Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhi ung thư tại khoa ung thư, bệnh viện Nhi trung ương năm 2018

Với nhu cầu hỗ trợ tâm lý, tinh thần: tiểu mục có tỷ lệ nhu cầu cao nhất là nhu cầu được động viên khích lệ và nhu cầu củng cố niềm tin trong quá trình điều trị (81,1% có nhu cầu). Từ đó có thể thấy rằng, trong tổng số đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ trẻ dưới 6 tuổi chiếm tỷ lệ cao nên những nhu cầu liên quan đến các vấn đề tâm lý như mặc cảm, thể hiện cảm xúc, suy nghĩ tiêu cực, chán nản thì cha mẹ bệnh nhi đều chưa có nhu cầu hỗ trợ, bệnh nhi còn quá nhỏ, chưa thể hiện được các cảm xúc nên cha mẹ thấy chưa có nhu cầu hỗ trợ những tiểu mục đó, nó phù hợp với những trẻ lớn hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ nhu cầu chung của nội dung này là 61,6% cũng khá cao, đã cho thấy, cha/mẹ bệnh nhi cũng quan tâm hơn đến vấn đề hỗ trợ tâm lý, tinh thần khi con họ đang điều trị ung thư. Với nhu cầu hỗ trợ giao tiếp, quan hệ: cha/mẹ bệnh nhi ngoài quan tâm chăm sóc cho con, họ còn quan tâm đến môi trường điều trị tại bệnh viện, họ cũng muốn con họ được giao tiếp, hòa nhập với bạn bè cùng hoàn cảnh trong bệnh viện. So sánh với kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Ngọc Sơn có tỷ lệ nhu cầu là gần 70% [3] thì tỷ lệ ở nghiên cứu này là 45,8%, thấp hơn do nghiên cứu của Phạm Ngọc Sơn trên đối tượng bệnh nhân phẫu thuật thần kinh là người lớn, thường xuyên ở viện một mình nên họ quan tâm hơn đến những hỗ trợ trong giao tiếp tại viện, còn nghiên cứu này do cha/mẹ là người trực tiếp chăm sóc cho con nên sẽ nhìn nhận vấn đề tự đánh giá cho con ở nhu cầu này thấp hơn ở người lớn. Với nhu cầu hỗ trợ thể chất: Đối với bệnh nhân ung thư, đặc biệt là đối với những bệnh nhân phải dùng hóa chất điều trị thì việc xuất hiện các triệu chứng như buồn nôn, nôn, đau đớn, phù là những triệu chứng rất dễ gặp phải. Vì thế, người bệnh rất cần hỗ trợ để giảm tình trạng đó, với bệnh nhi ung thư cũng vậy, nhất là với tác dụng của hóa chất, thể trạng các bé rất mệt mỏi, xanh xao [1], do đó tỷ lệ nhu cầu hỗ trợ giảm tình trạng mệt mỏi cao hơn tỷ lệ những nhu cầu khác trong hỗ trợ thể chất. Tuy nhiên, trong các nội dung CSGN thì nhu cầu hỗ trợ thể chất có tỷ lệ 32,1% là thấp so với các nghiên cứu khác do trong chăm sóc bệnh nhi ung thư, các triệu chứng thường gặp như sốt, buồn nôn, đau, nôn trớ được NVYT thực hiện hằng ngày, do đó nhu cầu hỗ trợ thể chất thấp hơn hẳn các nhu cầu khác.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhi ung thư tại khoa ung thư, bệnh viện Nhi trung ương năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạp chí nhi khoa 2018, 11, 4 58 NHU CẦU CHĂM SÓC GIẢM NHẸ CHO BỆNH NHI UNG THƯ TẠI KHOA UNG THƯ, BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2018 Nguyễn Thị Thu Tuyết*, Bùi Ngọc Lan*, Lê Thị Kim Ánh** *Bệnh viện Nhi Trung ương; **Đại học Y tế Công cộng TÓM TẮT Đặt vấn đề: Đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ (CSGN) cho bệnh nhi ung thư giúp các nhà hoạch định xác định được mối quan tâm của bệnh nhi và gia đình họ, từ đó có thể xây dựng và phát triển kế hoạch chăm sóc phù hợp với nhu cầu từng bệnh nhân ung thư. Mục tiêu: Đánh giá nhu cầu CSGN cho bệnh nhi ung thư tại khoa Ung thư năm 2018. Phương pháp: Nghiên cứu định lượng, mô tả cắt ngang. Thông tin thu thập từ 190 cha mẹ bệnh nhi để đánh giá nhu cầu CSGN cho con của họ với bộ câu hỏi phát vấn đánh giá nhu cầu theo 3 cấp độ với 33 tiểu mục nằm trong 5 khía cạnh CSGN: Nhu cầu hỗ trợ thể chất; Tâm lý, tinh thần; Giao tiếp, quan hệ; Tài chính, phúc lợi xã hội; Thông tin y tế. Phân tích số liệu trên SPSS 20.0 với bảng biểu mô tả tần số và tỷ lệ các nhu cầu. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu hỗ trợ cao nhất là các tiểu mục của nhu cầu thông tin y tế (93,7%), kế đến là nhu cầu hỗ trợ tài chính, phúc lợi xã hội (88,4%); nhu cầu hỗ trợ tâm lý, tinh thần (61,6%); nhu cầu hỗ trợ giao tiếp, quan hệ (45,8%) và cuối cùng là nhu cầu hỗ trợ thể chất (32,1%). Kết luận: Nhu cầu CSGN của bệnh nhi ung thư tập trung nhiều vào nội dung hỗ trợ thông tin y tế và hỗ trợ tài chính, phúc lợi xã hội. Từ khóa: Chăm sóc giảm nhẹ, bệnh nhi ung thư, nhu cầu. ABSTRACT PALLIATIVE CARE FOR CANCER PATIENTS IN ONCOLOGY DEPARTMENT AT NATIONAL HOSPITAL OF PEDIATRIC 2018 Background: Needs Assessment in the Palliative Care (PC) of Cancer Patients helps the planners to determine the concerns of the patients and their famillies, which enable them to establish and develop caring plans that fit the patients’ needs. Objective: This study evaluates the PC needs of cancer pediatric patients in Oncology Department in 2018. Methods: Quantitative research, along with cross-sectional descriptive study. The data was collected from 190 pediatric patients’ parents to assess the PC needs for their children with the needs assessment questionaires evaluating the needs into 3 levels with 33 sub-sections in 5 fields of PC: physical; mental; communication, relation; financial, social welfare; medical information. The data was analyzed on SPSS 20.0 with tables to describe frequency and percentage of the needs. Results: The proportion of patients with the highest needs was the demand for medical information (93.7%), followed by financial support, social welfare supports (88.4%), mental supports (61.6%), communication supports (45.8%), and physical suppports (32.1%). Conclusion: Medical information, financial supports and social welfare supports are the main PC needs of cancer pediatric patients. Keywords: Palliative care, cancer pediatric patients, need. Nhận bài: 15-7-2018; Thẩm định: 20-8-2018 Người chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Thu Tuyết Địa chỉ: Bệnh viện Nhi Trung ương 59 phần nghiên cứu 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, mỗi năm trên thế giới có khoảng 160.000 trẻ mới mắc ung thư và 90.000 trường hợp tử vong do ung thư, trong đó 80% ở các nước đang phát triển. Tuy ung thư là bệnh hiếm gặp ở trẻ em với tỷ lệ khoảng 1-2% trong tổng số các bệnh ung thư nhưng 10- 12% ca tử vong ở trẻ em có liên quan đến bệnh ung thư [2]. Ung thư và HIV/AIDS là hai bệnh luôn được khuyến cáo điều trị đi kèm CSGN [4]. Theo Tổ chức Y tế thế giới, CSGN là cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh và gia đình người bệnh, những người đang đối mặt với những vấn đề sức khỏe đe dọa tính mạng, thông qua sự ngăn ngừa và làm giảm gánh nặng họ chịu đựng bằng cách nhận biết sớm, đánh giá toàn diện, điều trị đau và các vấn đề khác như thể lực, tâm lý xã hội và tâm linh [7]. Đánh giá nhu cầu CSGN ở trẻ em, đặc biệt là trẻ em ung thư sẽ giúp những nhà hoạch định xác định được mối quan tâm của bệnh nhi và gia đình họ, từ đó các nhóm sẽ có thể xây dựng và phát triển kế hoạch chăm sóc phù hợp với nhu cầu của từng bệnh nhân và cải thiện kết cục bằng cách xác định và quản lý các vấn đề một cách nhanh chóng. Khoa Ung thư, Bệnh viện Nhi Trung ương, trung bình mỗi năm tiếp nhận khám và điều trị hơn 400 bệnh nhân mới, khám hơn 6000 lượt bệnh nhân ngoại trú, nhập khoa hơn 2000 lượt bệnh nhân nội trú. Từ tháng 8/2017, khoa Ung thư sát nhập cùng khoa Huyết học lâm sàng thành Trung tâm Ung thư- Huyết học Nhi khoa, trực thuộc Bệnh viện Nhi trung ương. Trong giai đoạn sắp tới, Trung tâm sẽ xây dựng đơn vị Giảm đau và Chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhi ung thư và bệnh máu lành tính. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục tiêu: Mô tả nhu cầu CSGN cho bệnh nhi ung thư, góp phần làm cơ sở để phát triển kế hoạch chăm sóc của đơn vị Giảm đau và CSGN trong thời gian tới. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: là bệnh nhi ung thư từ 0 đến 16 tuổi, được chẩn đoán và điều trị nội trú tại khoa Ung thư, có cha/mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu. Trên thực tế, lứa tuổi chủ yếu của bệnh nhi tại khoa Ung thư là dưới 6 tuổi nên cha/ mẹ bệnh nhi sẽ là người cung cấp thông tin để đánh giá các nhu cầu hỗ trợ CSGN cho trẻ. 2.2. Thiết kế: Nghiên cứu định lượng, mô tả cắt ngang. 2.3. Sử dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng một tỷ lệ, trong đó tỷ lệ ước lượng là tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu CSGN. Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này, do đó chúng tôi tham khảo nghiên cứu của Weaver M.S năm 2017 về đánh giá nhu cầu CSGN ở trẻ em ở Omaha, Nebraska, Mỹ. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ các nhu cầu CSGN từ khoảng 23% đến 82%, do đó để đạt được cỡ mẫu lớn nhất, chúng tôi chọn p=60% để ước lượng. Với mức ý nghĩa 5% và sai số tuyệt đối 7%, cỡ mẫu tối thiểu tính được là 188 bệnh nhi, tương đương 188 cha/mẹ bệnh nhi. Thực tế, nghiên cứu đã thu thập trên 190 cha/mẹ bệnh nhi. Theo ghi nhận tại khoa Ung thư, trung bình mỗi tháng, khoa tiếp nhận 200-210 bệnh nhân vào điều trị nội trú và ngoại trú. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện trong 2 tháng (tháng 4-5/2018) để thu thập đủ 190 bệnh nhi và cha/mẹ tương ứng đáp ứng các tiêu chí lựa chọn nêu trên. 2.4. Phương pháp thu thập số liệu Nghiên cứu tham khảo bộ Problems and Needs in Palliative Care (PNPC) để đánh giá nhu cầu CSGN cho bệnh nhi ung thư [6]. PNPC bao gồm 140 câu hỏi về thực trạng và nhu cầu CSGN liên quan đến các khía cạnh: (1) khó khăn trong các hoạt động hằng ngày, (2) thể chất, (3) chức năng, hoạt động, (4) tài chính, (5) xã hội, (6) tâm lý, (7) tinh thần, (8) tự chủ, (9) nhu cầu thông tin. Đây là bộ công cụ đánh giá các nhu cầu rõ ràng và phù hợp với các khía cạnh đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới nên được lựa chọn tham khảo[7]. tạp chí nhi khoa 2018, 11, 4 60 Vì nghiên cứu trên bệnh nhi ung thư nên chúng tôi lược bỏ các nội dung không phù hợp của bộ công cụ. Các nội dung được sử dụng bao gồm 5 khía cạnh với 33 câu hỏi về nhu cầu hỗ trợ thể chất; tâm lý, tinh thần; tài chính; thông tin y tế; và quan hệ, giao tiếp. Mỗi câu hỏi có 3 đáp án tương đương mức độ nhu cầu: 1-con tôi chưa có nhu cầu hỗ trợ vấn đề này; 2-con tôi cần hỗ trợ vấn đề này ở mức độ thấp; 3-con tôi cần hỗ trợ vấn đề này ở mức độ cao. Bộ công cụ tham khảo sau đó được dịch sang tiếng Việt và tham khảo ý kiến của 2 bác sĩ điều trị và 2 điều dưỡng chăm sóc tại khoa Ung thư, và thử nghiệm trên 5 cha/mẹ bệnh nhi để hoàn thiện. 2.5. Nghiên cứu sử dụng các bảng biểu mô tả theo tần số và tỷ lệ các nhu cầu CSGN của bệnh nhi. Sau khi tổng hợp các tiểu mục của mỗi nhu cầu để cho ra tỷ lệ nhu cầu chung, với tiêu chí: những nội dung có 10 tiểu mục (nhu cầu hỗ trợ thể chất và tâm lý): nếu có 7/10 tiểu mục có nhu cầu sẽ được tính là có nhu cầu hỗ trợ nội dung đó. Tương tự, với nội dung có 7 tiểu mục (nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế) thì 5/7 tiểu mục có nhu cầu sẽ được tính là có nhu cầu và với nội dung có 3 tiểu mục (nhu cầu hỗ trợ giao tiếp và tài chính) thì 2/3 tiểu mục có nhu cầu sẽ được tính là có nhu cầu hỗ trợ nội dung đó. Nghiên cứu đã được sự đồng ý của BV Nhi Trung ương và chấp thuận của Hội đồng Đạo đức trong Nghiên cứu y sinh học của Trường Đại học Y tế Công cộng số 195/2018/YTCC-HD3. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thông tin chung của bệnh nhi ung thư Bảng 1. Phân bố tỷ lệ theo nhóm tuổi của bệnh nhi Nhóm tuổi Tần số (n) Tỷ lệ (%) Từ 0 - 6 tuổi 128 67,4 Từ 7 - 12 tuổi 46 24,2 Từ 13 tuổi trở lên 16 8,4 Tổng 190 100 Tỷ lệ bệnh nhi phân bố ở nhóm dưới 6 tuổi là cao nhất (67,4%), tiếp theo là nhóm 7-12 tuổi (24,2%) và nhóm từ 13 tuổi trở lên thấp nhất (8,4%). Bảng 2. Phân bố tỷ lệ theo giới tính của bệnh nhi Giới tính Tần số (n) Tỷ lệ (%) Nam 109 57,4 Nữ 81 42,6 Tổng 190 100 Tỷ lệ bệnh nhi phân bố theo giới tính: 57,4% nam- 42,6% nữ. Bảng 3. Phân bố tỷ lệ mắc bệnh ung thư Nhóm bệnh Tần số Tỷ lệ Bạch cầu cấp 69 36,3 U đặc 121 63,7 Tổng 190 100 Tỷ lệ bệnh nhi phân bố theo nhóm bệnh là 36,3% bạch cầu cấp và 63,7% u đặc. 61 phần nghiên cứu 3.2. Nhu cầu CSGN cho bệnh nhi ung thư 3.2.1. Nhu cầu hỗ trợ thể chất Biểu đồ 1. Phân bố bệnh nhi theo nhu cầu hỗ trợ thể chất Trong nhu cầu hỗ trợ thể chất, tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu cao nhất là nhu cầu giảm tình trạng mệt mỏi với 82,6%; tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu thấp nhất là nhu cầu giảm tình trạng khó thở, thở gấp (28,9%). Tỷ lệ nhu cầu chung của nhu cầu hỗ trợ thể chất là 32,1%. 3.2.2. Nhu cầu hỗ trợ tâm lý, tinh thần Biểu đồ 2. Phân bố bệnh nhi theo nhu cầu hỗ trợ tâm lý, tinh thần Trong 10 tiểu mục của nhu cầu hỗ trợ tâm lý, tinh thần, tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu hỗ trợ cao nhất là nhu cầu được động viên khích lệ và nhu cầu củng cố niềm tin (80,1%) trong đó, tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu cao tương ứng là 50% và 42,6%; tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu hỗ trợ thấp nhất là nhu cầu giảm tình trạng mặc cảm (20%). tạp chí nhi khoa 2018, 11, 4 62 Tỷ lệ nhu cầu chung của nhu cầu hỗ trợ tâm lý, tinh thần là 61,6%. 3.2.3. Nhu cầu hỗ trợ giao tiếp, quan hệ Biểu đồ 3. Phân bố bệnh nhi theo nhu cầu hỗ trợ giao tiếp, quan hệ Trong 3 tiểu mục của nhu cầu hỗ trợ giao tiếp, quan hệ, có thể thấy, tiểu mục có tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu cao nhất là nhu cầu hỗ trợ khó khăn trong giao tiếp, hòa nhập với bạn bè tại bệnh viện (32,1% có nhu cầu cao và 39,5% có nhu cầu thấp); tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu thấp nhất là nhu cầu hỗ trợ khó khăn trong việc trao đổi tình trạng bệnh với bố mẹ, gia đình (16,8% có nhu cầu cao và 32,6% có nhu cầu thấp). Tỷ lệ nhu cầu chung của nhu cầu hỗ trợ giao tiếp, quan hê là 45,8%. 3.2.4. Nhu cầu hỗ trợ tài chính, phúc lợi xã hội Biểu đồ 4. Phân bố bệnh nhi theo nhu cầu hỗ trợ tài chính, phúc lợi xã hội Các tiểu mục trong nhu cầu hỗ trợ tài chính đều có tỷ lệ cao trên 80%, trong đó tỷ lệ nhu cầu cao nhất là nhu cầu hỗ trợ chi phí điều trị (63,2% có nhu cầu cao và 26,8% có nhu cầu thấp). Tỷ lệ nhu cầu chung của nhu cầu hỗ trợ tài chính, phúc lợi xã hội là 88,4%. 63 phần nghiên cứu 3.2.5. Nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế Biểu đồ 5. Phân bố bệnh nhi theo nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế Trong 7 tiểu mục của nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế, tiểu mục có tỷ lệ nhu cầu thấp nhất là nhu cầu được giữ bí mật thông tin cá nhân (52,1%); những nhu cầu còn lại đều có tỷ lệ trên 90%; đặc biệt nhu cầu có tỷ lệ cao nhất là được thông báo về mức độ thuyên giảm của bệnh (90% có nhu cầu cao và 7,9% có nhu cầu thấp). Tỷ lệ nhu cầu chung của nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế là 93,7%. 4. BÀN LUẬN Từ các kết quả trên, có thể thấy nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế cao nhất với tỷ lệ nhu cầu từng tiểu mục đều trên 90%. Theo nghiên cứu “Đánh giá nhu cầu CSGN ở trẻ em: từ giấy tờ đến hoạt động chăm sóc bệnh nhân” đánh giá cho tất cả bệnh nhi tại một bệnh viện ở Omaha, Nebraska, kết quả cũng tương tự, tỷ lệ nhu cầu về giáo dục bao gồm đưa thêm thông tin về chẩn đoán và quản lý triệu chứng là cao nhất với 81,4% [8]. Tương tự như vậy, trong nghiên cứu “Đánh giá nhu cầu CSGN trên bệnh nhân ung thư tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai”, tác giả Trương Thị Nhung đã chỉ ra kết quả, có đến 100% bệnh nhân có nhu cầu tư vấn [5]. Với nhu cầu hỗ trợ tài chính, kinh tế: Tỷ lệ nhu cầu cha mẹ bệnh nhi cần hỗ trợ tài chính cũng rất cao, cao nhất là nhu cầu hỗ trợ chi phí điều trị (90% cha mẹ có nhu cầu), kế đến là nhu cầu hỗ trợ chi phí ăn ở (88,9% cha mẹ có nhu cầu) và nhu cầu hỗ trợ chi phí đi lại (84,7% cha mẹ có nhu cầu). So sánh với nghiên cứu “Đánh giá nhu cầu CSGN ở trẻ em: từ giấy tờ đến hoạt động chăm sóc bệnh nhân” thì tỷ lệ có nhu cầu hỗ trợ các chi phí y tế, bảo hiểm, đi lại, ăn ở là 60% [8], còn trong nghiên cứu này tỷ lệ chung của nội dung này là 88,4%. Như vậy, phần lớn bệnh nhi trong nghiên cứu đều ở vùng nông thôn hoặc miền núi, cha/ mẹ làm ruộng với tổng thu nhập gia đình thấp thì cha mẹ bệnh nhi luôn có nhu cầu được hỗ trợ về vật chất, nhất là đối với bệnh ung thư, phải điều trị lâu dài với bệnh tật thì việc được hỗ trợ vật chất hằng ngày là vô cùng thiết thực. Với nhu cầu hỗ trợ tâm lý, tinh thần: tiểu mục có tỷ lệ nhu cầu cao nhất là nhu cầu được động viên khích lệ và nhu cầu củng cố niềm tin trong quá trình điều trị (81,1% có nhu cầu). Từ đó có thể thấy rằng, trong tổng số đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ trẻ dưới 6 tuổi chiếm tỷ lệ cao nên những nhu cầu liên quan đến các vấn đề tâm lý như mặc cảm, thể hiện cảm xúc, suy nghĩ tiêu cực, chán nản thì cha mẹ bệnh nhi đều chưa có nhu cầu hỗ trợ, bệnh nhi còn quá nhỏ, chưa thể hiện được các cảm xúc nên cha mẹ thấy chưa có nhu cầu hỗ trợ những tiểu mục đó, nó phù hợp với những trẻ lớn tạp chí nhi khoa 2018, 11, 4 64 hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ nhu cầu chung của nội dung này là 61,6% cũng khá cao, đã cho thấy, cha/mẹ bệnh nhi cũng quan tâm hơn đến vấn đề hỗ trợ tâm lý, tinh thần khi con họ đang điều trị ung thư. Với nhu cầu hỗ trợ giao tiếp, quan hệ: cha/mẹ bệnh nhi ngoài quan tâm chăm sóc cho con, họ còn quan tâm đến môi trường điều trị tại bệnh viện, họ cũng muốn con họ được giao tiếp, hòa nhập với bạn bè cùng hoàn cảnh trong bệnh viện. So sánh với kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Ngọc Sơn có tỷ lệ nhu cầu là gần 70% [3] thì tỷ lệ ở nghiên cứu này là 45,8%, thấp hơn do nghiên cứu của Phạm Ngọc Sơn trên đối tượng bệnh nhân phẫu thuật thần kinh là người lớn, thường xuyên ở viện một mình nên họ quan tâm hơn đến những hỗ trợ trong giao tiếp tại viện, còn nghiên cứu này do cha/mẹ là người trực tiếp chăm sóc cho con nên sẽ nhìn nhận vấn đề tự đánh giá cho con ở nhu cầu này thấp hơn ở người lớn. Với nhu cầu hỗ trợ thể chất: Đối với bệnh nhân ung thư, đặc biệt là đối với những bệnh nhân phải dùng hóa chất điều trị thì việc xuất hiện các triệu chứng như buồn nôn, nôn, đau đớn, phù là những triệu chứng rất dễ gặp phải. Vì thế, người bệnh rất cần hỗ trợ để giảm tình trạng đó, với bệnh nhi ung thư cũng vậy, nhất là với tác dụng của hóa chất, thể trạng các bé rất mệt mỏi, xanh xao [1], do đó tỷ lệ nhu cầu hỗ trợ giảm tình trạng mệt mỏi cao hơn tỷ lệ những nhu cầu khác trong hỗ trợ thể chất. Tuy nhiên, trong các nội dung CSGN thì nhu cầu hỗ trợ thể chất có tỷ lệ 32,1% là thấp so với các nghiên cứu khác do trong chăm sóc bệnh nhi ung thư, các triệu chứng thường gặp như sốt, buồn nôn, đau, nôn trớ được NVYT thực hiện hằng ngày, do đó nhu cầu hỗ trợ thể chất thấp hơn hẳn các nhu cầu khác. 5. KẾT LUẬN Tỷ lệ nhu cầu CSGN cho bệnh nhi tương đối cao, đặc biệt là khía cạnh hỗ trợ thông tin y tế và hỗ trợ tài chính, phúc lợi xã hội. 6. KHUYẾN NGHỊ Xây dựng kế hoạch CSGN cụ thể trong đó chú trọng hỗ trợ tư vấn thông tin y tế, hỗ trợ vật chất, tài chính cho bệnh nhi ung thư và gia đình. Đồng thời duy trì và đẩy mạnh hỗ trợ các nhu cầu như thể chất, tâm lý, giao tiếp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Bá Đức (2014), “Chăm sóc giảm nhẹ triệu chứng cho bệnh nhân ung thư”, trong Nguyễn Bá Đức, Nguyễn Khánh Trạch, chủ biên, Bệnh ung thư - Nhận biết, dự phòng và chiến thắng, Nhà xuất bản Thanh niên. 2. Nguyễn Thị Hoài Nga và Trần Văn Thuấn Nguyễn Bá Đức (2006), “Dịch tễ học, bệnh nguyên, bệnh sinh ung thư trẻ em”, trong Nguyễn Bá Đức, chủ biên, Bệnh ung thư ở trẻ em, Nhà xuất bản Y học. 3. Phạm Ngọc Sơn (2017), Thực trạng, nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhân sau phẫu thuật và một số yếu tố liên quan tại khoa phẫu thuật thần kinh Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn- Hà Nội, Trường Đại học Y tế Công cộng. 4. Bộ Y tế (2006), Hướng dẫn chăm sóc giảm nhẹ đối với bệnh nhân ung thư và AIDS, Nhà xuất bản Y học. 5. Trần Đình Hà Trương Thị Nhung (2013), Đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ trên bệnh nhân ung thư tại khoa Y học hạt nhân, ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai. 6. Osse et al (2004), “Towards a New Clinical Tool for Needs Assessment in the Palliative Care of Cancer Patients: The PNPC Instrument”, Journal of Pain and Symptom Management. 28(4). 7. World Health Organization (2002), Palliative care Guidelines, Geneva in Vietnam. 8. Meaghann Shaw Weaver (2017), “Pediatric Palliative Care Needs Assessments: From Paper Forms to Actionable Patient Care”, JOURNAL OF PALLIATIVE MEDICINE. 20(3).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhu_cau_cham_soc_giam_nhe_cho_benh_nhi_ung_thu_tai_khoa_ung.pdf
Tài liệu liên quan