Chúng tôi can thiệp cắt đốt bằng sóng cao
tần trong 2 trường hợp FVT. Kết quả thành công
trong cả hai bệnh nhân. Bệnh nhân không tái
phát trong thời gian theo dõi (1 năm) mà không
cần điều trị phòng ngừa. Theo y văn, tỉ lệ thành
công của RF ablation trong FVT là 71% với biến
chứng nghiêm trọng dưới 5%. Tuy nhiên chỉ có
72% số trẻ không tái phát trong thời gian theo
dõi(3). Nghiên cứu mới nhất năm 2014 trên 6 trẻ
em mắc FVT phân nhánh trái trước, RF ablation
thành công về mặt thủ thuật trong 100% ca
nhưng 4/6 ca phải can thiệp lại ít nhất 1 lần.
Trong thời gian theo dõi sau đó (33 tháng) không
ca nào tái phát(14). Tiêu chuẩn thành công khi
thực hiện thủ thuật được xem là yếu tố quyết
định tỉ lệ tái phát. Vị trí đốt có thể được xác định
bằng 2 phương pháp: thăm dò bằng kích thích
thất cố định (pace mapping) hoặc thăm dò bằng
theo dõi hoạt hoá thất (activating mapping). Vị
trí đốt thành công nếu có điện thế Purkinje đi
trước QRS (trong nhịp xoang) hoặc đi trước QRS
từ 15-42ms (trong nhịp nhanh thất)(11). Một số tác
giả đề nghị vị trí đốt có sự hiện diện của điện thế
tâm trương đi trước điện thế Purkinje trong cơn
nhịp nhanh(16). Đối với FVT phân nhánh trái sau,
tác giả Ma và cộng sự đề nghị tiêu chuẩn thành
công là bệnh nhân có blốc phân nhánh trái sau
trên điện tâm đồ bề mặt sau cắt đốt. Tiêu chuẩn
này rất quan trọng nếu bệnh nhân không tạo
được cơn nhịp nhanh thất khi thăm dò điện sinh
lý hoặc nhịp nhanh thất không ổn định(7).Vì có
nhiều tiêu chuẩn khác nhau do đó kết quả
nghiên cứu trên dân số trẻ em có sự khác biệt rất
lớn. Cần tiến hành thêm những nghiên cứu để
đưa ra tiêu chuẩn phù hợp cho dân số trẻ em
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 556 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhịp nhanh thất trái nguồn gốc bó dẫn truyền ở trẻ em đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán và điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi khoa 103
NHỊP NHANH THẤT TRÁI NGUỒN GỐC BÓ DẪN TRUYỀN 
Ở TRẺ EM ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ. 
Bùi Gio An*, Bùi Thế Dũng**, Đoàn Thái** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và điều trị các trường hợp nhịp nhanh thất trái vô căn 
nguồn gốc từ bó dẫn truyền ở trẻ em nhập khoa Tim mạch Bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca. 
Kết quả: Trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2014, chúng tôi ghi nhận có 5 trường hợp nhịp 
nhanh thất trái vô căn nguồn gốc từ bó dẫn truyền (Fascicular Ventricular Tachycardia-FVT) được nhập viện. 
Tất cả các trường hợp đều thuộc phân nhóm FVT phân nhánh trái sau (posterior FVT) và xuất hiện ở trẻ không 
mắc tật tim cấu trúc. Tuổi nhỏ nhất 5 tuổi và lớn nhất là 12 tuổi. Triệu chứng lâm sàng trong cơn bao gồm: hồi 
hộp (5/5 ca), tiền ngất (1/5 ca), hạ huyết áp (5/5 ca), suy tim (5/5 ca). ECG: Nhịp nhanh QRS dãn đều với hình 
ảnh blốc nhánh phải (RBBB) và trục QRS lệch trái. Phân ly thất nhĩ gặp trong 1/5 ca. Điều trị: 3/5 ca được điều 
trị ban đầu bằng Verapamil (0,1 mg/kg, tối đa 5 mg) và tất cả đều ra cơn với verapamil liều đầu tiên. 2/5 ca còn 
lại điều trị ban đầu bằng adenosine và amiodarone nhưng cắt cơn thất bại. Verapamil được chỉ định cắt cơn thành 
công sau đó. Chỉ có 1 bệnh nhân tái phát FVT trong 24h sau liều verapmil đầu tiên. Chúng tôi can thiệp bằng 
sóng cao tần (RF ablation) trong 2 trường hợp và bệnh nhân không tái phát trong 1 năm theo dõi. 
Kết luận: Nhịp nhanh thất trái nguồn gốc từ bó dẫn truyền (FVT) là loạn nhịp hiếm gặp ở trẻ em. Triệu 
chứng lâm sàng thường nặng với suy tim và hạ huyết áp. Verapamil có hiệu quả cắt cơn tốt ở trẻ em lớn > 1 tuổi. 
Can thiệp cắt đốt bằng sóng cao tần giúp điều trị triệt để và bước đầu cho kết quả tốt trong thời gian theo dõi. 
Từ khóa: nhịp nhanh thất trái vô căn. 
ABSTRACT 
FASCICULAR VENTRICULAR TACHYCARDIAS IN CHILDREN 
Bui Gio An, Bui The Dung, Doan Thai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 103 - 108 
Objective: Determine the clinical and treatment characteristics of fascicular ventricular tachycardia in 
children admitted to Pediatric Cardiology Department of Children Hospital 1. 
Design: Case series report. 
Results: From 2010 to 2014, we had 5 patients with diagnosis of idiopathic left ventricular tachycardia 
(fascicular VT type). All of cases belong to left posterior fascicular VT subtype and none have structural heart 
disease. Youngest age at the time of diagnosis was 5 years old and oldest was 12. Clinical symptoms in 
tachycardia include: palpitation (5/5 patient), pre-syncope but no syncope (1/5 case), hypotension (5/5 cases) and 
heart failure (5/5 cases). ECG: Tachycardia with wide QRS complex, right bundle branches block (RBBB) and 
QRS superior axis. V-A dissociation observed in only one case. Treatment: Verapamil was first line therapy in 3/5 
patients; dose 0.1 mg/kg IV (maximal dose 5 mg); and successful terminate VT in all. 2/5 cases was treated by 
adenosine and amiodarone but fail and using verapamil after that receive good respond without complication. One 
patient has early recurrence FVT in first 24 hours. Catheter radio-frequency ablation procedure was indicated in 2 
* *Bệnh viện Nhi Đồng 1 Tp. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Đại Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS Bùi Gio An ĐT: 0986084399 Email: gioanped@gmail.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Nhi khoa 104
with good result in 1 year follow up. 
Conclusions: Fascicular VT is rare arrhythmias in children. Most of patients have severe symptoms with 
heart failure and hypotension. Verapamil IV is an effective drug in terminating this type of VT in children over 1 
year old. Catheter RF ablation was limit indicated in children and have good result in short term follow up. 
Keywords: Fascicular ventricular tachycardia, idiopathic left ventricular tachycardia, wide complex 
tachycardia, verapamil, catheter ablation, children, verapamil sensitive fascicular VT. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ở người lớn, nhịp nhanh thất đơn dạng vô 
căn thường gặp và liên quan đến bệnh lý tim cấu 
trúc, sẹo cũ sau nhồi máu cơ tim hoặc bệnh cơ 
tim. Tỉ lệ nhịp nhanh thất vô căn có tim bình 
thường dao động từ 10 đến 20% tùy theo nghiên 
cứu(5,9). Trong đó nhịp nhanh thất trái vô căn là 
một thể lâm sàng hiếm gặp và được phân chia 
thành nhiều nhóm nhỏ dựa trên các đặc điểm 
sau: 1) Cơ chế loạn nhịp (vòng vào lại, tự động 
tính hoặc lẫy cò); 2) Vị trí ổ loạn nhịp trong thất 
trái (buồng thoát thất trái, bó trước hoặc sau, 
quanh van hai lá, hệ Purkinje); 3) Đáp ứng với 
thuốc loạn nhịp (nhạy propanolol, nhạy 
verapamil). Nhịp nhanh thất trái nguồn gốc từ 
bó dẫn truyền (Fascicular VT) hay nhịp nhanh 
bó nhạy verapamil (Verapamil-sensitive 
fascicular VT) là dạng hay gặp nhất và được mô 
tả trong nhiều nghiên cứu ở người lớn. Trong 
thực hành chúng tôi rất ít gặp loại loạn nhịp này 
ở trẻ em và hầu hết các báo cáo trước đây đều là 
ca riêng lẻ. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu này nhằm mô tả các đặc điểm lâm sàng cũng 
như điều trị của các trường hợp FVT nhập khoa 
tim mạch tại bệnh viện Nhi Đồng 1. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và 
điều trị các trường hợp trẻ được chẩn đoán nhịp 
nhanh thất trái nguồn gốc bó dẫn truyền nhập 
Khoa tim mạch bệnh viện Nhi đồng 1. 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả hàng loạt ca. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân < 15 tuổi thỏa tiêu chuẩn nhịp 
nhanh thất theo hướng dẫn của AHA(2) và có 
một trong những đặc điểm sau trên ECG 12 
chuyển đạo: 
FVT phân nhánh trái sau: Nhịp nhanh QRS 
dãn đều với dạng blốc nhánh phải và trục QRS 
lệch trái. 
FVT phân nhánh trái trước: Nhịp nhanh QRS 
dãn đều với dạng blốc nhánh phải và trục QRS 
lệch phải. 
FVT vùng vách cao: Nhịp nhanh QRS hẹp và 
trục điện tim nằm trong giới hạn bình thường 
hoặc lệch phải và đáp ứng với verapamil. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Trong khoảng thời gian 2010 đến 2014 chúng 
tôi phát hiện 5 trường hợp FVT nhập khoa tim 
mạch Nhi với các đặc điểm sau: 
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị 
của 5 trường hợp nhịp nhanh thất trái nguồn gốc bó 
dẫn truyền 
Đặc điểm BN 1 BN 2 BN3 BN 4 BN 5 
Tuổi (năm) 8 12 10 5 7 
Giới Nam Nữ Nam Nam Nữ 
Tiền sử nhịp 
nhanh 
(±) (-) (±) (-) 
Triệu chứng lâm sàng 
Hồi hộp (+) (+) (+) (+) (+) 
Ngất (-) (-) (-) (-) (-) 
Tiền ngất (-) (+) (-) (-) (-) 
Đau ngực (+) (-) (-) (-) (-) 
Suy tim (+) (+) (+) (+) (-) 
Hạ huyết áp (+) (+) (+) (+) (+) 
Sốc tim (-) (-) (-) (-) (-) 
Sp02 trong 
cơn 
98% 99% 98% 99% 99% 
Cận lâm sàng 
ECG 
 Phân loại FVT 
phân 
nhánh 
trái sau 
FVT 
phân 
nhánh 
trái sau 
FVT 
phân 
nhánh 
trái sau 
FVT 
phân 
nhánh 
trái sau 
FVT 
phân 
nhánh 
trái sau 
 Tần số thất 182 176 189 220 170 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi khoa 105
Đặc điểm BN 1 BN 2 BN3 BN 4 BN 5 
(l/p) 
Tim to/X-Q 
ngực 
(-) (-) (-) (-) (-) 
Siêu âm tim Bình 
thường 
Bình 
thường 
ASD 
nhỏ 
Bình 
thường 
Bình 
thường 
Điều trị 
Adenosine (+) (-) (-) (-) (-) 
Đặc điểm BN 1 BN 2 BN3 BN 4 BN 5 
Amiodarone (-) (+) (-) (-) (-) 
Verapamil (+) (+) (+) (+) (+) 
RF ablation (-) (+) (+) (-) (-) 
Tái phát trong 
thời gian theo 
dõi 
(+) (-) (-) (-) Không rõ 
Hình 1. Hình ảnh điện tâm đồ trong cơn: Nhịp nhanh QRS dãn đều, tần số 182 lần/phút. Hình ảnh RBBB điển 
hình ở V1, V2 và V6. Trục QRS khoảng – 300. 
Hình 2. Hình ảnh phân ly thất nhĩ với tần số nhĩ- sóng P (mũi tên) thấp hơn tần số thất- QRS. 
BÀN LUẬN 
Nhịp nhanh thất vô căn nguồn gốc bó dẫn 
truyền được phát hiện lần đầu trên ECG vào 
năm 1979 bởi Zipes(18). Loại loạn nhịp này có các 
đặc điểm chính sau: 1) Khởi phát được nhịp 
nhanh bằng kích thích nhĩ chương trình; 2) Hình 
ảnh blốc nhánh phải và trục QRS lệch trái; 3) 
Gặp ở bệnh nhân không có bệnh lý tim cấu trúc. 
Năm 1981, Belhassen và đồng nghiệp lần đầu 
tiên chứng minh loại loạn nhịp này nhạy cảm 
với verapamil và đặt tên là nhịp nhanh thất bó 
nhạy verapamil. Đặc tính này được bổ sung vào 
tiêu chuẩn thứ tư của FVT(1). Năm 1988, Ohe báo 
cáo một biến thể của FVT với hình ảnh ECG của 
blốc nhánh phải (RBBB) và trục QRS lệch phải(8). 
Shimoike và cộng sự năm 2000 mô tả một thể 
hiếm gặp của FVT nguồn gốc ở vùng vách cao(12). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các ca đều 
thuộc nhóm FVT phân nhánh trái sau. Điện tâm 
đồ của bệnh nhân có hình ảnh điển hình với 
RBBB và trục trái (Hình 1). Chúng tôi cũng ghi 
nhận hiện tượng phân ly thất nhĩ ở 1 bệnh nhân 
(Hình 2). Theo hướng dẫn của AHA, chẩn đoán 
FVT cũng tương tự như các nhịp nhanh thất 
khác với các bước theo lưu đồ. Trong đó nhấn 
mạnh đến các dấu hiệu phân ly thất nhĩ, nhịp bắt 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Nhi khoa 106
được, nhịp hỗn hợp và hình ảnh phức bộ QRS từ 
V1 đến V6(2). 
FVT là thể nhịp nhanh thất trái hay gặp nhất. 
Trong một nghiên cứu đa trung tâm trên 152 trẻ 
mắc nhịp nhanh thất trái vô căn, tỉ lệ FVT chiếm 
đến 85%. Phần còn lại bao gồm các nhịp nhanh 
thất trái khác không liên quan bó dẫn truyền(3). 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận sự phổ 
biến của FVT phân nhánh trái sau. Kết quả này 
tương tự với những quan sát trên người lớn 
trong đó FVT phân nhánh trái trước và vùng 
vách rất hiếm gặp(4). 
Về cơ chế loạn nhịp, FPT được xếp vào nhóm 
nhịp nhanh do cơ chế vòng vào lại. Vị trí vòng 
vào lại có thể nằm ở vùng bó sau, bó trước hoặc 
vùng vách cao. Hệ Purkinje được xem là cấu tạo 
nên các thành phần của vòng vào lại(4). 
Tổn thương giải phẫu trong loại loạn nhịp 
này đã được khảo sát kỹ trong nhiều nghiên cứu 
khác nhau. Hầu hết FVT xảy ra ở trẻ có tim bình 
thường hoặc bất thường cấu trúc tim nhẹ(3). Một 
số tác giả cho rằng nhịp nhanh thất bắt nguồn từ 
một sợi gân giả (false tendon) hoặc dải sợi cơ 
hiện diện trong lòng thất trái. Suwa mô tả một 
trường hợp FVT có gân giả trong buồng thất trái. 
Phẫu thuật cắt bỏ các dây chằng này làm biến 
mất nhịp nhanh thất trên lâm sàng(13). Sử dụng 
siêu âm thành ngực và siêu âm thực quản, 
Thakur cũng tìm thấy gân giả kéo dài từ vùng 
sau dưới thất trái đến vùng vách cao trong tất cả 
15 bệnh nhân FVT nhưng chỉ xuất hiện ở 5% 
bệnh nhân thuộc nhóm chứng(15). Tuy nhiên 
những nghiên cứu sau đó lại cho kết quả ngược 
lại và không tìm thấy mối liên hệ nhân quả nào 
giữa gân giả và FVT. Lin và cộng sự quan sát 
thấy dải cơ ở 17/18 bệnh nhân FVT nhưng đồng 
thời cũng thấy hiện tượng này ở 35/40 bệnh 
nhân thuộc nhóm chứng(6). Dải cơ trong thất trái 
thường gặp trên siêu âm tim nhưng vai trò gây 
loạn nhịp còn chưa được biết rõ. Hệ Purkinje bao 
quanh những bất thường giải phẫu nhỏ này có 
thể là nguyên nhân gây ra nhịp nhanh thất do 
vòng vào lại(4). Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ghi 
nhận 1 trường hợp có thông liên nhĩ kích thước 
nhỏ và không có ca nào có gân giả/ bè cơ trên 
siêu âm tim. 
Các bệnh nhân của chúng tôi nhập viện 
muộn trong tình trạng nặng với các triệu 
chứng như suy tim và tụt huyết áp nhưng 
không sốc. Trong các báo cáo trước đây, FVT 
thường dai dẳng và cơn có thể kéo dài trong 
nhiều ngày mà bệnh nhân vẫn dung nạp tốt. 
Mặc dù tiên lượng lâu dài của FVT là khả 
quan, điều trị cắt cơn là hết sức cần thiết nhằm 
chấm dứt triệu chứng và ngăn ngừa diễn tiến 
đến suy tim/sốc tim(11). Đau ngực là triệu 
chứng ít gặp ở trẻ em và được mô tả trên 1 
trường hợp trẻ lớn 8 tuổi. Triệu chứng này 
biến mất khi bệnh nhân chuyển về nhịp 
xoang. 
Về điều trị, FVT đáp ứng rất tốt với 
verapamil đường uống hoặc đường tĩnh mạch 
nhưng hầu như không đáp ứng với adenosine. 
Tỉ lệ thành công của verapamil vào khoảng 80% 
trong một nghiên cứu đa trung tâm(3). Cũng 
trong nghiên cứu này mặc dù verapamil đường 
uống có hiệu quả nhưng khả năng tái phát sớm 
lên đến 21%. Adenosine không hiệu quả trên 
FVT nhưng được sử dụng như là một thử 
nghiệm chẩn đoán phân biệt với nhịp nhanh 
trên thất(2). Chúng tôi ghi nhận 2 trẻ được điều trị 
bằng adenosine và cordarone nhưng thất bại. 
Verapmil sử dụng sau đó vẫn mang lại hiệu quả 
cắt cơn. Verapamil là thuốc chống loạn nhịp 
nhóm IV, ở trẻ em sử dụng liều từ 0,1 mg/kg đến 
0,2 mg/kg tối đa không quá 5 mg, pha loãng bơm 
tĩnh mạch chậm trong 3 đến 5 phút. Verapamil 
chống chỉ định tuyệt đối ở trẻ nhỏ dưới 1 tuổi vì 
những tác dụng phụ nguy hiểm có thể gây tử 
vong(10). Những trường hợp không đáp ứng 
verapamil, có thể phối hợp thêm flecanide hoặc 
propanolol(17). Ngoài cắt cơn, verapamil đường 
uống còn được sử dụng để phòng ngừa tái phát. 
Chúng tôi ghi nhận 1 trường hợp trẻ vẫn tái phát 
với verapamil uống nhưng bệnh nhân từ chối 
can thiệp cắt đốt. 
 Chúng tôi can thiệp cắt đốt bằng sóng cao 
tần trong 2 trường hợp FVT. Kết quả thành công 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nhi khoa 107
trong cả hai bệnh nhân. Bệnh nhân không tái 
phát trong thời gian theo dõi (1 năm) mà không 
cần điều trị phòng ngừa. Theo y văn, tỉ lệ thành 
công của RF ablation trong FVT là 71% với biến 
chứng nghiêm trọng dưới 5%. Tuy nhiên chỉ có 
72% số trẻ không tái phát trong thời gian theo 
dõi(3). Nghiên cứu mới nhất năm 2014 trên 6 trẻ 
em mắc FVT phân nhánh trái trước, RF ablation 
thành công về mặt thủ thuật trong 100% ca 
nhưng 4/6 ca phải can thiệp lại ít nhất 1 lần. 
Trong thời gian theo dõi sau đó (33 tháng) không 
ca nào tái phát(14). Tiêu chuẩn thành công khi 
thực hiện thủ thuật được xem là yếu tố quyết 
định tỉ lệ tái phát. Vị trí đốt có thể được xác định 
bằng 2 phương pháp: thăm dò bằng kích thích 
thất cố định (pace mapping) hoặc thăm dò bằng 
theo dõi hoạt hoá thất (activating mapping). Vị 
trí đốt thành công nếu có điện thế Purkinje đi 
trước QRS (trong nhịp xoang) hoặc đi trước QRS 
từ 15-42ms (trong nhịp nhanh thất)(11). Một số tác 
giả đề nghị vị trí đốt có sự hiện diện của điện thế 
tâm trương đi trước điện thế Purkinje trong cơn 
nhịp nhanh(16). Đối với FVT phân nhánh trái sau, 
tác giả Ma và cộng sự đề nghị tiêu chuẩn thành 
công là bệnh nhân có blốc phân nhánh trái sau 
trên điện tâm đồ bề mặt sau cắt đốt. Tiêu chuẩn 
này rất quan trọng nếu bệnh nhân không tạo 
được cơn nhịp nhanh thất khi thăm dò điện sinh 
lý hoặc nhịp nhanh thất không ổn định(7).Vì có 
nhiều tiêu chuẩn khác nhau do đó kết quả 
nghiên cứu trên dân số trẻ em có sự khác biệt rất 
lớn. Cần tiến hành thêm những nghiên cứu để 
đưa ra tiêu chuẩn phù hợp cho dân số trẻ em. 
KẾT LUẬN 
Nhịp nhanh thất trái là loạn nhịp hiếm gặp ở 
trẻ em và hầu hết thuộc nhóm nhịp nhanh 
nguồn gốc bó dẫn truyền sau. Trên trẻ em lớn, 
loại loạn nhịp này đáp ứng với verapmil mà 
không có tác dụng phụ nào đáng kể. Can thiệp 
bằng sóng cao tần bước đầu mang lại hiệu quả 
cắt cơn và bệnh nhân không cần điều trị phòng 
ngừa trong thời gian theo dõi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Belhassen B, Rotmensch HH, and Laniado S (1981), "Response 
of recurrent sustained ventricular tachycardia to verapamil", 
Br Heart J, 46, Dec, 679-82. 
2. Blomstrom-Lundqvist C, Scheinman MM, Aliot EM, Alpert JS, 
Calkins H, Camm AJ, Campbell WB, Haines DE, Kuck KH, 
Lerman BB, Miller DD, Shaeffer CW, Jr., Stevenson WG, 
Tomaselli GF, Antman EM, Smith SC, Jr., Faxon DP, Fuster V, 
Gibbons RJ, Gregoratos G, Hiratzka LF, Hunt SA, Jacobs AK, 
Russell RO, Jr., Priori SG, Blanc JJ, Budaj A, Burgos EF, Cowie 
M, Deckers JW, Garcia MA, Klein WW, Lekakis J, Lindahl B, 
Mazzotta G, Morais J C, Oto A, Smiseth O, and Trappe HJ 
(2003), "ACC/AHA/ESC guidelines for the management of 
patients with supraventricular arrhythmias--executive 
summary: a report of the American College of 
Cardiology/American Heart Association Task Force on 
Practice Guidelines and the European Society of Cardiology 
Committee for Practice Guidelines (Writing Committee to 
Develop Guidelines for the Management of Patients With 
Supraventricular Arrhythmias)", Circulation, 108, Oct 14, 1871-
909. 
3. Collins KK, Schaffer MS, Liberman L, Saarel E, Knecht M, 
Tanel RE, Bradley D, Dubin AM, PaulT, Salerno J, Bar-Cohen 
Y, Sreeram N, Sanatani S, Law IH, Blaufox A, Batra A, 
Moltedo JM, van Hare GF, Reed J, Ro PS, Kugler J, Anderson 
C, and Triedman JK (2013), "Fascicular and nonfascicular left 
ventricular tachycardias in the young: an international 
multicenter study", J Cardiovasc Electrophysiol, 24, Jun, 640-8. 
4. David J. Wilber DLP, and William GS. (2008), "Catheter 
ablation of cardiac arrhythmias: basic concepts and clinical 
applications", 3 ed, Blackwell Publishing, Massachusetts 1, 
375. 
5. Lerman BB, Stein KM, and Markowitz SM. (1997), 
"Mechanisms of idiopathic left ventricular tachycardia", J 
Cardiovasc Electrophysiol, 8, May, 571-83. 
6. Lin FC, Wen MS, Wang CC, Yeh SJ, and WuD. (1996), "Left 
ventricular fibromuscular band is not a specific substrate for 
idiopathic left ventricular tachycardia", Circulation, 93, Feb 1, 
525-8. 
7. Ma FS, Ma J, Tang K, Han H, Jia Y H, Fang PH, Chu JM, Pu 
JL, and Zhang S. (2006), "Left posterior fascicular block: a new 
endpoint of ablation for verapamil-sensitive idiopathic 
ventricular tachycardia", Chin Med J (Engl), 119, Mar 5, 367-72. 
8. Ohe T, Shimomura K, Aihara N, Kamakura S, Matsuhisa M, 
Sato I, Nakagawa H, and Shimizu A. (1988), "Idiopathic 
sustained left ventricular tachycardia: clinical and 
electrophysiologic characteristics", Circulation, 77, Mar, 560-8. 
9. Okumura K and Tsuchiya T. (2002), "Idiopathic left 
ventricular tachycardia: clinical features, mechanisms and 
management", Card Electrophysiol Rev, 6, Feb, 61-7. 
10. Radford D. (1983), "Side effects of verapamil in infants", Arch 
Dis Child, 58, Jun, 465-6. 
11. Schmitt, Deisenhofer, and Brenner. (2006), "Catheter ablation 
of Cardiac arrhythmias", 1 ed, Springer Science, Munchen, 1, 
183-210. 
12. Shimoike E, Ueda N, Maruyama T, and Kaji Y. (2000), 
"Radiofrequency catheter ablation of upper septal idiopathic 
left ventricular tachycardia exhibiting left bundle branch block 
morphology", J Cardiovasc Electrophysiol, 11, Feb, 203-7. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Nhi khoa 108
13. Suwa M, Yoneda Y, Nagao H, Sakai Y, Nakayama Y, Hirota 
Y, Kawamura K, and Iwa T. (1989), "Surgical correction of 
idiopathic paroxysmal ventricular tachycardia possibly 
related to left ventricular false tendon", Am J Cardiol, 64, Nov 
15, 1217-20. 
14. Suzuki T, Nakamura Y, Yoshida S, Yoshida Y, Nakamura K, 
Sasaki T, Fujino M, Kawasaki Y, Ehara E, Murakami Y, and 
Shintaku H. (2014), "Radiofrequency Catheter Ablation of 
Idiopathic Left Anterior Fascicular Ventricular Tachycardia in 
Children", Heart Rhythm, Jun 19. 
15. Thakur RK, Klein GJ, Sivaram CA, Zardini M, Schleinkofer 
DE, Nakagawa H, Yee R, and Jackman WM. (1996), 
"Anatomic substrate for idiopathic left ventricular 
tachycardia", Circulation, 93, Feb 1, 497-501. 
16. Wen MS, Yeh SJ, Wang CC, Lin FC, and WuD. (1997), 
"Successful radiofrequency ablation of idiopathic left 
ventricular tachycardia at a site away from the tachycardia 
exit", J Am Coll Cardiol, 30, Oct, 1024-31. 
17. Yasui K, Shibata T, Yokoyama U, Nishizawa T, Takigiku K, 
Sakon T, Kobayashi H, Iwamoto M, and Niimura I (2001), 
"Idiopathic sustained left ventricular tachycardia in pediatric 
patients", Pediatr Int, 43, Feb, 42-7. 
18. Zipes DP, Foster PR, Troup PJ, and Pedersen DH. (1979), 
"Atrial induction of ventricular tachycardia: reentry versus 
triggered automaticity", Am J Cardiol, 44, Jul, 1-8. 
Ngày nhận bài báo: 24/6/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo : 30/6/2014/ 
Ngày bài báo được đăng: 20/08/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nhip_nhanh_that_trai_nguon_goc_bo_dan_truyen_o_tre_em_dac_di.pdf nhip_nhanh_that_trai_nguon_goc_bo_dan_truyen_o_tre_em_dac_di.pdf