Qua nghiên cứu cắt ngang tại cộng đồng trên
798 thành viên của 253 hộ gia đình của 5 dân tộc
khác nhau được chọn ngẫu nhiên từ 980 hộ với
3250 thành viên thuộc xã Bản Cầm, huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai cho thấy: Tỷ lệ HBsAg(+) là
12,4%, ở nam cao hơn rõ rệt so với ở nữ. Trẻ ≤18
tuổi có tỷ lệ HBsAg(+) thấp hơn rõ rệt so với lứa
tuổi cao hơn. Trong số 291 đối tượng thuộc 70 hộ
gia đình có người HBsAg(+), con các gia đình
nhỏ (≤4 người), và gia đình có ít con (1-2 con) có
tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn con các gia đình lớn
hơn và đông con hơn; trẻ em là con đầu có tỷ lệ
HBsAg(+) cao hơn các em sinh sau. Không thấy
có mối liên quan giữa tình trạng HBsAg của bố
hoặc mẹ với tình trạng mang HBsAg của các
con họ. Cũng không thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa về tỷ lệ HBsAg(+) giữa các nhóm đối
tượng dân tộc khác nhau. Tỷ lệ HBsAg(+) ở
quần thể nghiên cứu này nằm trong đặc điểm
vùng dịch tễ cao của nước ta. Cần nghiên cứu
sâu thêm các yếu tố khác bên ngoài hộ gia đình
để làm sáng tỏ hơn vai trò lây truyền từ mẹ
sang con cũng như vai trò tác động của gia đình
đông đúc, nhiều con đối với tỷ lệ nhiễm vi rút
viêm gan B tại cộng đồng nhằm tìm được
những những yếu tố cho phép can thiệp làm
giảm nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh nguy hiểm
này.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 373 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhiễm vi rút viêm gan b ở các thành viên trong hộ gia đình: Nghiên cứu cộng đồng tại một xã miền núi phía Bắc (xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 1
NHIỄM VI RÚT VIÊM GAN B Ở CÁC THÀNH VIÊN
TRONG HỘ GIA ĐÌNH: NGHIÊN CỨU CỘNG ĐỒNG
TẠI MỘT XÃ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (XÃ BẢN QUA, HUYỆN BÁT XÁT,
TỈNH LÀO CAI)
Nguyễn Thị Vân Anh*, Nguyễn Văn Bàng**
TÓM TẮT
Nhiễm virus viêm gan B (HBV) là vấn đề lớn của y tế cộng cộng, vì HBV là một trong những nguyên nhân
hàng đầu gây xơ gan và ung thư gan.
Mục tiêu. (1) Xác định tỷ lệ mang HBsAg ở các thành viên của các hộ gia đình tại một cộng đồng miền núi
phía Bắc, (2) tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng mang HBsAg của quần thể này.
Đối tượng, phương pháp. Nghiên cứu cắt ngang tại cộng đồng trên 798 đối tượng là thành viên của 253
hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên từ 980 hộ với 3250 thành viên ở xã Bản Qua (Bát Xát, Lào Cai). Xác định
HBsAg bằng kỹ thuật ELISA. Đánh giá mối liên quan về tình trạng mang HBsAg giữa các thành viên trong gia
đình bằng test λ2, đánh giá nguy cơ mang HBsAg bằng phân tích đơn và đa biến logistic regression.
Kết quả. Có 12,4% (99/798) số đối tượng mang HBsAg, tập trung trong 70 hộ gia đình gồm 281 thành
viên. Nam giới có tỷ lệ HBsAg(+) là 15,6% (54/346), cao hơn rõ rệt so với tỷ lệ 10% (45/452) ở nữ giới (p<0,02)
(OR (95% CI.): 1,67 (1,09-2,55)) trong toàn quần thể nghiên cứu và 40,8% (53/130) so với 30,5% (46/151)
(p=0,071) (OR (95%CI.): 1,57 (0,96-2,57)) ở những người từ 70 hộ gia đình có người HBsAg(+). Nhóm người
lớn (>18 tuổi) có tỷ lệ HBsAg(+) là 14,5% (56/385), cao hơn so với 10,4% (43/413) ở những trẻ ≤18 (p=0,077)
(OR (95% CI): 1,47 (0,96-2,24)) trong toàn quần thể nghiên cứu, và rõ rệt hơn, giữa 42,6% (55/129) so với
28,9% (44/152) (p=0,016), (OR (95% CI): 1,67 (1,09-2,55) trong những gia đình có người HBsAg(+). Bố luôn
có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn các thành viên khác trong gia đình, kể cả trong toàn quần thể: 23,1% so với 10,6-11%
(p=0,004), (OR (95% CI): 1,69 (0,73-3,92)), cũng như trong các gia đình có người HBsg(+): 61,5% so với 23,1-
40,8% (p=0,001), (OR (95% CI): 2,91 (1,02-5,68)). Trong nhóm 281 đối tượng thuộc 70 hộ gia đình có người
HBsAg(+), con của những gia đình nhỏ (≤4 người) và ít con (1-2 con) có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn con các gia đình
đông hơn (p=0,017) và đông con hơn (p=0,031); con đầu có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn các em (p=0,026). Chưa thấy
có sự khác biệt về tỷ lệ HBsAg(+) giữa các nhóm dân tộc khác nhau cũng như chưa thấy rõ mối liên quan giữa
tình trạng HBsAg(+) giữa mẹ và con.
Kết luận. Tỷ lệ HBsAg(+) ở quần thể nghiên cứu này nằm trong đặc điểm vùng dịch tễ cao của nước ta.
Cần nghiên cứu sâu thêm các yếu tố khác bên ngoài hộ gia đình để làm sáng tỏ hơn vai trò lây truyền từ mẹ
sang con cũng như vai trò tác động của gia đình đông đúc, nhiều con đối với tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B tại
cộng đồng.
Từ khoá: Các dân tộc, cộng đồng miền núi phía Bắc, thành viên hộ gia đình, vi rút viêm gan B.
* Bộ môn Giáo dục Y học ĐH Y Hà Nội, **Bộ môn Nhi ĐH Y Hà Nội
Tác giả liên lạc: Ths.BS Nguyễn Thị Vân Anh, ĐT: 0908 9642 137, Email: vananh299@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 2
ABSTRACT
HBsAg RATE AND RISK FACTOR FOR HBsAg CARRIAGE IN HOUSEHOLD MEMBERS: A
COMMUNITY-BASED STUDY AT BAN QUA VILLAGE (BAT XAT, LAO CAI)
Nguyen Van Bang, Nguyen Thi Van Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 36 - 42
Hepatitis B virus (HBV) infection is one of main preoccupations of public health in Vietnam due to its high
prevalence and its devastating outcome.
Objectives. To assess HBsAg(+) rate and risk factor for being HBsAg carriers among household members of
a healthy population living in a mountainous multi-ethnic community in the northern border.
Population and methods. A community-based cross-sectional study was carried out on 798 members of
253 households randomly selected among 3.250 inhabitants from 980 households of a mountainous multi-ethnic
commune. HBsAg was determined by ELISA technique. Data related to demographic features were collected
using structured questionnaire. The data were analyzed using λ2 test and univariate and multivariate logistic
regression.
Results. HBsAg rate was 12.4% (99/798), aggregated in 70 households with 281 subjects. Males were
significantly more affected than females either in whole study population: 15.6% (54/346%) versus 10%
(45/452), respectively, p<0.02), (OR (95% CI.): 1,67 (1.09-2.55)), or in aggregation with at least one HBsAg(+)
person in the household: 40.8% (53/130) versus 30.5% (46/151) (p=0.071), (OR (95%CI.): 1.57 (0.96-2.57)).
Adults (>18 years old) were significantly more HBsAg(+) than children (≤18 years old), either in the whole study
population: 14.5% (56/385) versus 10.4% (43/413) (p=0.077) (OR (95% CI): 1.47 (0.96-2.24)) or in households
with at least one HBsAg(+) person: 42.6% (55/129) versus 28.9% (44/152) (p=0.016), (OR (95% CI): 1.67 (1.09-
2.55). HBsAg(+) rate was consistently higher in fathers than in other household members, either in the whole
study population: 23.1% versus 10.6-11% (p=0.004), (OR (95% CI): 1.69 (0.73-3.92)), or in households with at
least one HBsAg(+) person: 61.5% versus 23.1-40.8% (p=0.001), (OR (95% CI): 2.91 (1.02-5.68)). Among 281
members of 70 households with at least one HBsAg(+) person, children of households with small size (≤4 persons)
or with small offspring size (1-2) were more affected than households with bigger size (p=0.017) or with larger size
of offspring (p=0.031); and the first offspring was more affected than the youngers (p=0.026). There was no
significant relationship either between HBsAg status of parents and that of their children or between different
ethnic groups in this study.
Conclusion. Prevalence of hepatitis B virus chronic carriers in this study population is compatible with
those reported in previous studies in the country. Further indept studies with variables inside and outside
household looking at the role of parent-to-children transmission as well as the role of promiscuity on hepatitis B
virus transmission were warranted.
Key words: Ethnic, northern mountainous community, household member, hepatitis B virus.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm virus viêm gan B (HBV) đang là
vấn đề lớn của y tế công cộng. Khoảng 2/3 dân
số thế giới có tiền sử nhiễm HBV, trong đó gần
400 triệu người trở thành người mang HBV
mạn tính. Hàng năm có hơn một triệu người
trên thế giới tử vong vì các bệnh liên quan đến
nhiễm HBV mà chủ yếu là do mang HBV mạn
tính (suy gan, xơ gan, ung thư gan). Việt Nam
nằm trong khu vực có tỷ lệ nhiễm HBsAg mạn
tính cao (từ 8 đến 25%) nên nhiễm HBV và các
bệnh gan liên quan là gánh nặng y tế nên đang
rất được quan tâm trong chiến lược y tế quốc
gia. Nghiên cứu dịch tễ học nhiễm HBV trên
những đối tượng cùng một gia đình có giá trị
lớn trong việc đánh giá sự lây truyền HBV,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 3
giúp đề ra chiến lược phòng bệnh, nhưng đến
nay có rất ít nghiên cứu về tình hình nhiễm
HBV của tất cả các thành viên của cùng hộ gia
đình tại Việt Nam và ngay cả trên thế giới(6,9,1);
đại đa số các nghiên cứu đều chỉ mới tiến hành
trên các đối tượng không cùng một gia
đình(3,4,5,10). Chúng tôi nghiên cứu đề tài này
trên tất cả các đối tượng trong từng hộ gia
đình tại một cộng đồng miền núi phía Bắc (xã
Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai), nhằm
(1) xác định tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B
trong các thành viên của từng hộ gia đình, (2)
tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình
trạng mang vi rút viêm gan B của quần thể đối
tượng nghiên cứu trên.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là 798 thành viên
của 253 hộ gia đình được chọn ngẫu nhiên từ
980 hộ với 3250 thành viên thuộc xã Bản Qua,
huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, trong đó 346 là
nam (43,4%) và 452 nữ (56,6%). Chỉ chọn vào
nghiên cứu này những hộ có tất cả các thành
viên đều chấp nhận tham gia nghiên cứu.
Huyết tương chiết tách từ 3-5ml máu được giữ
trong bình lạnh bảo quản vac-xin, vận chuyển
về cất giữ ở -400C, xác định HBsAg bằng kỹ
thuật ELISA và chuẩn độ ALT (GPT) bằng
phương pháp đo động học enzyme tại phòng
xét nghiệm trung tâm Đại học Y Hà Nội. Đặc
điểm dân số học (tuổi, giới, ngôi bậc trong gia
đình, thứ bậc anh em, số người, số con trong
gia đình) được thu thập bằng bộ câu hỏi điều
tra hộ gia đình. Các số liệu được xử lý bằng
các thuật toán thống kê y-sinh học (λ2 và
logistic regression) với sự trợ giúp của phần
mềm SPSS 12.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong tổng số 798 đối tượng từ 253 hộ gia
đình, có 99 đối tượng HBsAg(+) (12,4%). Phân bố
tình trạng mang HBsAg theo giới của quần thể
nghiên cứu được trình bày trong hình 1. Sự khác
biệt về tỷ lệ HBsAg(+) giữa nam (15,6%) và nữ
(10%) rất có ý nghĩa thống kê (p<0,02).
292
54
407
45
699
99
0
100
200
300
400
500
600
700
800
Nam Nữ Tổng
(+)
(-)
Hình 1. Phân bố tình trạng mang HBsAg theo giới
của quần thể nghiên cứu
Mối liên quan giữa HBsAg(+) với một số đặc
điểm dân số học (tuổi, giới, ngôi thứ trong gia
đình và dân tộc) của quần thể nghiên cứu được
trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Mối liên quan giữa HBsAg(+) trong quần thể với một số đặc điểm dân số học.
Yếu tố N HBsAg(+) (%) p OR (95% CI) OR© (95% CI)
Nam 346 54 (15,6) 1,00 Giới
Nữ 452 45 (10,0)
0,016
1,67 (1,09-2,55)
≤18 tuổi 413 43 (10,4) 1,00 Tuổi
>18 tuổi 385 56 (14,5)
0,077
1,47 (0,96-2,24)
Mẹ 184 20 (10,9) 1,00
Bố 108 25 (23,1) 1,69 (0,73-3,92) 2,47 (1,30-4,71)
Con 424 45 (10,6)
Ngôi thứ
Người khác* 82 9 (11,0)
0,004
Dao 140 23 (16,4)
Dáy 298 29 (9,7)
Kinh 98 16 (16,3)
H’mong 204 17 (13,2)
Dân tộc
Tày 58 4 (6,9)
0,127
© Phân tích đa biến logistic regression kỹ thuật bước lùi (conditional backward-stepwise) với các tham số: giới, nhóm tuổi, thứ bậc trong gia
đình, dân tộc.
* Người khác bao gồm: ông hoặc bà (nội hoặc ngoại), cô, dì, chú, bác hoặc anh em họ ở cùng nhà
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 4
Xem xét chung trong quần thể nghiên cứu,
nữ có tỷ lệ HBsAg(+) thấp hơn rất rõ rệt so với
nam (p<0,02). Qua phân tích logistic regression
đơn và đa biến, nữ ít nguy cơ bị nhiễm HBsAg
mạn tính hơn nam gần 2 lần. Trẻ em (≤18 tuổi) có
tỷ lệ HBsAg(+) thấp hơn người lớn và có xu
hướng ít nguy cơ mang HBsAg mạn tính 1,5 lần
so với người lớn. Tuy nhiên, sự khác biệt chưa
thật rõ rệt (p=0,077).
Sự khác nhau giữa tỷ lệ HBsAg(+) ở bố
(23,1%) so với mẹ (10,9%), các con (10,6%) và
những thành viên khác bao gồm: ông, bà nội
ngoại, cô, dì, chú, anh em họ (11,0%) rất có ý
nghĩa thống kê (p=0,004). Bố có nguy cơ
HBsAg(+) 2,47 lần so với mẹ và các đối
tượng khác khi phân tích đa biến hiệu chỉnh
với các yếu tố khác. Chưa thấy có sự khác
biệt về tỷ lệ mang HBsAg giữa các nhóm
dân tộc khác nhau trong toàn bộ quần thể
nghiên cứu này.
Tất cả 99 đối tượng HBsAg(+) tập trung
vào 281 thành viên của 70 hộ gia đình. Mối
liên quan giữa tình trạng mang HBsAg với
một số đặc điểm dân số học trong nhóm 281
thành viên của 70 gia đình có người mang
HBsAg được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2. Mối liên quan giữa tình trạng mang HBsAg với một số đặc điểm dân số học ở 281 thành viên 70 hộ gia
đình có người mang HBsAg.
Đặc ñiểm dân số N HBsAg(+) (%) p OR (95% CI) OR© (95% CI)
Nữ 151 46 (30,5) 1,00 Giới
Nam 130 53 (40,8)
0,071
1,57 (0,96-2,57)
≤18 tuổi 152 44 (28,9) 1,00 Tuổi
>18 tuổi 129 55 (42,6)
0,017
1,82 (1,11-2,99) 1,69 (0,95-2,93)
Mẹ 49 20 (40,8)
Bố 39 24 (61,5) 2,91 (1,02-5,68) 2,32 (0,98-5,49)
Con 154 46 (29,9)
Ngôi thứ
Người khác 39 9 (23,1)
0,001
Dao 60 23 (38,3)
Dáy 77 27 (37,7)
Kinh 34 16 (47,1)
H’mong 98 27 (27,6)
Dân tộc
Tày 12 4 (33,3)
0,278
© Phân tích đa biến logistic regression kỹ thuật bước lùi (conditional backward-stepwise) với các tham số: giới, nhóm tuổi, thứ bậc trong gia
đình, dân tộc. * Người khác bao gồm: ông hoặc bà (nội hoặc ngoại), cô, dì, chú, bác hoặc anh em họ ở cùng nhà
Trong nhóm 281 thành viên của 70 gia đình
có người mang HBsAg, tỷ lệ HBsAg(+) ở nam
cao hơn nữ, tuy chưa thực sự có ý nghĩa thống
kê (p=0,07) và nam giới có xu hướng dễ bị
HBsAg(+) hơn nữ giới 1,57 lần. Nhóm đối tượng
là người lớn (>18 tuổi) có tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn
hẳn nhóm trẻ em (p<0,02); người lớn có nguy cơ
bị HBsAg(+) gấp 1,82 lần trẻ em. Bố có tỷ lệ
mang HBsAg cao hơn rất rõ rệt so với các thành
viên khác trong gia đình (p<0,001); bố có nguy cơ
bị HBsAg(+) cao hơn mẹ và những thành viên
khác trong gia đình gấp gần 3 lần. Chưa thấy có
sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ HBsAg(+) giữa
các nhóm đối tượng dân tộc khác nhau chung
sống trên cùng địa bàn này (p>0,05).
Bảng 3 trình bày kết quả phân tích mối liên
quan giữa tình trạng mang HBsAg của 154 con
với 39 người bố, 49 người mẹ, số người cùng số
con trong gia đình và thứ tự các con trong 70 gia
đình có người mang HBsAg.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 5
Bảng 3 Mối liên quan giữa một số đặc điểm dân số với tình trạng mang HBsAg ở 154 con trong 70 gia đình có
người HBsAg(+).
Yếu tố HBsAg con
Đối tượng HBsAg N (+) n (%)
p
OR (95% CI)
OR© (95% CI)
(-) 45 14 (31,1) >0,05 1,00 Bố
(+) 46 8 (17,4) 0,47 (0,17-1,25)
(-) 80 20 (25,0) >0,05 1,00 Mẹ
(+) 35 12 (34,3) 1,56 (0,09-3,71)
2(-) 25 8 (32,0) 0,055 1,00
1(-)/1(+) 34 4 (11,8) 0,27 (0,05-1,47)
Bố và mẹ
2(+) 9 4 (44,4) 5,22 (0,32-85,34)
1-4 người 39 17 (43,6) 0,017 1,00
5-6 người 83 24 (28,9) 0,72 (0,33-1,89)
Số người trong gia
ñình
>6 người 32 4 (12,5) 0,42 (0,02-0,96
1-2 con 64 26 (40,6) 0,031 1,00
3-4 con 63 15 (23,8) 0,71 (0,17-3,03)
Số con trong gia
ñình
>4 con 27 4 (14,8) 0,10 (0,01-0,98)
Con ñầu 60 25 (41,7) 0,026 1,00
Con thứ 2 51 10 (19,6) 0,52 (0,15-0,91)
Thứ tự con
Con thứ ≥3 43 10 (23,3) 0,73 (0,25-1,29)
© Phân tích đa biến logistic regression kỹ thuật bước lùi (conditional backward-stepwise) với các tham số: nhóm tuổi, tình trạng HBsAg của
bố mẹ, số người và số con trong mỗi gia đình và thứ tự các con, có hiệu chỉnh với giới và dân tộc.
Mặc dù khi mẹ HBsAg(+) và nhất là khi cả
bố và mẹ HBsAg(+), tỷ lệ con HBsAg(+) cao hơn,
nhưng chưa ở mức đáng tin cậy. Những gia
đình nhỏ (có 4 người trở xuống) lại có tỷ lệ các
con HBsAg(+) cao hơn các gia đình lớn hơn một
cách có ý nghĩa thống kê. Tương ứng, những gia
đình có 1-2 con và các con đầu có tỷ lệ HBsAg(+)
cao hơn rõ rệt so với con các gia đình đông con
hơn và các con sinh sau hơn. Tuy nhiên, khi hiệu
chỉnh với nhóm tuổi và dân tộc, sự khác biệt
không còn đủ ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Đây là một trong số không nhiều các nghiên
cứu về tình hình nhiễm HBV tại cộng đồng được
tiến hành cho tất cả các thành viên trong cùng hộ
gia đình tại Việt Nam(6-8). Đây cũng là một trong
hai đề tài nghiên cứu tình hình nhiễm HBV tại
cộng đồng dân tộc miền núi cho đến nay(8). Kết
quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mang HBV ở
những đối tượng thuộc các dân tộc khác nhau
sống tại vùng miền núi phía Bắc này là 12,4%. Tỷ
lệ này tương đương với 12% trong nghiên cứu
trước đây của Cao Văn Viên và cộng sự (2003) ở
2.400 công nhân nhà máy xi măng Hoàng
Thạch(2). Kết quả này của chúng tôi cũng gần với
tỷ lệ 11% trong nghiên cứu gần đây của chúng
tôi (2008) trên toàn thể các thành viên hộ gia
đình một cộng đồng các dân tộc vùng núi phía
Bắc (xã Bản Cầm, Bảo Thắng, Lào Cai)(8). Tuy
nhiên, tỷ lệ này cao hơn so với tỷ lệ 6,6% trong
nghiên cứu năm 2008 của chúng tôi trên tất cả
các thành viên hộ gia đình tại một xã miền trung
du Bắc Bộ (xã Tiên Phong, Ba Vì, Hà Tây cũ)(6),
và cao hơn tỷ lệ 8,9% trong một nghiên cứu
đồng thời với nghiên cứu này của chúng tôi trên
1047 đối tượng tại một xã nông thôn đồng bằng
miền Trung (Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An)
(tài liệu chưa xuất bản). Trong nghiên cứu này,
chúng tôi cũng thấy tỷ lệ nam giới mang HBV
cao hơn nữ giới rõ rệt như đã được công bố
trong nhiều nhiên cứu tại Việt Nam và trong kết
quả nghiên cứu của chúng tôi tại xã Tiên Phong,
Ba Vì(6), tại xã Bản Cầm (Bảo Thắng, Lào Cai)(8) và
xã Quỳnh Đôi.
Trong 2 nghiên cứu trước đây tại Tiên
Phong (Ba Vì, Hà Tây cũ) và Bản Cầm (Bảo
Thắng, Lao Cai) chúng tôi đều nhận thấy lứa
tuổi từ 6-18 tuổi có tỷ lệ mang HBV cao nhất,
gấp đôi lứa tuổi trẻ hơn và người lớn(6,8). Trong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 6
nghiên cứu này, chúng tôi thấy nhóm trẻ em
(từ 18 tuổi trở xuống) có tỷ lệ mang HBsAg
thấp hơn rất rõ so với nhóm người lớn, cả
trong quần thể nghiên cứu và trong nhóm 281
đối tượng là thành viên của 70 gia đình có
người mang HBsAg. Tuy nhiên, khi phân tích
đa biến có hiệu chỉnh với các yếu tố liên quan
khác, mối liên hệ giữa tỷ lệ HBsAg(+) cao với
giới nam không còn đủ ý nghĩa thống kê, nói
cách khác, không mang tính độc lập. Điều này
có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn
khiêm tốn nên các thông số chưa đủ độ mạnh.
Cần được đánh giá thêm về lĩnh vực này trong
các nghiên cứu rộng hơn và sâu hơn.
Trong nghiên cứu này, mặc dù tỷ lệ
HBsAg(+) ở bố cao hơn các thành viên khác
trong gia đình rất có ý nghĩa trong toàn quần thể
(p<0,004) và trong nhóm đối tượng thuộc 70 gia
đình có người mang HBsAg (p<0,001) với tính
độc lập cao (giữ nguyên sự khác biệt và tính
nguy cơ cao có ý nghĩa khi phân tích đa biến có
hiệu chỉnh), nhưng chưa thấy rõ mối liên quan
giữa nhiễm HBV của bố mẹ với con cái họ, cũng
giống như kết quả nghiên cứu của chúng tôi tại
Tiên Phong (Ba Vì, 2008)(6) và tại xã Quỳnh Đôi.
Ngược lại, trong nghiên cứu tại cộng đồng dân
tộc miền núi phía Bắc năm 2008 (Bản Cầm, Bảo
Thắng, Lao Cai) với số đối tượng nghiên cứu
tương đối lớn (1146 người), mối liên quan giữa
HBsAg(+) của mẹ và nhất là cả của cả bố lẫn mẹ
đối với tình trạng mang HBsAg của con rất chặt
chẽ; con các mẹ HBsAg(+) có nguy cơ mang
HBsAg cao gấp 15 lần so với con các mẹ
HBsAg(-), và nếu cả bố và mẹ đều mang HBsAg,
các con họ có nguy cơ mang HBsAg cao gấp đến
45 lần so với trẻ có cả bố và mẹ HBsAg(-)(8).
Chúng tôi chưa biết nguyên nhân tại sao có sự
khác biệt như vậy trong các nghiên cứu cùng
loại, có cỡ mẫu khá lớn và ngay cả khi cùng một
khu vực địa lý khá gần nhau(8). Điều này gợi ý
chúng tôi đi sâu hơn trong những nghiên cứu
cùng loại tiếp theo.
Sự nghịch lý về tỷ lệ HBsAg(+) cao trong các
hộ gia đình có ít người so với những hộ đông
hơn (p=0,017), và một cách tương ứng, ở những
gia đình có ít con (1-2 con) so với những gia đình
đông con hơn (p=0,031), và ở những người con
đầu trong gia đình so với các con sinh sau hơn
(p=0,026) cần được đánh giá kỹ lưỡng hơn. Tuy
nhiên, hiện tượng này có thể gợi ý rằng lây
truyền ngang qua tiếp xúc trong các thành viên
trong cùng hộ gia đình là ít phổ biến và không
có tính quyết định trong phương thức lây truyền
vi rút viêm gan B.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cắt ngang tại cộng đồng trên
798 thành viên của 253 hộ gia đình của 5 dân tộc
khác nhau được chọn ngẫu nhiên từ 980 hộ với
3250 thành viên thuộc xã Bản Cầm, huyện Bát
Xát, tỉnh Lào Cai cho thấy: Tỷ lệ HBsAg(+) là
12,4%, ở nam cao hơn rõ rệt so với ở nữ. Trẻ ≤18
tuổi có tỷ lệ HBsAg(+) thấp hơn rõ rệt so với lứa
tuổi cao hơn. Trong số 291 đối tượng thuộc 70 hộ
gia đình có người HBsAg(+), con các gia đình
nhỏ (≤4 người), và gia đình có ít con (1-2 con) có
tỷ lệ HBsAg(+) cao hơn con các gia đình lớn
hơn và đông con hơn; trẻ em là con đầu có tỷ lệ
HBsAg(+) cao hơn các em sinh sau. Không thấy
có mối liên quan giữa tình trạng HBsAg của bố
hoặc mẹ với tình trạng mang HBsAg của các
con họ. Cũng không thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa về tỷ lệ HBsAg(+) giữa các nhóm đối
tượng dân tộc khác nhau. Tỷ lệ HBsAg(+) ở
quần thể nghiên cứu này nằm trong đặc điểm
vùng dịch tễ cao của nước ta. Cần nghiên cứu
sâu thêm các yếu tố khác bên ngoài hộ gia đình
để làm sáng tỏ hơn vai trò lây truyền từ mẹ
sang con cũng như vai trò tác động của gia đình
đông đúc, nhiều con đối với tỷ lệ nhiễm vi rút
viêm gan B tại cộng đồng nhằm tìm được
những những yếu tố cho phép can thiệp làm
giảm nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh nguy hiểm
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Xuân Trường, Nguyễn Văn Bàng (2009). Tỷ lệ nhiễm virus
viêm gan B, C và đồng nhiễm virus viêm gan B/C và đồng
nhiễm virus viêm gan B/C và các kiểu gen virus viêm gan B
thuộc khu vực biên giới Việt Trung (huyện Bát Xát, tỉnh Lào
Cai). Tạp chí nghiên cứu Y học, 64(5): 52-59.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 7
2. Cao Văn Viên, Trần Duy Hưng (2003). Khảo sát tình trạng
nhiễm trùng viêm gan virus B tại công ty xi măng Hoàng
Thạch (Hải Dương) năm 2002. Tạp chí y học Dự phòng, tập
XIII, Phụ bản số 1(59) : 147-50
3. Hipgrave DB, Van NT, Huong VM et al. (2003). Hepatitis B
infection in rural Vietnam and the implications for a national
program of infant immunization. Am J Tro Med Hyg 69:288 -
294.
4. Tran Thien Tuan Huy et al. (2003). “Prevalance of hepatitis
virus types B through E genotypic distribution of HCV in Ho
Chi Minh City, Vietnam”, Hepatology Research, 26: 275-280.
5. Nguyễn Trường Sơn, Bùi Xuân Trường, Nguyễn Khánh
Trạch, Trần Minh Phương, Nguyễn Công Long, Nguyễn Văn
Bàng (2006). Nghiên cứu tỷ lệ các kiểu gen của virus viêm gan
B ở một số người lành mang virus và người mắc bệnh gan
mạn tính tại miền Bắc Việt Nam. Y học lâm sàng. Bệnh viện
Bạch Mai, số 2 (đặc san), tr 139-142.
6. Nguyễn Văn Bàng (2008). Tình hình nhiễm virus và các kiểu
gien virus viêm gan B ở trẻ em và bố mẹ tại xã Tiền Phong (Ba
Vì, Hà Tây). Tạp chí Y học thực hành, 629 : 406-411.
7. Nguyễn Văn Bàng, Lương Công Sỹ (2008). Một số đặc điểm
dịch tễ học nhiễm virus viêm gan B (HBV) ở trẻ em các dân
tộc xã Bản Cầm, Bảo Thắng, Lào Cai. Y học thành phố HCM,
12(4) : 44-48.
8. Nguyễn Vđn Bàng, Nguyễn Thị Vân Anh, Lương Công Sỹ
(2009). Một số đặc điễm dịch tễ học nhiễm virus viêm gan B
(HBV) ở trẻ em và người lớn các dân tộc thuộc xã Bản Cầm,
huyện Bảo Thắng, tỉnh Lao Cai. Tạp chí Nhi khoa, 2(2) : 62-69.
9. Nguyễn Văn Bàng, Nguyễn Thị Vân Anh (2010). Đặc điểm
lâm sàng, sinh học nhiễm virus viêm gan B ở trẻ em và người
lớn các dân tộc tại xã Bản Cầm, Bảo Thắng, Lao Cai. Tạp chí
Nhi khoa, 3(1) : 48-55.
10. Ni YH, Chang MH, Huang LM et al. (2001). Hepatitis B virus
infection in children and adolescents in a hyperendemic area:
15 years after mass hepatitis B vaccination. Ann Intern Med,
135: 796-800.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 8
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhiem_vi_rut_viem_gan_b_o_cac_thanh_vien_trong_ho_gia_dinh_n.pdf