Đa số là dị vật hữu cơ (6/7 trường hợp), trong đó chủ yếu là các loại hạt và các mảnh thức ăn. Sự phát triển chưa đầy đủ của bộ răng ở độ tuổi này làm giảm khả năng nhai, nghiền nát thức ăn; đồng thời việc cười, nói, chạy nhảy trong khi ăn làm tăng nguy cơ xuất hiện dị vật đường thở. - Dị dạng đường thở: qua nội soi phát hiện được 5 trường hợp có dị dạng đường thở bao gồm mềm sụn thanh quản (n=1), mềm sụn nắp thanh môn (n=1), hẹp phế quản (n=3). Các trường hợp này hầu hết đều dẫn đến thay đổi hướng điều trị tiếp theo như can thiệp ngoại khoa chỉnh sửa bất thường giải phẫu. 4.3. Chỉ định - Chỉ định NSPQ nhằm mục đích chẩn đoán: Hút dịch phế quản lấy bệnh phẩm, nghi ngờ dị vật đường thở, nghi ngờ dị dạng đường thở, nghi ngờ có u, chèn ép đường thở, tổn thương được gợi ý trên hình ảnh Xquang. - Chỉ định NSPQ nhằm mục đích điều trị: Bơm rửa phế quản, gắp dị vật, đặt giá đỡ khí – phế quản (Stent), can thiệp loại bỏ u nút nhầy bít tắc đường thở. tạp chí nhi khoa 2017, 10, 4 80 - Chống chỉ định: Không có chống chỉ định tuyệt đối, tuy nhiên cân nhắc NSPQ trong những trường hợp sau: suy hô hấp nặng (thở máy áp lực cao), suy tim nặng. 4.4. Nhận xét kết quả của nội soi phế quản ống mềm - Về mục đích chỉ định thủ thuật: NSPQ ống mềm được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò chẩn đoán khi chiếm đến 89,6% (n=69) số chỉ định, đặc biệt như trong các trường hợp như viêm phế quản phổi kéo dài/tái diễn đáp ứng kém với điều trị hoặc có biểu hiện của hội chứng xâm nhập trên lâm sàng cần phải tìm được nguyên nhân cụ thể trước khi đề ra biện pháp can thiệp phù hợp. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu của Samia Hamouda [5]. - Các biện pháp can thiệp được thực hiện trong nội soi: Bơm rửa phế quản được thực hiện trong 83,1% các trường hợp. Với tình trạng thực tế là phần lớn bệnh nhân được chẩn đoán viêm phế quản phổi, có sự ứ đọng đờm dãi và chất tiết thì bơm rửa phế quản là biện pháp hữu hiệu. Qua nội soi phát hiện nút đờm, giả mạc hay sự bít tắc nhánh phế quản thì đều được giải quyết nhờ bơm rửa phế quản. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 6/7 trường hợp phát hiện dị vật qua nội soi phế quản ống mềm đều được chuyển sang nội soi ống cứng để gắp dị vật, ngoại trừ 1 trường hợp phát hiện dị vật là mẩu bánh nhỏ đang có xu hướng tan dạng quánh được xử lý nhờ bơm rửa phế quản; điều này phù hợp với các khuyến cáo của hội Hô hấp châu Âu (ERS, 2003) và Hội Lồng ngực Mỹ (AST, 2015) đều cho rằng nội soi gắp dị vật bằng ống cứng có tỷ lệ thành công cao hơn và ít tai biến hơn [3] [4]. Trên thực tế, tất cả các trường hợp được nội soi phế quản ống mềm tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng đều sử dụng ống nội soi mềm Olympus có đường kính ngoài 2,8mm, là loại ống có kênh hút nhỏ, không phù hợp để gắp dị vật [8]. - Sự thay đổi chẩn đoán trước và sau nội soi: Trước nội soi, phần lớn các trường hợp (84,4%) chỉ định nội soi phế quản ống mềm là viêm phế quản phổi. Đây cũng là chỉ định hay gặp nhất trong nghiên cứu của Đào Minh Tuấn [1]. Xẹp phổi là chỉ định đứng thứ hai sau viêm phế quản phổi, nhằm mục đích tìm và giải quyết nguyên nhân như sự ứ đọng đờm dãi, nút đờm hay dị vật hô hấp. Theo Talamoni, nội soi phế quản ống mềm là thủ thuật an toàn và hiệu quả trong điều trị xẹp phổi kéo dài ở trẻ em khi nghiên cứu trên 32 bệnh nhân được chẩn đoán xẹp phổi thì 28/32 trường hợp cho kết quả tốt khi can thiệp điều trị qua nội soi phế quản ống mềm (phổi giãn nở một phần hoặc hoàn toàn) [9]. Đối với dị vật đường thở, trên lâm sàng chỉ phát hiện được 4/7 ca, đó là những trường hợp khai thác được tiền sử và có hội chứng xâm nhập rõ. Có thể thấy, nếu không có sự trợ giúp của NSPQ ống mềm thì nhiều trường hợp dị vật đường thở bị bỏ sót. Với các trường hợp có dị dạng đường thở không chẩn đoán được trên lâm sàng và các xét nghiệm khác, chỉ có dấu hiệu gợi ý về tiền sử viêm phế quản phổi kéo dài/tái diễn nhiều lần thì đều phát hiện được qua nội soi phế quản ống mềm. Tỷ lệ thay đổi chẩn đoán sau nội soi là 19,5%, đa số ở các trường hợp có hình thái đường thở bất thường và các trường hợp dị vât đường thở không có triệu chứng rõ ràng trên lâm sàng. Tỷ lệ này trong nghiên cứu của Đào Minh Tuấn là 28% [1]. - Tỷ lệ các tác nhân gây bệnh có trong dịch hút khí phế quản: Tác nhân gây bệnh chủ yếu là vi khuẩn, trong đó nhiều nhất là S.pneumoniae và H.influenzae lần lượt chiếm tỷ lệ 24,4% và 14,6%. Điều này cho thấy 2 loại vi khuẩn trên vẫn là những tác nhân gây viêm phổi chủ yếu ở trẻ em tại Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng. Theo thống kê của WHO năm 2016 cũng chỉ ra rằng S.pneuniae và H.influenzae là 2 loại vi khuẩn gây viêm phổi đứng hàng đầu ở trẻ em [10]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Yến cũng cho kết quả tương tự [2]. - Tai biến trong quá trình nội soi: nhẹ và ít, chỉ có 03 trường hợp có co thắt phế quản, được 81 phần nghiên cứu xử lý ngay tức thì và không để lại hậu quả gì. Điều này cho thấy NSPQ ống mềm là thủ thuật có tính an toàn cao, ngay cả ở đối tượng trẻ nhỏ. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Đào Minh Tuấn [1]. 5. KẾT LUẬN Qua kết quả nghiên cứu ở 77 bệnh nhi và bàn luận ở trên, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau: 5.1. Về hình thái tổn thương quan sát được qua nội soi Viêm niêm mạc phế quản cấp được quan sát thấy ở 63 trường hợp (83,1%), dị vật ở 7 trường hợp (9,1%), dị dạng thanh quản 2 trường hợp (2,6%), dị dạng khí phế quản 3 trường hợp (3,9%), tổn thương khác 1 trường hợp (1,3%). Trong các trường hợp viêm niêm mạc phế quản cấp thì 100% có sung huyết và xuất tiết niêm mạc phế quản, trong khi đó 35,9% có đờm quánh/nút đờm và 29,7% có bít tắc nhánh phế quản. Trong các trường hợp dị vật thì dị vật ở phế quản gốc phải gặp nhiều nhất (3/7 bệnh nhân) và chủ yếu là dị vật hữu cơ (6/7 bệnh nhân) như các loại hạt, thức ăn. 5.2. Kết quả của nội soi phế quản ống mềm NSPQ ống mềm được chỉ định trong 69/77 trường hợp (89,6%) với mục đích thăm dò chẩn đoán. Về các biện pháp can thiệp được thực hiện trong quá trình nội soi: bơm rửa phế quản được thực hiện nhiều nhất ở 64/77 bệnh nhi (83,1%); 6/7 bệnh nhi phát hiện dị vật đường thở qua NSPQ ống mềm được chuyển nội soi ống cứng gắp dị vật (7,8%); không can thiệp gì ở 7/77 ca (9,1%). Về tỷ lệ chẩn đoán trước và sau nội soi: viêm phế quản phổi kéo dài/tái diễn dẫn đến chỉ định thủ thuật ở 65/77 trường hợp; NSPQ ống mềm dẫn đến thay đổi chẩn đoán ở trường hợp (19,5%). Về tỷ lệ vi khuẩn phân lập được trong dịch hút phế quản: S.pneumoniae và H.influenzae chiếm đa số với 24,4% và 14,6%. Tai biến nhẹ và ít. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Minh Tuấn (2008), “Đánh giá kết quả nội soi phế quản ở trẻ em dưới 2 tháng tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương”, Tạp chí Y học thực hành, 2009. 2. Nguyễn Thị Yến, Phạm Thu Nga, Lê Văn Tráng (2012), “Kháng kháng sinh của Haemophilus influenza và Moraxella Catarrhalis gây viêm phổi ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Thanh Hóa năm 2012”, Tạp chí nghiên cứu y học, 91(5), 52-56. 3. American Thoracic Society (2015), “Official American Thoracic Society Techical Standards: Flexible Aiway Endoscopy in Children”, American Journal of Respiratory and Critical Care Medicine. 191(9), 1066-1080. 4. European Respiratory Society (2000), “Bronchoalveolar lavage in children”, European Respiratory Journal, 15, 217-231. 5. Hamouda S, Oueslati A, Belhadj I et al (2016), “Flexible bronchoscopy contribution in the approach of diagnosis and treatment of children’s respiratory diseases: the experience of a unique pediatric unit in Tunisia”, Afr Health Sci. 16(1), 51-60 6. John S Bradley, Carrie L Byington, Samir S Shah et al (2011), “The Management of Community- Acquired Pneumonia in Infants and Children Older than 3 months of age: Clinical practice guidelines by the Pediatric Infectious Diseases Society and the Infectiuos Diseases Society of American”, Pediatrics - Oficcal Journal of American Academy of Pediatrics, 128(6), e1677. 7. Salih A M, Alfaki M, Alam - Elhuda D M (2016), “Airway foreign bodies: A critical review for a common pediatric emergency”, World J Emerg Med. 7(1), 5-12. 8. Soyer T (2016), “The role bronchoscopy in the diagnosis of airway disease in children”, J Thorac Dis. 8 (11), 3420-3426. 9. Talamoni HL, Pisapia N D, Buendia J A (2015), “Flexible Fiberoptic Bronchoscopy in children with persistent atelectasis: a case series report”, Arch Argent Pediatr. 113(2), e106-8. 10. WHO (2016), “Pneumonia”, who.int/mediacentre/factsheets/fs331/en/.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhan_xet_ket_qua_noi_soi_phe_quan_ong_mem_trong_chan_doan_va.pdf
Tài liệu liên quan