Nhồi máu động mạch não giữa kèm theo nhồi máu động mạch não sau cùng bên. Giới thiệu của bệnh
Điểm Glasgow trước mổ:
Reddy A.K (2002) nghiên cứu mở sọ
giải ép trong đột quỵ nhồi máu não cho
17 BN có điểm Glasgow trước mổ 8 - 13,
tất cả đều sống. Trong khi đó, nhóm BN
có điểm Glasgow trước mổ 3 - 7, tử vong
11/15 (73%) [7]. Theo tài liệu nước ngoài,
phần lớn BN NMĐM não giữa được mổ
khi Glasgow (GCS) 10 - 13 điểm.
Chúng tôi tiến hành mổ khi GCS
< 5 điểm: 2/3 BN tử vong; GCS 5 -
8 điểm: 3/31 tử vong và GCS > 8 điểm:
1/41 tử vong.
Có 2 vấn đề cần quan tâm đối với BN
này là khởi phát bệnh và kích thước
mảnh sọ được mở.
Khởi phát bệnh đột ngột, BN tự dưng
kêu đau đầu, đi nằm; sau đó khoảng
30 phút, người nhà phát hiện thấy BN ú
ớ, không nói được; một tay quờ quạng,
đưa lên, đưa xuống; yếu vận động một
nửa người; nôn. Tri giác giảm, nhập viện
Glasgow 8 điểm.
Ở BN bị đột quỵ nhồi máu não, khởi
phát bệnh đột ngột với các triệu chứng
trên, tiên lượng thường nặng và tỷ lệ tử
vong cao (Kristian, 1997; Marc Simard,
2011) [6, 8].
Gupta và CS (2004); Jennifer và CS
(2015) cho rằng kích thước xương sọ
được mở theo chiều trước - sau ở người
lớn, tối thiểu từ 12 - 14 cm và chiều trên -
dưới là 9 cm, não có khả năng không bị
chèn ép [3, 4]. Klaus Zweckberger (2014)
cho rằng: mảnh xương sọ được mở < 12 cm
sẽ gây tổn thương vỏ não và tăng tỷ lệ tử
vong [5].
Thực tế, trên ảnh cắt lớp của BN này
(hình 1), kích thước mảnh sọ được mở
theo chiều trước - sau, khoảng 10 cm.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 31 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhồi máu động mạch não giữa kèm theo nhồi máu động mạch não sau cùng bên. Giới thiệu của bệnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017
148
NHỒI MÁU ĐỘNG MẠCH NÃO GIỮA KÈM THEO
NHỒI MÁU ĐỘNG MẠCH NÃO
SAU CÙNG BÊN. GIỚI THIỆU CỦA BỆNH
Trương Đà*; Bùi Quang Tuyển**
Vũ Văn Hòe**; Bùi Quang Dũng**
TÓM TẮT
Nhồi máu động mạch (NMĐM) não giữa kèm theo NMĐM não sau hiếm gặp. Trong số
75 trường hợp NMĐM não giữa được phẫu thuật mở sọ giải ép, chúng tôi gặp 2 trường hợp có
kèm theo NMĐM não sau cùng bên. Giới thiệu bệnh án và điểm tài liệu về NMĐM não giữa
kèm theo NMĐM não sau cùng bên là mục đích nghiên cứu của đề tài.
* Từ khóa: Nhồi máu động mạch não giữa; Nhồi máu động mạch não sau.
Middle Cerebral Artery Infarction Combine with Ipsilateral Posterior
Cerebral Artery Infarction. Case report
Summary
Infarction of middle cerebral artery accompanied with that of posterior cerebral artery is a
rare entity. Of 75 patients having infarction in the territory of middle cerebral artery undergone
decompressve craniectomy, there were 2 cases of coexisting infarction of ipsilateral posterior
cerebral artery. We present here the case report and summarize the relevant materials.
* Keywords: Middle cerebral artery infarction; Posterior cerebral artery infarction.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ tháng 01 - 2013 đến 11 - 2016,
Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Bệnh viện
Chợ Rẫy đã phẫu thuật mở sọ giải ép cho
75 trường hợp NMĐM não giữa, trong đó
có 2 trường hợp NMĐM não giữa kèm
theo NMĐM não sau cùng bên. Kết quả
sau mở sọ giải ép cho 2 trường hợp này,
tử vong 1 và hồi phục sức khỏe 1.
Chúng tôi xin giới thiệu một trong hai
trường hợp này, đó là trường hợp tử
vong vì khởi phát bệnh đột ngột, diễn biến
nặng ngay từ đầu và điểm tài liệu về vấn
đề này.
GIỚI THIÊU BỆNH ÁN
BN Lê Văn T, 58 tuổi; quê Hờn Quản,
Bình Phong, Bình Phước; số bệnh án nhập
viện U606: 91510. Tóm tắt bệnh án như
sau: tối ngày 29 - 9 - 2016, bệnh nhân
(BN) kêu đau đầu, đi nằm. Đến 20 giờ 30
phút, người nhà thấy tay trái BN cứ đưa
lên, đưa xuống; mắt nhắm nghiền, thở nhanh,
gọi hỏi không đáp ứng. Người nhà đưa
BN tới Trung tâm Y tế Bình Long, sau đó
chuyển ngay lên Bệnh viện Chợ Rẫy lúc 2
giờ sáng ngày 30 - 9 với biểu hiện huyết
áp 120/70 mmHg; mạch 70 lần/phút; nhiệt
độ 37,50C; tự thở 20 lần/phút.
* Bệnh viện Chợ Rẫy
** Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding): Bùi Quang Tuyển (buiquangtuyenb9@gmail.com)
Ngày nhận bài: 25/05/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 07/08/2017
Ngày bài báo được đăng: 18/09/2017
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017
149
Xét nghiệm đường máu 125 mg/dl;
creatinin 1,27 mg/dl; điện tim block nhĩ
thất độ I, sóng T dẹt; nôn 1 lần; u ám, gọi
hỏi đáp ứng chậm, Glasgow 8 điểm
(E1V2M5); mất ngôn ngữ vận động,
không nói được; đồng tử 2 bên 2,5 mm,
đều, phản xạ ánh sáng (+); liệt dây thần
kinh VII trung ương bên phải; liệt 1/2
người bên phải; Babinski (+) bên phải;
sức cơ 0/5. Trên phim cắt lớp vi tính
(CLVT): giảm đậm độ tương ứng vùng chi
phối động mạch não giữa và động mạch
não sau bán cầu não trái; đẩy đường
giữa gần 1,5 cm (hình 1).
A
B
Hình 1: Hình ảnh CLVT ở BN Lê Văn T, 58 tuổi bị NMĐM não giữa kèm NMĐM não
sau bán cầu não bên trái. Hình ảnh cắt lớp trước mổ (A) và sau mổ (B).
Ngày 01 - 10 - 2016, BN được tiến
hành phẫu thuật vào 2 giờ 30 phút, mở sọ
bên trái; mở và vá trùng màng cứng bằng
cân cơ thái dương. Sau mổ, tri giác BN
không tốt lên, thở máy hoàn toàn; huyết
áp giảm dần; chụp lại CLVT sau mổ thấy
phù não và đẩy đường giữa tăng. Ngày
02 - 10 - 2016: Glasgow 3 điểm; thở máy
hoàn toàn; huyết áp 90/60 mmHg (có
dùng thuốc co mạch); tình trạng quá
nặng, gia đình xin cho BN xuất viện.
BÀN LUẬN
Theo Hacke W (1996), NMĐM não
giữa thể hiện trên phim cắt lớp là vùng
giảm đậm độ toàn bộ khu vực cấp máu
của động mạch não giữa. NMĐM não
giữa gặp khoảng 10 - 15% đột quỵ nhồi
máu não trên lều, nhưng tử vong có thể
tới 80% nếu điều trị nội khoa do phù não
cấp, tăng áp lực nội sọ dẫn tới tụt kẹt não.
Nhồi máu động mạch não giữa thường
đơn thuần, nhưng đôi khi kết hợp với
NMĐM não trước hoặc động mạch não
sau. Nhồi máu nhiều động mạch cùng lúc,
diễn biến thường nặng, xấu đi nhanh và
tỷ lệ tử vong rất cao. Scott C Robertson
(2004) cho biết: trong số 12 trường hợp
NMĐM não sau, có 2 trường hợp kèm
theo NMĐM não trước và NMĐM não
sau. Kết quả 2 BN này đều tử vong sau
phẫu thuật [10].
Động mạch não sau cấp máu cho mặt
dưới thùy thái dương và thùy chẩm (hình
2, ảnh B). Hình ảnh NMĐM não sau là
vùng giảm đậm độ thùy chẩm (hình 2,
ảnh A). Theo Brandt T (2000), đột quỵ do
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017
150
NMĐM não sau gặp khoảng 5 - 10% [1].
Nhà thần kinh Charles Foix (người Pháp)
mô tả triệu chứng NMĐM não sau đầu
tiên vào năm 1923, biểu hiện: liệt nhẹ
nửa người bên đối diện; mất cảm giác
nửa người kèm tăng đau khó chịu (kiểu
thalamus); đau đầu một bên là triệu
chứng hay gặp; thiếu hụt thị trường
(visualfield deficit); bán manh cùng tên
phía đối bên (homonymous hemianopia);
rối loạn hành vi (behavioural disturbance)
như hoang tưởng kích động (agitated
delirium); rối loạn ngôn ngữ giác quan
(sensory aphasia) tức là không gọi được
tên đồ vật (anomic); mất trí nhớ hoàn
toàn (global amnesia). BN dẫn chứng nói
trên là kết hợp với tắc hoàn toàn động
mạch não giữa, diễn biến lâm sàng xấu
nhanh nên không phát hiện được triệu
chứng của NMĐM não sau.
A B C D
Hình 2: Động mạch não sau cấp máu cho thùy chẩm và thùy thái dương (ảnh B) và
hình ảnh NMĐM não sau trên phim cắt lớp (ảnh A). Hình ảnh NMĐM não trước
(ảnh C) và NMĐM não giữa (ảnh D).
Eugene Lee (2009), phân tích hình
ảnh chụp cộng hưởng từ khuếch tán
(diffusion-weighted MRI) ở 205 BN bị
NMĐM não sau thấy 126 trường hợp
(61,5%) có nhồi máu khu vực động mạch
não sau (PAC territory only); trong đó,
79 trường hợp (38,5%) có kết hợp nhồi
máu khu vực động mạch não khác (PCA
territory plus), nghĩa là NMĐM não sau
kết hợp với NMĐM não trước (29 BN);
NMĐM não sau cả hai bên (11 BN); kết
hợp với NMĐM não giữa hay gặp nhất
(17,6%); với động mạch tiểu não trên
(4,5%) và động mạch màng mạch trước
(1%) [2].
Chẩn đoán đột quỵ nhồi máu não chủ
yếu dựa vào chụp CLVT. Nếu NMĐM não
giữa hoặc động mạch não lớn khác, chụp
cắt lớp có thể phát hiện vùng nhồi máu
trong những giờ đầu sau đột quỵ, đó là
vùng giảm đậm độ chiếm 50% khu vực
động mạch đó cấp máu và có thể thấy
hình ảnh choán chỗ như đẩy đường giữa,
chèn ép não thất. Nhưng đối với ổ nhồi
máu nhỏ nằm ở vùng bao trong, đồi thị,
cầu não hoặc hành não, chụp cắt lớp
không phát hiện ổ tổn thương mà phải
chụp cộng hưởng từ hoặc chụp cắt lớp
đa dãy mới có thể phát hiện ổ nhồi máu.
* Điều trị:
Theo Klaus Zweckberger và CS
(2014), Wolf-Dieter Heiss (2016) và một
số tác giả khác cho rằng [5, 12]: NMĐM
não giữa (có hoặc không kèm theo
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017
151
NMĐM não khác), mở sọ giải ép là
phương pháp điều trị có hiệu quả, làm
giảm tỷ lệ tử vong từ 80% xuống 33% và
tạo điều kiện phục hồi chức phận thần
kinh sau mổ tốt hơn.
* Những yếu tố liên quan tới kết quả
phẫu thuật: tuổi, thời điểm phẫu thuật,
điểm Glasgow trước mổ và kích thước
mảnh xương sọ được mở.
Ahmet Arac và CS (2009) báo cáo
269 BN được phẫu thuật mở sọ giải ép
trong nhồi máu não, tỷ lệ tử vong 51,3%
(37/72) ở nhóm BN > 60 tuổi so với
20,8% (41/197) ở nhóm BN < 60 tuổi
(p < 0,0001). Đồng thời, tác giả nhận thấy
hồi phục chức phận thần kinh kém ở
nhóm BN > 60 tuổi là 81,8% so với 33,1%
ở nhóm BN < 60 tuổi [9].
Thời điểm phẫu thuật càng sớm, tỷ lệ
tử vong càng thấp và hồi phục chức phận
thần kinh sau mổ tốt hơn. Schwab S
(1998) nghiên cứu kết quả mở sọ cho
63 BN bị nhồi máu não thấy: mổ sớm
21 giờ kể từ khi BN nhập viện cấp cứu vì
đột quỵ, tử vong 16%; mổ muộn 39 giờ,
tử vong lên tới 34%. Cho D.Y và CS
(2003) nghiên cứu 12 BN được phẫu
thuật mở sọ rất sớm (ultra-early
decompressive craniectomy) trong 6 giờ
sau đột quỵ thấy tỷ lệ tử vong 8,3% so với
36,7% mổ muộn và 80% nếu điều trị bảo
tồn (conservative treatment).
Hầu hết các tác giả tiến hành mổ vào
thời điểm 24 - 48 giờ sau đột quỵ là thích
hợp nhất, giảm tỷ lệ tử vong và cải thiện
chức phận thần kinh sau mổ.
* Điểm Glasgow trước mổ:
Reddy A.K (2002) nghiên cứu mở sọ
giải ép trong đột quỵ nhồi máu não cho
17 BN có điểm Glasgow trước mổ 8 - 13,
tất cả đều sống. Trong khi đó, nhóm BN
có điểm Glasgow trước mổ 3 - 7, tử vong
11/15 (73%) [7]. Theo tài liệu nước ngoài,
phần lớn BN NMĐM não giữa được mổ
khi Glasgow (GCS) 10 - 13 điểm.
Chúng tôi tiến hành mổ khi GCS
< 5 điểm: 2/3 BN tử vong; GCS 5 -
8 điểm: 3/31 tử vong và GCS > 8 điểm:
1/41 tử vong.
Có 2 vấn đề cần quan tâm đối với BN
này là khởi phát bệnh và kích thước
mảnh sọ được mở.
Khởi phát bệnh đột ngột, BN tự dưng
kêu đau đầu, đi nằm; sau đó khoảng
30 phút, người nhà phát hiện thấy BN ú
ớ, không nói được; một tay quờ quạng,
đưa lên, đưa xuống; yếu vận động một
nửa người; nôn. Tri giác giảm, nhập viện
Glasgow 8 điểm.
Ở BN bị đột quỵ nhồi máu não, khởi
phát bệnh đột ngột với các triệu chứng
trên, tiên lượng thường nặng và tỷ lệ tử
vong cao (Kristian, 1997; Marc Simard,
2011) [6, 8].
Gupta và CS (2004); Jennifer và CS
(2015) cho rằng kích thước xương sọ
được mở theo chiều trước - sau ở người
lớn, tối thiểu từ 12 - 14 cm và chiều trên -
dưới là 9 cm, não có khả năng không bị
chèn ép [3, 4]. Klaus Zweckberger (2014)
cho rằng: mảnh xương sọ được mở < 12 cm
sẽ gây tổn thương vỏ não và tăng tỷ lệ tử
vong [5].
Thực tế, trên ảnh cắt lớp của BN này
(hình 1), kích thước mảnh sọ được mở
theo chiều trước - sau, khoảng 10 cm.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017
152
KẾT LUẬN
Nhồi máu động mạch não giữa kèm
theo NMĐM não sau là thương tổn nặng,
tiên lượng xấu và tỷ lệ tử vong cao nếu
điều trị bằng thuốc. Phẫu thuật mở sọ giải
ép là biện pháp hữu hiệu nhằm cứu sống
người bệnh và tạo khả năng phục hồi
chức phận thần kinh sau mổ tốt hơn.
Chỉ định phẫu thuật mở sọ giải ép đối
với NMĐM não giữa có hoặc không
có kèm theo NMĐM não khác, đó là: điều
trị nội khoa thất bại; Glasgow giảm 2 -
3 điểm so với khi nhập viện; trên ảnh cắt
lớp, vùng nhồi máu chiếm > 50% diện
tích mà động mạch đó cấp máu kèm theo
hiệu ứng choán chỗ: đẩy đường giữa
≥ 5 mm, chèn đẩy hoặc xóa mất não thất
bên và bể đáy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brandt T, Steinke W et al. Posterior
cerebral artery territory infarcts: clinical features,
infarct topography, causes and outcome.
Multicenter results and a review of the
literature. Cerebrovasc Dis. 2000, 10 (3),
pp.170-82.
2. Eugene Lee, Dong-Wha Kang et al.
Posterior cerebral artery infarction: diffusion-
weighted MRI analysis of 205 patients.
Cerebrovasc Dis. 2009, 28, pp.298-305.
3. Gupta R et al. Hemicraniectomy for
massive middle cerebral artery territory
infarction: a systematic review. Stroke. 2004,
35 (2), pp.539-43.
4. Jennifer C.V Gwyn et al. Management of
malignant middle cerebral artery infarction.
EMJ Neurol. 2015, 3 (1), pp.57-62.
5. Klaus Zweckberger et al. Surgical
aspects of decompressive craniectomy in
malignant stroke: review. Cerebrovasc Dis.
2014, 38, pp.313-323.
6. Kristian Reiner Wirtz, Thorsten Steiner
et al. Hemicraniectomy with dural augmentation
in medically uncontrollable hemispheric infarction.
Neurosurgical Focus 2 (5): article 3. 1997.
7. Reddy A.K, Saradhi V et al. Decompressive
craniectomy for stroke: indication and results.
Neurol India. 2002, 50 Suppl, pp.66-9.
8. Marc Simard J, Juan Sahuquillo et al.
Managing malignant cerebral infarction.
Neurol. 2011, 13 (2), pp.217-229.
9. Ahmet Arac et al. Assessment of
outcome following decompressive craniectomy
for malignant middle artery infarction in patients
older than 60 years of age. Neurosurg Focus.
2009, 26 (6).
10. Scott C Robertson et al. Clinical course
and surgical management of massive cerebral
infarction. Neurosurgery. 2004, Vol 55, No 1.
11. Servan J et al. Aphasia and infarction
of posterior cerebral artery territory. Journal of
Neurology. 1995, Vol 242, issue 2, pp.87-92.
12. Wolf-Dieter Heiss. Malignant MCA
infarction: pathophysiology and imaging for
early diagnosis and management decisions.
Cerebrovasc Dis. 2016, 41, pp.1-7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhoi_mau_dong_mach_nao_giua_kem_theo_nhoi_mau_dong_mach_nao.pdf