Cách ghép khối tế bào gốc
Theo những tài liệu mà chúng tôi có được,
chúng tôi là nhóm nghiên cứu duy nhất thực
hiện ghép khối tế bào gốc lấy từ máu tuỷ xương
tự thân theo phương pháp ly tâm vào ổ kết
xương căng dãn. Ngoài ra, tác giả Kitoh. H.(3)
ghép TBG trung mô lấy từ tuỷ xương tự thân
sau khi nuôi cấy và plasma giàu tiểu cầu vào ổ
căng dãn trong kéo dài chi.
Đã có nhiều tác giả ghép TBG tuỷ xương sau
khi được ly tâm giống chúng tôi và đều cho
rằng đây là phương pháp an toàn và khối TBG
sau khi tách được có mật độ số lượng các TBG
đựơc tăng lên nhiều lần(4,5,2). Chúng tôi tiến hành
tiêm TBG vào ổ căng dãn ngay sau khi ngừng
căng dãn. Chúng tôi cho rằng ổ căng dãn ở thời
điểm ngay sau ngừng căng dãn có các cấu trúc
nâng đỡ làm nơi cư trú cho tế bào gốc phát triển
sau khi được ghép, đồng thời đây cũng là thời
điểm ổ can xương có nhiều cytokin và các yếu tố
kích thích quá trình liền xương.
Chúng tôi cũng nhất trí với Kitoh H. về cách
ghép TBG trực tiếp vào ổ căng dãn bằng cách
tiêm trực tiếp khối TBG vào ổ căng dãn. Tuỳ
theo độ dài của ổ căng dãn mà ta có thể tiêm 2-3
điểm dọc theo mặt trước ổ căng dãn dưới hướng
dẫn của màn XQ tăng sáng. Ở thời điểm ngay
khi ngừng quá trình căng dãn, khi tiêm qua vỏ
xương vào trung tâm ổ căng dãn ta có cảm giác
rất rõ, khi bơm TBG có cảm giác bơm rất nhẹ. Vì
vậy, kỹ thuật ghép khối TBG vào ổ căng dãn là
đơn giản, nhanh chóng, an toàn. Do số lượng
TBG dao động tuỳ từng cá thể và hiện nay có rất
ít nghiên cứu về số lượng TBG cần thiết phải
ghép nên chúng tôi áp dụng chung cho tất cả
BN thể tích tuỷ xương lấy và ghép là như nhau.
Chúng tôi không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về thời gian liền xương trung bình ở
các BN có độ dài ổ căng dãn khác nhau. Cách
ghép khối TBG của chúng tôi đã cho kết quả liền
xương của ổ căng dãn rất khả quan. Tuy nhiên,
chúng tôi thấy rằng trong những nghiên cứu
tiếp theo cần nghiên cứu với số lượng BN lớn
hơn và nghiên cứu sâu hơn về mối liên quan
giữa mật độ/ số lượng TBG đựơc ghép với kết
quả liền xương của ổ kết xương căng dãn để tìm
ra mật độ/số lượng tối ưu TBG cần ghép vào ổ
kết xương căng dãn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 132 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận xét về hiệu quả ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân trong điều trị mất đoạn xương và ngắn chi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 351
NHẬN XÉT VỀ HIỆU QUẢ GHÉP TẾ BÀO GỐC TUỶ XƯƠNG TỰ THÂN
TRONG ĐIỀU TRỊ MẤT ĐOẠN XƯƠNG VÀ NGẮN CHI.
Đỗ Tiến Dũng*, NguyễnVăn Lượng*, Nguyễn Thị Thu Hà*, Lý Tuấn Khải*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Kết xương căng dãn trong kéo dài chi hoặc kết xương hai ổ thường yêu cầu thời gian điều trị dài.
Chúng tôi đã triển khai một kỹ thuật mới là ghép tế bào gốc (TBG) tuỷ xựơng tự thân vào ổ kết xương căng dãn
của xương chày.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 3/2008 đến tháng 5/2011, 30 bệnh nhân (BN) với 42
xương chày và xương đùi được kéo dài chi hoặc kết xương hai ổ tại bệnh viện của chúng tôi được ghép tế bào gốc
tuỷ xương tự thân khi hết giai đoạn căng dãn.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lâm sàng tiến cứu.
Kết quả nghiên cứu: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 29, 2 tuổi (19-45 tuổi). Độ dài trung bình của ổ
căng dãn là 6,94cm. 25 BN với 35 xương chày và 2 xương đùi đã liền xương và đã được tháo bỏ cố định ngoài
mà không có biến chứng. Thời gian liền xương trung bình là 29,8 ngày/1cm ở nhóm kéo dài chi và 36,1
ngày/1cm ở nhóm kết xương hai ổ; 5 BN đang trong quá trình điều trị. Thời gian liền xương trung bình được
rút ngắn hơn so với các nghiên cứu không sử dụng tế bào gốc với P<0,05.
Kết luận: Mặc dù, đây chỉ là kết quả bước đầu, ghép khối tế bào gốc tự thân vào ổ kết xương căng dãn đã rút
ngắn được thời gian liền xương cũng như thời gian điều trị bằng cách thúc đẩy quá trình hình thành xương mới
tại ổ kết xương căng dãn.
Từ khoá: Mất đoạn xương, ngắn chi, tế bào gốc tuỷ xương, kéo dài chi, kết xương hai ổ.
ABSTRACT
THE PRELIMINARY RESULT OF TRANSPLANTATION OF AUTOLOGUS BONES MARROW STEM
CELLS IN TREATMENT OF BONE DEFECT AND SHORT LIMB.
Do Tien Dung, Nguyen Van Luong, Nguyen Thi Thu Ha, Ly Tuan Khai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 351 - 357
Objectives: Distraction osteogenesis in leg lengthening or bone transport requires a long treatment period.
We developed a new technique of transplantation of autologus bone marrow stem cells in distraction osteogenesis
of tibia and femur.
Subjects and methods: From March, 2008 to June, 2011, 42 tibias and femurs of 30 patients were
lengthening or transported in our hospital and were transplanted cutanuos autologus bone marrow stem cells
when distraction period was finish.
Results: The average age was 29.2 years (19-45 years). The average amount of tibia lengthening was 6.94
cm. 35 tibias (18 patients) and 2 femurs (2 patients) were consolidation and were removed external fixation
without complications. The average healing index was 29.8 days/1cm in the leg lengthening group and 36.1
days/1cm in the bone transport group , 5 patients was during treatment. The average healing index was shortened
than that of other research without using stem cells with P<0.05.
* Bệnh viện Trung ương Quân Đội 108
Tác giả liên lạc: TS BS Lý Tuấn Khải, ĐT: 0912.023.465, Email: lytuankhaihh108@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 352
Conclusion: Although these result are still preliminary, transplantation of antilogous bone marrow stem
cells in distraction orthogenesis of tibia and femur could shortened the consolidation and the treatment period by
accelerating new bone formation in distraction orthogenesis.
Keywords: Bone defect, short limb, bone marrow stem cells, leg lengthening, bone transport.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phương pháp kết xương căng dãn, được
Ilizarov thực hiện từ năm 1952, để điều trị cho
những BN bị ngắn chi và mất đoạn xương ở
thân xương dài. Nhờ những ưu điểm của
phương pháp kết xương căng dãn mà nó đã
được áp dụng rộng rãi trên thế giới và đã đem
lại kết quả rất khả quan. Tuy nhiên, kéo dài chi
và kết xương hai ổ theo phương pháp kết xương
căng dãn đòi hỏi thời gian mang khung cố định
ngoài dài, gây không ít khó chịu và phiền toái
cho người bệnh(1,6).Trong những năm gần đây,
các nghiên cứu ứng dụng TBG trong điều trị
chậm liền xương, khớp giả, mất đoạn xương,
hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi, trên động
vật thực nghiệm và trên người bước đầu đã có
kết quả rất khả quan(4,2,3). Khối tế bào gốc tuỷ
xương có các thành phần có khả năng kích thích
quá trình liền xương: TBG trung mô, TBG tạo
máu, tế bào đơn nhân khác mà một số tế bào
này là nguồn gốc của các cytokin kích thích quá
trình tạo mạch máu và tạo xương(4,2). TBG trung
mô thường được nén vào các vật mang như
hydroxyapatid và tricancium phosphate hoặc xứ
xốp... để điều trị các khuyết xương lớn trên
động vật(4,2,7). Trên người, TBG trung mô sau khi
nuôi cấy được Quarto R nén vào xứ xốp để điều
trị thành công 3 BN khuyết xương lớn từ 4-7cm.
Mastumoto T bằng nghiên cứu thực nghiệm cho
rằng TBG tạo máu tủy xương CD34+ có vai trò
tăng cường quá trình liền xương bằng thông
qua vai trò hình thành vi mạch máu mới của ổ
gãy và quá trình tạo xương tại ổ gãy. Năm 2003,
Olmsted chứng minh các TBG CD34+ trong tuỷ
xương của người có thể biệt hoá thành nguyên
bào xương. Như vậy cả TBG tạo máu và TBG
trung mô đều tham gia thúc đẩy quá trình liền
xương của ổ căng dãn trong kéo dài chi và kết
xương hai ổ.
Trên cơ sở những thành công trong nghiên
cứu về tế bào gốc tại bệnh viện 108, chúng tôi đã
tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
“Đánh giá hiệu quả liền xương của ghép tế bào
gốc lấy từ máu tủy xương tự thân vào ổ kết
xương căng dãn trong kéo dài chi và kết xương
hai ổ”.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
30 BN được kết xương căng dãn được chia
thành 2 nhóm: 15 BN được kết xương căng dãn
kéo dài chi (3 BN bị ngắn chi trên 3 cm và 12 BN
được kéo dài chi nâng chiều cao) và 15 BN được
kết xương hai ổ điều trị mất đoạn xương chày
trên 3 cm. Những BN này sau khi hết giai đoạn
căng dãn kéo dài xương được ghép khối TBG
lấy từ máu tuỷ xương tự thân vào ổ căng dãn.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 3/2008 đến
6/2011.
Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện theo phương pháp tiến cứu, theo
dõi dọc.
Lựa chọn bệnh nhân
Chọn những BN mất đoạn xương và ngắn
chi đã được phẫu thuật kết xương hai ổ hoặc
kéo dài chi, vừa hết giai đoạn căng dãn, mà
không có biến chứng như: nhiễm trùng chân
đinh, biến dạng trục chi, lỏng khung cố định...
Kỹ thuật thực hiện
- BN sau khi được gây tê tuỷ sống được nằm
sấp trên bàn mổ. Kíp lấy máu tuỷ xương của
Khoa Huyết học tiến hành lấy máu tuỷ xương ở
xương chậu bằng kim có nòng, đường kính 2,4
mm và hút ra bằng bơm tiêm 20 ml.
- 250 - 300 ml máu tuỷ xương lấy được, sau
đó được tách bằng phương pháp ly tâm với máy
tự động ASTEC 204 hoặc bằng tay để loại bỏ các
thành phần: mỡ, hồng cầu, tiểu cầu... còn lại
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 353
khoảng 30 ml chứa khối TBG gồm: tế bào gốc
CD 34+, tế bào gốc trungg mô, tế bào đơn
nhân,... (Lấy máu tuỷ xương và tách tế bào gốc
do Khoa Huyết học, Bệnh viện TWQĐ 108 thực
hiện).
- Sau chọn TBG , BN được ghép khối TBG
vào ổ căng dãn. Kỹ thuật ghép: Dưới màn tăng
sáng, đâm kim vào khoảng trống xương do quá
trình căng dãn tạo ra, tiêm 30 ml dung dịch chứa
tế bào gốc vào ổ căng dãn xương. Vị trí tiêm 2
hoặc 3 điểm tuỳ theo đoạn xương căng dãn dài
hay ngắn (đây là cách tiêm nhóm nghiên cứu đề
ra). Với những BN kéo dài chi để nâng chiều
cao, ổ căng dãn để kéo dài ở cả hai cẳng chân
nên chúng tôi tiêm cho mỗi ổ căng dãn là 15 ml
dung dịch chứa TBG.
Chăm sóc, theo dõi sau ghép khối tế bào gốc,
đánh giá kết quả
- Sau ghép TBG, bệnh nhân được dùng
kháng sinh dự phòng và ra viện sau 3 - 5 ngày.
Sau ghép TBG 4 - 6 tuần, BN được tập tỳ nén
trên chi bệnh để tránh gãy vỡ cơ học của quá
trình liền xương và tái tạo mô.
- Định kỳ mỗi tháng các BN đến kiểm tra
đánh giá diễn biến liền xương bằng chụp
Xquang và kiểm tra lâm sàng đến khi liền xương
và tháo bỏ cố định ngoài.
- Đánh giá liền xương ở ổ kết xương căng
dãn bằng tỷ lệ liền xương, tỷ lệ chậm liền
xương, thời gian liền xương trung bình cho 1cm
xương được kéo dài theo tiêu chuẩn của
Ilizarov. Thời gian liền xương trung bình cho
1cm được kéo dài tính bằng số ngày từ khi cắt
xương đặt cố định ngoài để kéo dài cho đến thời
điểm liền xương chia cho số cm của đoạn xương
được kéo dài thêm. Thời điểm liền xương được
xác định khi: BN thấy không đau khi đi lại trên
chi bệnh, trên phim chụp XQ quy ước xương
chày có ít nhất 3 thành xương đã liền với mật độ
can xương lớn hơn mật độ tại ống tuỷ ở hai đầu
xương lành ở phía trên và phía dưới ổ can
xương. (BN được coi là chậm liền xương khi
cuối cùng BN vẫn liền xương mà không phải
ghép xương nhưng thời gian liền xương trung
bình trên 50 ngày/cm).
- Các biến chứng xảy ra trong và sau khi
ghép tế bào gốc và sau khi tháo cố định ngoài.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm số liệu thống kê
Tuổi của bệnh nhân.
Tuổi trung bình là 29,2 tuổi (19-45 tuổi);
trong đó tuổi trung bình của nhóm kéo dài chi là
26,6 tuổi và của nhóm kết xương 2 ổ là 31,8 tuổi.
Nam: 16 BN, nữ: 14 BN.
Độ dài trung bình của ổ căng dãn
Độ dài trung bình của ổ căng dãn của
nhóm nghiên cứu là 6,94cm (4-16cm), trong đó
độ dài trung bình của ổ căng dãn của nhóm
kéo dài chi và nhóm kết xương hai ổ lần lượt
là 7,32 cm (4,5-16cm) và 6,21 cm (4-16cm). Số ổ
căng dãn dài 6cm-10cm chiếm 31/42 ổ, số ổ
căng dãn dài trên 15cm là 1 ổ (1/32 ổ), còn lại
là 10 ổ có chiều dài 3-5cm.
Nguyên nhân gây ngắn chi
Nhóm kết xương hai ổ đều có nguyên nhân
gây ngắn chi là do di chứng chấn thương.
Nhóm kéo dài chi có 2 BN ngắn 1 chi do di
chứng bại liệt từ nhỏ, 2 do di chứng bẩm sinh
còn lại 10 BN được kéo dài chi để nâng chiều
cao.
Thời gian nằm viện trung bình là 3,7 ngày
(3-5 ngày).
Kết quả liền xương trong kéo dài chi và kết
xương 2 ổ
Kết quả liền xương được đánh giá trên 37 ổ
kết xương căng dãn (của 15 BN kéo dài chi và 11
BN kết xương hai ổ) đã liền xương đã được tháo
cố định ngoài, còn 5 ổ căng dãn (của 1 BN kéo
dài chi và 4 BN kết xương hai ổ) chưa đủ thời
gian theo dõi để đánh giá kết quả.
Tỷ lệ liền xương, chậm liền xương
Cả 2 nhóm kéo dài chi và kết xương hai ổ
đều có tỷ lệ liền xương của ổ kết xương căng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 354
dãn là 100%, không trường hợp nào cần ghép
xương, không có trường hợp nào chậm liền
xương.
Thời gian liền xương trung bình.
Thời gian liền xương trung bình của ổ kết
xương căng dãn của cả nhóm bệnh nhân nghiên
cứu là 32,1± 5,9 ngày, trong đó của nhóm kéo
dài chi là 29,8±4,5 ngày/1cm và của nhóm kết
xương hai ổ là 36,1±6,2 ngày/1cm. Có sự khác
biệt giữa thời gian liền xương trung bình của
nhóm kéo dài chi và nhóm kết xương hai ổ có ý
nghĩa thống kê với P<0,05.
Mối liên quan giữa thời gian liền xương trung
bình và chiều dài ổ căng dãn.
- Ở nhóm BN kéo dài chi:
Thời gian liền xương trung bình của các
nhóm có chiều dài ổ căng dãn dài 3-5cm, 6-
10cm lần lượt là 30,05 ngày/cm, 29,76
ngày/cm. Sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê với P>0,05.
- Ở nhóm kết xương hai ổ: Thời gian liền
xương trung bình của các nhóm có chiều dài ổ
căng dãn dài 3-5cm, 6-10cm lần lượt là 38,73
ngày/cm, 35,83 ngày/cm. Sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê với P>0,05. Một BN có ổ kết
xương căng dãn 16cm có thời gian liền xương
trung bình 27,6 ngày/cm.
Các biến chứng và cách khắc phục
Chúng tôi không gặp truờng hợp nào bị tụ
máu, nhiễm khuẩn tại ổ căng dãn hoặc chèn ép
khoang tại cẳng chân cũng như đau kéo dài tại
nơi lấy máu tuỷ xương. Biểu hiện rét run sau
tiêm, ban dát sẩn, mẩn ngứa sau tiêm có 8 bệnh
nhân. Những bệnh nhân này đều ổn định sau
xử trí bằng các thuốc thông thường. Không có
trường hợp nào bị gãy lại ổ kết xương căng dãn
sau tháo cố định ngoài.
Số lượng các thành phần trong khối tế
bào gốc
Bảng 1. Số lượng các thành phần trong khối TBG
được tiêm vào ổ căng dãn
Giá trị
thấp
nhất
Giá trị
cao nhất
Số lượng
(X ± SD)
Nồng độ TB có nhân
(G/l)
9,3 89,7 39,94 ± 19,67
SLTB CD34(+)/ml (x106) 0,1 1,12 0,48 ± 0,29
Tổng SLTB CD34(+)
(x106)
3,91 35,21 14,89 ± 9,29
SLTB tạo cụm CFU-
F/ml
508 4112 1831,33 ±
1243,43
Tổng SLTB tạo cụm
CFU-F (x103)
15,25 123,36 54,94 ± 37,3
Bảng 2. Các thành phần trong khối TBG được tiêm
vào ổ căng dãn theo nhóm bệnh nhân
Nhóm kéo
dài chi
Nhóm kết
xương 2 ổ p
Nồng độ TB có nhân
(G/l)
37,35 ±
16,36
42,52 ±
22,79
>0,05
SLTB CD34(+)/ml
(x106)
0,53 ± 0,28 0,43 ± 0,3 >0,05
Tổng SLTB CD34(+)
(x106)
16,33 ± 9,26 13,46 ± 9,4 >0,05
SLTB tạo cụm CFU-
F/ml
2280 ± 1541 1382 ±
833,59
<0,05
Tổng SLTB tạo cụm
CFU-F (x103)
68,41 ±
46,23
41,47 ±
25,01
<0,05
Nhận xét: Nhóm BN kéo dài chi nâng chiều
cao nhận được số lượng TB tạo cụm CFU-F,
cũng như nồng độ TB tạo cụm CFU-F/ml khối
TBG cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với
nhóm BN kết xương 2 ổ, còn các thành phần
khác của khối TBG là tương tự nhau giữa hai
nhóm (p>0,05).
Mối liên quan giữa thời gian liền xương trung
bình và vị trí ổ căng dãn xương trong nhóm
kéo dài chi.
Bảng 3.Mối liên quan giữa thời gian liền xương
trung bình và vị trí ổ căng dãn
Vị trí ổ căng
dãn
Thời gian liền xương
trung bình (ngày/cm)
Độ lệch
chuẩn p
Xương đùi (1) 27,5 0,42
Xương chày (2) 31,2 4,8
p1-2 >
0,05
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 355
Bảng 3 cho thấy, thời gian liền xương trung
bình trong nhóm kéo dài chi ở đùi lớn hơn thời
gian liền xương trung bình của nhóm kéo dài
chi ở cẳng chân. Tuy nhiên, sự khác biệt này
chưa có ý nghĩa thống kê.
Mối liên quan giữa thời gian liền xương trung
bình và số lượng tế bào gốc
Bảng 4. Tương quan giữa thời gian liền xương
trung bình với một số thành phần của khối TBG.
Thời gian LX trung bình
rpearson p
Nồng độ TB có nhân 0,323 0,108
SLTB CD34(+)/ml -0,038 0,853
Tổng SLTB CD34(+) -0,107 0,603
SLTB tạo cụm CFU-F/ml -0,139 0,794
Tổng SLTB tạo cụm CFU-F -0,138 0,825
Nhận xét: Không thấy có mối tương quan
giữa thời gian liền xương trung bình với một số
đặc tính của khối TBG được ghép như: nồng độ
TB có nhân, tổng số lượng TB có nhân, số lượng
TB CD34(+)/ml, tổng số lượng TB CD34(+), số
lượng TB tạo cụm CFU-F/ ml, tổng số lượng TB
tạo cụm CFU-F (p > 0,05).
BÀN LUẬN
Hiệu quả liền xương của khối tế bào gốc
khi ghép vào ổ căng dãn
Hiệu quả liền xương của khối TBG khi ghép
vào ổ căng dãn trong kéo dài chi
Tỷ lệ liền xương, chậm liền xương
Tất cả các BN đều liền xương mà không phải
ghép xương. Tỷ lệ BN chậm liền xương là 0%.
Trong khi đó tỷ lệ này của Catagni M.A là
32/160 ở nhóm kéo dài chi nâng chiều cao và
19/70 ở nhóm kéo dài chi điều chỉnh chênh lệch
hai chi dưới; tỷ lệ này của Kitoh H là 45% ở
nhóm không dùng tế bào gốc.
Thời gian liền xương trung bình
Thời gian liền xương trung bình của nhóm
kéo dài chi là 29,8 ngày/ cm.
- So sánh với các tác giả trong nước: Đỗ Tiến
Dũng(1) đã kéo dài chi cho 101 BN với kỹ thuật
giống chúng tôi nhưng không tiêm tế bào gốc,
mức kéo trung bình là 5,8cm; thời gian liền
xương trung bình là 39 ngày/cm kéo dài. Như
vậy thời gian liền xương trung bình của ổ căng
dãn giảm đi có ý nghĩa thống kê khi ghép tế bào
gốc vào ổ căng dãn.
- So sánh với các tác giả trên thế giới: Dasin
J.P.(1) kéo dài chi ở cẳng chân cho 57 BN, mức
kéo trung bình là 6,7cm, thời gian liền xương
trung bình là 42 ngày/cm. Pouliquen(1) kéo dài
chi ở 57 xương chày. Mức kéo dài trung bình là
5,23cm; thời gian liền xương trung bình là 40
ngày/cm. Tre T.(1) kéo dài chi ở 45 BN, mức kéo
dài trung bình 5,4cm; thời gian liền xương trung
bình là 45 ngày/1 cm. So sánh với các tác giả trên
thế giới cho thấy, thời gian liền xương trung
bình nhóm kéo dài chi của chúng tôi thấp hơn .
- So sánh với tác giả Kitoh H: Tác giả này ghép
TBG trung mô lấy từ tuỷ xương tự thân sau khi
nuôi cấy vào ổ căng dãn trong kéo dài chi. Thời
gian liền xương trung bình là 28,6 ngày/ 1cm với
độ dài trung bình của ổ căng dãn là 8,3 cm(3).
Như vậy thời gian liền xương trung bình của
nhóm kéo dài chi trong nghiên cứu của chúng
tôi tương đương với kết quả nghiên cứu của
Kitoh H.
- So sánh thời gian liền xương tính từ khi hết
căng dãn đến khi liền xương với các tác giả khác: Vì
trong giai đoạn căng dãn, mỗi cm xương căng
dãn cần trung bình 10 ngày điều trị, nên thời
gian trung bình từ khi hết căng dãn đến khi liền
xương của chúng tôi là 19,8 ngày, của Đỗ Tiến
Dũng là 29 ngày, của Dasin J.P là 32 ngày, của
Tre là 35 ngày. Như vậy thời gian trung bình từ
khi hết căng dãn đến khi liền xương đã được rút
ngắn khoảng 32% khi ổ căng dãn được tiêm
TBG (19,8 ngày/cm so với 29 ngày/cm). TBG đã
có hiệu quả thúc đẩy quá trình liền xương tại ổ
căng dãn.
- So sánh thời gian liền xương theo vị trí kéo dài
xương: Bảng 3 cho thấy, thời gian liền xương
trung bình ở nhóm kéo dài chi ở đùi nhỏ hơn
thời gian liền xương trung bình của nhóm kéo
dài chi ở cẳng chân. Điều này có thể do nuôi
dưỡng ổ kéo dài xương ở đùi tốt hơn ở cẳng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 356
chân do xương đùi được bao bọc xung quanh
bởi các khối cơ lớn. Tuy nhiên sự khác biệt này
chưa có ý nghĩa thống kê; có lẽ do tổng số lượng
BN kéo dài chi còn ít, đặc biệt nhóm kéo dài chi
ở đùi chỉ có 2 BN.
Hiệu quả liền xương của khối tế bào gốc trong
kết xương hai ổ
Tỷ lệ liền xương trong nhóm kết xương hai ổ
là 100%, không có BN nào chậm liền xương.
Thời gian liền xương trung bình trong kết
xương hai ổ là 36,1 ngày/cm.
- So sánh với các tác giả trong nước:
Nguyễn Văn Tín(6) kết xương hai ổ với kỹ
thuật giống chúng tôi cho 30BN, kết quả là
thời gian liền xương trung bình cho 1 cm
xương căng dãn là 45 ngày. Như vậy, thời
gian liền xương trung bình trong nghiên cứu
của chúng tôi ngắn hơn so với nghiên cứu của
tác giả Nguyễn Văn Tín với p<0,05.
- So sánh với các tác giả trên thế giới:
Bảng 5. So sánh thời gian liền xương trung bình với
các tác giả khác (Không ghép tế bào gốc)
Tác giả Độ dài ổ căng dãn (cm)
Thời gian liền xương trung
bình (ngày/cm)
en 5 32
ierny 6,4 48
Dagher 6,3 54
Green 5 57
Paley 10 63
Chúng tôi 6,21 36,1
Bảng 5 cho thấy thời gian liền xương
trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi
cũng thấp hơn đáng kể so với kết quả của các
tác
giả khác.
Nếu so sánh thời gian liền xương tính từ
khi hết căng dãn thì thời gian liền xương của
chúng tôi là 26,1ngày/cm; so tác giả Nguyễn
Văn Tín là 35 ngày/cm, Dagher là 44 ngày/cm,
Cierny 38 ngày/cm,... Như vậy, khối TBG khi
được ghép vào ổ căng dãn trong kết xương
hai ổ có vai trò làm tăng nhanh quá trình liền
xương của ổ căng dãn, làm rút ngắn thời gian
từ khi hết căng dãn đến khi liền xương
khoảng 25%.
So sánh hiệu quả liền xương của khối tế bào
gốc đối với ổ căng dãn trong kết xương hai ổ
và trong kéo dài chi.
Thời gian liền xương trung bình ở nhóm kéo
dài chi thấp hơn so với nhóm kết xương hai ổ,
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Điều này
có thể giải thích là do nhóm kết xương hai ổ có
vị trí ổ căng dãn tuỳ thuộc vào tình trạng xương
và vị trí khuyết xương, phần mềm quanh ổ căng
dãn thường xấu ảnh hưởng đến nuôi dưỡng của
ổ căng dãn (có 3 BN được tạo hình bằng vạt vi
phẫu). Đồng thời, số lượng TBG và TB đơn nhân
trung bình được ghép cho mỗi BN của nhóm
kéo dài chi cao hơn so với nhóm kết xương hai
ổ.
Cách ghép khối tế bào gốc
Theo những tài liệu mà chúng tôi có được,
chúng tôi là nhóm nghiên cứu duy nhất thực
hiện ghép khối tế bào gốc lấy từ máu tuỷ xương
tự thân theo phương pháp ly tâm vào ổ kết
xương căng dãn. Ngoài ra, tác giả Kitoh. H.(3)
ghép TBG trung mô lấy từ tuỷ xương tự thân
sau khi nuôi cấy và plasma giàu tiểu cầu vào ổ
căng dãn trong kéo dài chi.
Đã có nhiều tác giả ghép TBG tuỷ xương sau
khi được ly tâm giống chúng tôi và đều cho
rằng đây là phương pháp an toàn và khối TBG
sau khi tách được có mật độ số lượng các TBG
đựơc tăng lên nhiều lần(4,5,2). Chúng tôi tiến hành
tiêm TBG vào ổ căng dãn ngay sau khi ngừng
căng dãn. Chúng tôi cho rằng ổ căng dãn ở thời
điểm ngay sau ngừng căng dãn có các cấu trúc
nâng đỡ làm nơi cư trú cho tế bào gốc phát triển
sau khi được ghép, đồng thời đây cũng là thời
điểm ổ can xương có nhiều cytokin và các yếu tố
kích thích quá trình liền xương.
Chúng tôi cũng nhất trí với Kitoh H. về cách
ghép TBG trực tiếp vào ổ căng dãn bằng cách
tiêm trực tiếp khối TBG vào ổ căng dãn. Tuỳ
theo độ dài của ổ căng dãn mà ta có thể tiêm 2-3
điểm dọc theo mặt trước ổ căng dãn dưới hướng
dẫn của màn XQ tăng sáng. Ở thời điểm ngay
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu Huyết Học 357
khi ngừng quá trình căng dãn, khi tiêm qua vỏ
xương vào trung tâm ổ căng dãn ta có cảm giác
rất rõ, khi bơm TBG có cảm giác bơm rất nhẹ. Vì
vậy, kỹ thuật ghép khối TBG vào ổ căng dãn là
đơn giản, nhanh chóng, an toàn. Do số lượng
TBG dao động tuỳ từng cá thể và hiện nay có rất
ít nghiên cứu về số lượng TBG cần thiết phải
ghép nên chúng tôi áp dụng chung cho tất cả
BN thể tích tuỷ xương lấy và ghép là như nhau.
Chúng tôi không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về thời gian liền xương trung bình ở
các BN có độ dài ổ căng dãn khác nhau. Cách
ghép khối TBG của chúng tôi đã cho kết quả liền
xương của ổ căng dãn rất khả quan. Tuy nhiên,
chúng tôi thấy rằng trong những nghiên cứu
tiếp theo cần nghiên cứu với số lượng BN lớn
hơn và nghiên cứu sâu hơn về mối liên quan
giữa mật độ/ số lượng TBG đựơc ghép với kết
quả liền xương của ổ kết xương căng dãn để tìm
ra mật độ/số lượng tối ưu TBG cần ghép vào ổ
kết xương căng dãn.
KẾT LUẬN
Ghép khối tế bào gốc tự thân có hiệu quả
làm tăng khả năng liền xương của ổ kết xương
căng dãn trong kéo dài chi và kết xương hai ổ.
Thời gian liền xương trung bình của nhóm
kéo dài chi là 29,8 ngày/cm, của nhóm kết
xương hai ổ là 36,1 ngày/cm. Thời gian liền
xương trung bình khi kéo dài ở đùi thấp hơn
so với khi kéo dài ở cẳng chân. Đây là một
phương pháp điều trị có kỹ thuật ít xâm nhập,
đơn giản, an toàn, dễ thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Tiến Dũng (2001). Điều chỉnh sự chênh lệch độ dài hai chi
dưới bằng phẫu thuật kéo dài chi theo nguyên lý của Ilizarov,
Luận án tiến sỹ y học, Học viện quân y.
2. Hernigou P, Poignard A, Beaujean F, Rouard H (2005).
Percutaneous autologous bone-marrow grafting for nonunions.
Influence of the number and concentration of progenitor cells, J
Bone Joint Surge, 87A: 1430-1437.
3. Kitoh.H, Kitokoji.T, Tsuchiya (2007). Transplantation of culture
expanded bone marrow cells and platelet rich plasma in
distraction orthogenesis of the long bones, Bone, 40:522-528.
4. Nguyễn Mạnh Khánh, Nguyễn Tiến Bình, Nguyễn Thị Thu Hà
(2008). Ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân điều trị khớp giả thân
xương chày, Tạp chí Y dược học quân sự, 1.
5. Nguyễn Thị Thu Hà (2004). Tế bào gốc và khả năng sử dụng tế
bào gốc trong điều trị, Y học Việt nam, số đặc biệt, 302 (9): 3-20.
6. Nguyễn Văn Tín (1995). Điều trị mất đoạn xương-khớp giả
có ngắn chi ở chi dưới bằng phương pháp kết xương hai ổ
theo nguyên lý của Ilizarov, Luận án tiến sỹ y học, Học viện
quân y.
7. Scott P.B (1998). The Effect of Implants Loaded with Antilogous
Mesenchymal Stem Cells on the Healing of Canine Segmental
Bone Defects, J Bone Joint Surge, 80A: 985-996.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_xet_ve_hieu_qua_ghep_te_bao_goc_tuy_xuong_tu_than_trong.pdf