Ưu, nhược điểm của kỹ thuật
MWA trong điều trị tổn thương lành
tính ở vú
- Ưu điểm: Là can thiệp tối thiểu, chỉ
cần thực hiện gây tê khi làm thủ thuật.
Thêm vào đó, nhờ có hỗ trợ trên kim nhỏ
(16G) giúp can thiệp vào nhiều tổn
thương cùng lúc mà không gây thêm tổn
thương hoặc biến dạng vú. Bên cạnh việc
thao tác nhanh, kỹ thuật này hoàn toàn
không để lại sẹo trên da, đảm bảo tính
thẩm mỹ cho BN.
- Nhược điểm: Không xác định được
chính xác tính lành hoặc ác của một tổn
thương. Mẫu sinh thiết lấy ra từ kim nhỏ
rất dễ cho kết quả âm tính giả, gây khó
khăn trong quy trình theo dõi sau thủ
thuật. Cần làm thêm xét nghiệm mô học
để xác định. Sinh thiết vú chân không
(VABB) là một trong các phương pháp
giúp lấy được mẫu lớn hơn. Tuy nhiên,
do VABB sử dụng kim lớn (8G, 10G) nên
dễ gây tổn thương mô vú, đặc biệt trong
trường hợp BN có nhiều hoặc có tổn
thương lớn. Do vậy, chúng tôi ưu tiên sử
dụng phương pháp sinh thiết lõi theo kim
dẫn đường. Một kim dẫn đường được
đưa đến tổn thương để lấy mẫu sinh thiết
lõi. Sau đó, ăng-ten được đưa vào qua
kim dẫn đường để thực hiện MWA.
Phương pháp này không chỉ tránh được
bỏng da tại vị trí đâm kim mà còn giúp
giảm thiểu việc đâm kim nhiều lần làm tổn
thương các mô vú lân cận. Đáp ứng một
phần cũng là một hạn chế của kỹ thuật
này vì khiến BN cảm thấy lo lắng và
không hài lòng do vẫn có thể sờ thấy khối
u sau thủ thuật.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét kết quả sớm điều trị u, nang tuyến vú lành tính bằng vi sóng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
67
NHẬN XÉT KẾT QUẢ SỚM ĐIỀU TRỊ U, NANG TUYẾN
VÚ LÀNH TÍNH BẰNG VI SÓNG
Huỳnh Quang Khánh1, Ngô Quốc Hưng1, Nguyễn Văn Khôi1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tính an toàn và hiệu quả của phương pháp cắt đốt bằng vi sóng (MWA)
trong điều trị nang và các khối u vú lành tính. Đối tượng và phương pháp: 41 bệnh nhân (BN)
với tổng cộng 64 nang và u vú lành tính được cắt đốt bằng vi sóng, sau đó tiếp tục được theo
dõi từ tháng 8/2018 - 9/2019. Kết quả: Kích thước tổn thương trung bình 2,8 ± 0,6 cm (1,5 - 4,0
cm). Thời gian MWA trung bình 2,4 phút (0,5 - 7,5 phút). Kết quả siêu âm kiểm tra sau điều trị
bằng MWA cho thấy 100% nang lành tính và 85% khối u lành tính đáp ứng hoàn toàn, 15% khối
u lành tính đáp ứng một phần. Tính thẩm mỹ sau thủ thuật được 100% BN đánh giá xuất sắc.
Không xuất hiện phản ứng phụ, tái phát hoặc ác tính trong suốt thời gian theo dõi. Kết luận:
Việc áp dụng MWA điều trị nang và u lành tuyến vú cho hiệu quả cao. Các triệu chứng và kích
thước tổn thương giảm đáng kể sau điều trị. Đồng thời, phương pháp này còn đảm bảo tính
thẩm mỹ và khả năng hồi phục nhanh cho BN.
* Từ khóa: Tổn thương vú lành tính; U vú; Nang vú; Cắt đốt vi sóng.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thay đổi sợi bọc tuyến vú, bao gồm bướu
sợi tuyến, u xơ và u nhú, là loại u vú lành
tính phổ biến nhất. Thay đổi sợi bọc thường
gặp ở BN nữ, đặc biệt ở độ tuổi từ 20 - 40
[1]. Nang tuyến vú thường xuất hiện ở
phụ nữ tuổi tiền mãn kinh, từ 35 - 50 tuổi.
Bệnh nhân có thay đổi sợi bọc hoặc
nang tuyến vú sẽ được theo dõi định kỳ,
không cần can thiệp. Tuy nhiên, một số
tổn thương lớn có thể gây đau, đỏ và
căng tức, đặc biệt khi bị bội nhiễm hoặc
áp-xe. Do vậy, cần can thiệp các tổn
thương lành tính trong một số trường hợp
có xuất hiện triệu chứng hoặc liên quan
đến thẩm mỹ. Thông thường, thay đổi sợi
bọc sẽ được điều trị bằng phẫu thuật cắt
bỏ u. Phương pháp này thường gây đau,
mất máu và để lại sẹo lớn. Đối với nang
vú, phương pháp hút bằng kim nhỏ được
áp dụng cho nang có kích thước nhỏ, tuy
nhiên, khả năng tái phát khá cao; phẫu
thuật lấy nang được áp dụng với các
nang lớn, tái phát, tuy nhiên, phương
pháp này gây đau và để lại sẹo.
Trong những năm gần đây, MWA
được sử dụng rộng rãi trong cắt đốt khối
u ở thận, gan và phổi, tuyến giáp, tuyến
vú. Mặc dù MWA dưới hướng dẫn của
hình ảnh rất hữu ích, tuy nhiên nghiên
cứu về đề tài này trong điều trị tổn
thương ở vú còn rất hạn chế [2], đặc biệt
là ở Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này: Đánh giá tính an toàn và
hiệu quả của kỹ thuật MWA trong điều trị
các tổn thương lành tính tuyến vú.
1. Bệnh viện Chợ Rẫy
Người phản hồi: Huỳnh Quang Khánh (huynhquangkhanhbvcr@gmail.com)
Ngày nhận bài: 20/12/2020
Ngày bài báo được đăng: 9/4/2020
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
68
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân có tổn thương vú lành tính:
một u hay nhiều u, một bên vú hay cả hai
vú được thực hiện MWA trong vòng 12
tháng, từ tháng 8/2018 - 9/2019 tại Khoa
Tuyến vú, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Bệnh nhân được giải thích cụ thể về
nội dung, mục đích của nghiên cứu và
đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
- U, nang tuyến vú một hoặc hai bên.
- Nang tuyến vú có kích thước ≥ 10 mm,
tái phát hoặc nang lớn có triệu chứng.
- U lành tuyến vú.
- Thực hiện chọc hút dịch nang xét
nghiệm tế bào dưới hướng dẫn siêu âm,
hoặc sinh thiết lõi u vú dưới hướng dẫn
siêu âm có kết quả lành tính.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân đang hành kinh.
- Bệnh nhân đang cho con bú.
- Bệnh nhân áp-xe vú.
2. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả
cắt ngang, theo dõi dọc.
* Quy trình điều trị:
- Chuẩn bị BN: Vị trí của nang và u
được xác định bằng siêu âm để xác định
hướng tiếp cận dễ nhất và an toàn nhất.
Tiêm 2 ml lidocaine 2% qua da và tại vùng
xung quanh tổn thương để gây tê cục bộ.
- Cắt đốt bằng vi sóng: Bằng phương
tiện của hãng Medwaves (hình 1) theo
quy trình của Xu và CS [3]. Tùy vào kích
thước của nang hoặc khối u để lựa chọn
loại ăng-ten phù hợp (bảng 1). Để tránh
bỏng da, nhiệt độ đốt đặt ở mức 70°C,
thời gian đốt chỉ từ 1 - 3 phút.
Hình 1: Bộ phát vi sóng và các kim đốt.
Bảng 1: Loại ăng-ten.
Diện tích đốt tối
đa
Loại Khẩu kính
Độ
dài
(cm) Rộng (cm)
Sâu
(cm)
Nhỏ 16 2 2,5 3,0
Mini 16 1 1,3 1,4
Thủ thuật chọc hút bằng kim nhỏ được
thực hiện trước khi cắt đốt nang vú, tiến
hành theo trình tự như sau: Đầu tiên, một
ăng-ten được đặt vào trong lòng nang.
Tiếp đó, đưa kim nhỏ vào để hút toàn bộ
dịch, trong khi vẫn giữ nguyên vị trí của
ăng-ten. Cuối cùng, toàn bộ nang được
cắt đốt bằng MWA. Dịch trong nang được
gửi đi làm xét nghiệm mô bệnh học.
Tiến hành thủ thuật bằng cách đâm
ăng-ten vào tổn thương để cắt đốt. Có thể
điều chỉnh vị trí đặt ăng-ten bằng cách di
chuyển kim nhiều lần, để đảm bảo vùng
cắt đốt bao phủ toàn bộ tổn thương,
đồng thời ít gây ảnh hưởng đến các mô
lân cận.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
69
Các dấu hiệu sinh tồn, triệu chứng đau,
nôn ói, mệt mỏi và khó thở được theo dõi
trong suốt quá trình làm thủ thuật.
Ngưng thủ thuật khi fentanyl không
giúp kiểm soát đau cho BN, hoặc có biến
chứng nặng xảy ra.
- Theo dõi sau cắt đốt:
Sau thủ thuật, BN được giữ lại để theo
dõi trong 24 giờ. Dấu hiệu sinh tồn được
ghi nhận 1 tiếng/lần trong 2 giờ đầu, sau
đó 3 tiếng/lần trong 24 giờ tiếp theo. Các
triệu chứng sau cắt đốt như đau, sốt, mệt
mỏi, buồn nôn, chóng mặt, khó thở
được ghi nhận và xử trí. Trường hợp xảy
ra biến chứng được xác định và xử trí
sớm nhất dưới sự hỗ trợ của xét nghiệm
và chẩn đoán hình ảnh.
Các tổn thương sau cắt đốt được theo
dõi qua siêu âm sau 1 tuần, 3, 6 và 12 tháng.
* Các chỉ tiêu nghiên cứu:
- Tuổi, đặc điểm u vú, vị trí, kích thước,
phân loại BIRADS trên siêu âm hay nhũ
ảnh, số lượng tổn thương mỗi bên vú, tổn
thương có sờ thấy hay không.
- Phương pháp đốt u: Hoàn toàn hay
không, thời gian đốt.
- Đánh giá an toàn: Dựa trên tỷ lệ tử
vong và biến chứng trong và sau thủ
thuật (tụ máu, bỏng da, đau, mất dấu tổn
thương trên siêu âm).
- Đánh giá hiệu quả điều trị: Dựa trên
tỷ lệ giảm kích thước được tính theo
đường kính lớn nhất so sánh với tổn
thương trước khi cắt đốt. Tổn thương có
sờ thấy. Ngoài ra tính thẩm mỹ và sự hài
lòng của BN cũng được đánh giá.
Bảng 2: Bảng phân loại đánh giá hiệu
quả điều trị.
Tổn thương sau cắt đốt Phân loại
đáp ứng
Tỷ lệ giảm
kích thước
Các dấu hiệu
khác trên siêu
âm
Đáp ứng
hoàn toàn
> 80% Không có gì
Đáp ứng
một phần
≥ 20% và ≤
80%
Hoại tử hoặc tạo
hang trung tâm
Không đáp
ứng
< 20% - Dạng đặc
- Không hoại tử
hoặc tạo hang
trung tâm
Theo dõi sau thủ thuật, hiệu quả điều
trị được đánh giá tại thời điểm 3, 6 và
12 tháng vì kích thước của tổn thương
còn tiếp tục giảm sau 1 năm [4].
- Dừng theo dõi khi BN được đánh giá
đáp ứng hoàn toàn. Các trường hợp
được đánh giá đáp ứng một phần hoặc
không đáp ứng trong lần thăm khám
trước đó được tiếp tục theo dõi đến khi
đáp ứng hoàn toàn hoặc kết thúc 12 tháng
theo dõi.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu 41 BN với 64 nang và khối
u có kết quả mô bệnh học lành tính được
cắt đốt bằng vi sóng dưới hướng dẫn của
siêu âm:
Độ tuổi trung bình 45,71± 12,36, trẻ
nhất 24 tuổi, lớn nhất 73 tuổi.
1. Đặc điểm tổn thương
Kích thước tổn thương trung bình
2,8 ± 0,6 cm, nhỏ nhất 1,5 cm và lớn nhất
4,0 cm.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
70
Bảng 3: Đặc điểm và phân bố của tổn
thương (n = 41).
Đặc điểm n (%)
Cả 2 bên vú 23 (56,1)
Vú trái 12 (29,3)
Vị trí
Vú phải 6 (14,6)
Nang lành 27 (65,9)
U lành 14 (34,1)
BIRADS 2 27 (65,9)
BIRADS 3 13 (31,7)
Đặc điểm tổn
thương
BIRADS 4 1 (2,4)
2. Vị trí của tổn thương
Bảng 4: Vị trí của tổn thương (n = 64).
Đặc điểm, vị trí tổn thương n (%)
1 tổn thươnga 18 (28,1)
2 tổn thươnga 41 (64,1)
3 tổn thươnga 3 (4,7)
4 tổn thươnga 2 (3,1)
Nằm sát bề mặt da 7 (10,9)
Nằm sát cơ ngực 9 (14,1)
Nằm sát quầng vú 11 (17,2)
Nằm trong mô vú 37 (57,8)
Sờ thấy 59 (92,2)
Không sờ thấy 5 (7,8)
(a: Số lượng tổn thương nằm ở 1 bên vú)
3. Kết quả thủ thuật
- Thời gian đốt trung bình 2,4 phút,
ngắn nhất 0,5 phút, dài nhất 7,5 phút.
- 100% tổn thương vú lành tính được
đốt bằng vi sóng, cho thấy tổn thương
được đốt hoàn toàn khi được đánh giá
bằng hình ảnh siêu âm.
- Tất cả đều thực hiện tê tại chỗ, không
trường hợp nào phải sử dụng fentanyl.
* Tai biến, biến chứng: Dị ứng thuốc tê:
1 BN (2,4%); đau trong lúc phẫu thuật:
2 BN (4,8%); không gặp trường hợp nào
bỏng da và tử vong.
Sau thủ thuật cắt đốt, 1 BN (2,4%) dị
ứng thuốc tê, được xử trí như trường hợp
sốc phản vệ và đã ổn định.
Ngoài ra, 2 BN (4,8%) cảm thấy đau
trong quá trình cắt đốt. Nguyên nhân do vị
trí tổn thương nằm sát thành ngực, đã
được xử trí tiêm thuốc tê để tách khối u ra
xa thành ngực. Sau đó, tiếp tục thực hiện
MWA và loại bỏ được tổn thương.
Tương tự, với trường hợp có thời gian
cắt đốt lâu nhất (2,4%), do vị trí đâm kim
bị nóng lên, cần gây tê cục bộ để giảm
đau. Kết quả, tổn thương được cắt bỏ
hoàn toàn, BN không bị bỏng.
Mặc dù một số trường hợp tổn thương
nằm sát da hoặc quầng vú, nhưng không
BN nào bị bỏng da. Không trường hợp
nào bị mất hình ảnh trên siêu âm do sử
dụng lượng lớn thuốc gây tê, cũng như bị
chảy máu hoặc tụ máu sau cắt đốt.
* Theo dõi:
Thời gian theo dõi trung bình là 08 tháng,
ngắn nhất 3 tháng và dài nhất 12 tháng.
Bảng 5: Đặc điểm tổn thương sau can
thiệp.
Đặc điểm tổn
thương
Trước can
thiệp
n (%)
Sau can
thiệp
n (%)
Sờ thấy 59 (92,2) 4 (6,2)
Không sờ thấy 5 (7,8) 60 (93,8)
Tổng 64 (100,0) 64 (100,0)
Tỷ lệ tổn thương không sờ thấy tăng
từ 7,8 lên 93,8%.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
71
Bảng 6: Đánh giá hiệu quả điều trị.
Loại tổn thương
Phân loại đáp ứng U lành
n (%)
Nang
n (%)
Đáp ứng hoàn toàn 12 (85) 27 (100)
Đáp ứng một phần 2 (15) 0 (0)
Không đáp ứng 0 (0) 0 (0)
Tổng 14 (100) 27 (100)
Kiểm tra dưới hình ảnh siêu âm: 100%
nang và 85% u lành tính đáp ứng hoàn
toàn, 15% tổn thương lành tính đáp ứng
một phần trong suốt quá trình theo dõi.
Tất cả BN đều hài lòng về tính thẩm
mỹ sau thủ thuật. Hoàn toàn không xuất
hiện phản ứng phụ, tái phát hoặc ác tính
trong suốt quá trình theo dõi.
BÀN LUẬN
Để giảm thiểu đau, mất máu và sẹo, kỹ
thuật xâm lấn tối thiểu kết hợp với hình
ảnh dẫn đường là phương pháp hữu hiệu
trong điều trị cắt bỏ tổn thương ở vú. Tuy
nhiên, hầu hết các nghiên cứu gần đây
chỉ tập trung vào việc cắt đốt các tổn
thương ác tính [5, 9], chỉ có một vài tác
giả sử dụng MWA trên các u vú lành
[3, 4, 10].
1. Lựa chọn cỡ ăng-ten và năng lượng
cắt đốt
Sử dụng ăng-ten nhỏ để đốt các tổn
thương có kích thước > 2 cm và kim rất
nhỏ cho tổn thương < 2 cm.
Có 2 chế độ lựa chọn năng lượng cắt
đốt: Theo nhiệt độ và theo năng lượng.
Xu J. và CS, Zhang W. và CS, cũng như
Yu J. và CS lựa chọn theo năng lượng,
duy trì năng lượng đốt ở mức 30W, 40W
và 28.3W [3, 4, 10]. Duy trì mức năng
lượng sẽ dẫn đến việc nhiệt độ cắt đốt bị
thay đổi. Chúng tôi lựa chọn chế độ nhiệt
độ để duy trì nhiệt độ đốt. Khi tiếp xúc với
nhiệt độ từ 46 - 60°C, các tế bào sẽ bị
hoại tử, cấu trúc mô bị thay đổi không
phục hồi được tùy vào thời gian tiếp xúc,
trong khi nhiệt độ từ 60 - 100°C có thể
gây chết tế bào ngay lập tức. Do vậy,
nhiệt độ sử dụng để cắt đốt cần được
thiết lập trong khoảng 60 - 100°C. Tuy
nhiên, do hiện tượng truyền nhiệt, nếu để
nhiệt độ đốt phát ra ở đầu ăng-ten quá
lớn sẽ rất dễ gây bỏng da (tại vị trí đâm
kim). Ngược lại, nhiệt độ đốt thấp sẽ kéo
dài thời gian cắt đốt. Vì vậy, để phá hủy
hoàn toàn các tế bào của tổn thương,
đồng thời tránh làm bỏng da BN, chúng
tôi lựa chọn mức nhiệt độ duy trì tại đầu
ăng-ten là 70°C .
Tổng cộng 64 tổn thương lành tính
trên 41 BN được cắt đốt bằng phương
pháp MWA dưới hướng dẫn của siêu âm.
Kích thước trung bình của nang và u là
2,8 ± 0,6 cm, nhỏ nhất 1,5 cm và lớn nhất
4,0 cm. Thời gian đốt trung bình 2,4 phút,
nhanh nhất 0,5 phút và lâu nhất 7,5 phút.
Toàn bộ tổn thương đã được loại bỏ,
không trường hợp nào bị bỏng da.
Yu J. và CS [10] nghiên cứu trên 122
BN với 198 tổn thương đã được cắt đốt
bằng vi sóng với năng lượng trung bình
28,3 ± 6,2W, thời gian đốt trung bình 3,2
phút. Kết quả: 99,5% tổn thương được
loại bỏ hoàn toàn, chỉ 1 tổn thương lớn
(3,6 cm) được cắt bỏ một phần.
Zhang W. và CS [4] cũng sử dụng
MWA cắt đốt 205 tổn thương vú lành tính
trên 182 BN với mức năng lượng 40W.
Kết quả kiểm tra bằng siêu âm cản quang
cho thấy 87,32% tổn thương được cắt bỏ
hoàn toàn.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
72
2. Biến chứng và mức an toàn
Có 2 nguyên nhân dẫn đến bỏng da.
Đầu tiên do sự truyền nhiệt trên ăng-ten.
Nhiệt độ được tạo ra ở đầu kim đốt được
truyền lên toàn bộ thân kim, khiến vùng
da ở vị trí đâm kim dễ bị bỏng. Để tránh
hiện tượng bỏng gây ra do dẫn nhiệt,
nhiệt độ đốt cần được để ở mức 70°C.
Nguyên nhân thứ hai là vị trí của tổn
thương. Đối với các tổn thương nằm sát
bề mặt da, nhiệt độ cắt đốt cũng đồng
thời làm nóng vùng da lẫn các mô lân
cận, dễ dẫn đến bỏng da. Khi đó, cần
tiêm thuốc tê để tách rời tổn thương khỏi
bề mặt da.
2 BN (4,8%) cảm thấy đau khi đang
cắt đốt, nguyên nhân do tổn thương nằm
sát da và thời gian đốt kéo dài, đã xử trí
tiêm thêm thuốc tê. Tuy nhiên, cần điều
chỉnh lượng thuốc tê cho phù hợp, quá ít
có thể khiến BN đau, quá nhiều có thể
làm mất dấu tổn thương trên hình ảnh
siêu âm.
Đặc biệt, 1 BN (2,4%) bị dị ứng với
thuốc tê, vấn đề này đã được thể hiện
trong tiền sử bệnh, tuy nhiên kết quả xét
nghiệm trước khi thực hiện thủ thật không
ghi nhận phản ứng dị ứng nào. Chúng tôi
đã theo dõi xử trí khi có hiện tượng sốc
trước khi tiến hành thủ thuật. Các triệu
chứng phản vệ bắt đầu xuất hiện khi việc
cắt đốt gần như đã hoàn thành, nói cách
khác khi này khối u đã được loại bỏ hoàn
toàn. Sau khi ngừng thủ thuật và xử trí
phản vệ, tình trạng của BN ổn định và
không có diễn tiến nặng.
Nhìn chung, mức độ đau và cảm giác
nóng khi thực hiện cắt đốt ở mức tất cả
BN có thể chịu được. Đồng thời, không
xuất hiện biến chứng nào. Kết quả này
khá tương đồng với nghiên cứu của Yu J.
và CS [10]. Nghiên cứu của Zhang W. và
CS, các biến chứng như đau, da sưng
đỏ, giãn ống dẫn sữa và chảy mỡ gặp 69
ca (38%). Tuy nhiên, các biến chứng trên
giảm đi hoặc mất hoàn toàn sau khi được
điều trị triệu chứng [4].
Sau thủ thuật BNđược theo dõi định kỳ
từ 3 - 12 tháng, trung bình là 8 tháng, tùy
đáp ứng của tổn thương sau thủ thuật. Số
tổn thương sờ thấy giảm từ 59 (92,2%)
xuống còn 4 (6,3%) sau điều trị và theo
dõi. Trong nghiên cứu của Yu J. và CS
[10], theo dõi sau 14 tháng, tỷ lệ tổn
thương sờ thấy cũng giảm nhưng còn
khá cao (từ 90,2% xuống 45,9%). Kết quả
kiểm tra bằng siêu âm cho thấy, 100% tổn
thương dạng nang và 85% tổn thương
dạng u đáp ứng hoàn toàn, 15% tổn
thương dạng u đáp ứng một phần trong
thời gian theo dõi, cao hơn so với nghiên
cứu của Zhang W. và CS [4]. Về tính
thẩm mỹ, sau thủ thuật, 100% BN đều
cảm thấy hài lòng. Không xảy ra bất kỳ
phản ứng phụ, tái phát hoặc ác tính.
3. Ưu, nhược điểm của kỹ thuật
MWA trong điều trị tổn thương lành
tính ở vú
- Ưu điểm: Là can thiệp tối thiểu, chỉ
cần thực hiện gây tê khi làm thủ thuật.
Thêm vào đó, nhờ có hỗ trợ trên kim nhỏ
(16G) giúp can thiệp vào nhiều tổn
thương cùng lúc mà không gây thêm tổn
thương hoặc biến dạng vú. Bên cạnh việc
thao tác nhanh, kỹ thuật này hoàn toàn
không để lại sẹo trên da, đảm bảo tính
thẩm mỹ cho BN.
- Nhược điểm: Không xác định được
chính xác tính lành hoặc ác của một tổn
thương. Mẫu sinh thiết lấy ra từ kim nhỏ
rất dễ cho kết quả âm tính giả, gây khó
khăn trong quy trình theo dõi sau thủ
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
73
thuật. Cần làm thêm xét nghiệm mô học
để xác định. Sinh thiết vú chân không
(VABB) là một trong các phương pháp
giúp lấy được mẫu lớn hơn. Tuy nhiên,
do VABB sử dụng kim lớn (8G, 10G) nên
dễ gây tổn thương mô vú, đặc biệt trong
trường hợp BN có nhiều hoặc có tổn
thương lớn. Do vậy, chúng tôi ưu tiên sử
dụng phương pháp sinh thiết lõi theo kim
dẫn đường. Một kim dẫn đường được
đưa đến tổn thương để lấy mẫu sinh thiết
lõi. Sau đó, ăng-ten được đưa vào qua
kim dẫn đường để thực hiện MWA.
Phương pháp này không chỉ tránh được
bỏng da tại vị trí đâm kim mà còn giúp
giảm thiểu việc đâm kim nhiều lần làm tổn
thương các mô vú lân cận. Đáp ứng một
phần cũng là một hạn chế của kỹ thuật
này vì khiến BN cảm thấy lo lắng và
không hài lòng do vẫn có thể sờ thấy khối
u sau thủ thuật.
KẾT LUẬN
Ứng dụng kỹ thuật MWA điều trị tổn
thương vú lành tính có tính khả thi và hiệu
quả cao: Các triệu chứng và kích thước
tổn thương giảm đáng kể sau điều trị;
đồng thời, tính thẩm mỹ và khả năng hồi
phục nhanh cho BN cũng được đảm bảo.
Đây là một kỹ thuật mới, mặc dù còn
một số hạn chế nhưng là lựa chọn tốt cho
việc điều trị các tổn thương ở vú. Đây là
kỹ thuật xâm lấn tối thiểu giúp cắt bỏ
hoàn toàn nang và u vú lành tính mà
không cần phẫu thuật, không gây đau
đớn, mất máu, đồng thời không để lại sẹo
cho BN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Miltenburg D.M., Speight V.O. Benign
breast disease. Obstet and Gynecol Clin N
Am. 2008, 35, pp.285-300.
2. Schmitz A.C., Gianfelice D., Daniel B.L.
et al. Image-guided focused ultrasound ablation
of breast cancer: Current status, challenges,
and future directions. European Radiology.
2008, 18, pp.1431-1441.
3. Xu J., Wu H., Han Z. et al. Microwave
ablation of benign breast tumors: A
prospective study with minimum 12 months
follow-up. Int J Hyperthermia. 2018, 35(1),
pp.253-261.
4. Zhang W., Li J.M., He W. et al.
Ultrasound-guided percutaneous microwave
ablation for benign breast lesions: Evaluated
by contrast-enhanced ultrasound combined
with magnetic resonance imaging. J Thoracic
Disease. 2017, 9(11), pp.4767-4773.
5. Vargas H.I., Dooley W.C., Gardner R.A.
et al. Focused microwave phased array
thermotherapy for ablation of early-stage
breast cancer: Results of thermal dose
escalation. Annals of Surgical Oncology.
2004, 11(2), pp.139-146.
6. Zhou W., Jiang Y., Chen L. et al. Image
and pathological changes after microwave
ablation of breast cancer: A pilot study. Eur J
of Radiology. 2014, 83, pp.1771-1777.
7. Roubidoux M.A., Yang W., Starfford R.J.
Image-guided ablation in breast cancer
treament. Techniques in Vascular and
Interventional Radiology. 2014, 17, pp.49-54.
8. Flaming M.M., Holbrook A.I., Newell
M.S. Update on image-guided percutaneous
ablation of breast cancer. A Roentgen Ray
Society. 2017, 208(2), pp.267-274.
9. Huston T.L., Simmons R.M. Ablative
therapies for the treatment of malignant
diseases of the breast. The American J
Surgery. 2005,189, pp.694-701.
10. Yu J., Chen B.H., Zhang J. et al.
Ultrasound guided percutaneous microwave
ablation of benign breast lesions. Oncotarget.
2017, 8(45), pp.79376-79386.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhan_xet_ket_qua_som_dieu_tri_u_nang_tuyen_vu_lanh_tinh_bang.pdf