Nhu cầu hòa nhập xã hội của NKTVĐ: nhu
cầu hòa nhập xã hội của NKTVĐ không giống
nhau giữa trẻ em và người lớn; trong đó trẻ em
KTVĐ có nhu cầu về hòa nhập xã hội thông qua
các hoạt động với các bạn cùng lứa tuổi bao
gồm: chơi đùa chỉ có 5,8% (mức độ 1: 52,6%;
mức độ 2: 47,4%); đi học 5,4% (mức độ 1: 9,4%;
mức độ 2: 90,6%); theo nghiên cứu của Nguyễn
Dương Hanh và Nguyễn Trung Kiên nhu cầu
cao nhất là đi học 84,21% trong đó loại 1
(43,75%), loại 2 (56,25%), thấp nhất là chơi đùa
73,68% trong đó loại 1 (21,43%), loại 2 (78,57%).
Qua kết quả nêu trên chúng ta thấy trẻ em ở lứa
tuổi đi học, vui đùa, nhưng nhu cầu ở mức độ 2
luôn cao, tỷ lệ này cho thấy trẻ em không thể đi
học được chiếm tỷ lệ cao. Đối với người lớn
KTVĐ, nhu cầu về hòa nhập xã hội người lớn
bao gồm các hoạt động như: tham gia các hoạt
động trong gia đình, tham gia các hoạt động xã
hội, làm việc và thu nhập, làm nội trợ. Trong các
nhu cầu về hòa nhập xã hội thì nhu cầu về làm
việc và thu nhập có tỷ lệ cao nhất 69,4% trong đó
nhu cầu mức độ 1 là 53,1%, mức độ 2 là 46,9%.
Nhu cầu về tham gia hoạt động gia đình có tỷ lệ
thấp nhất 36,4% với nhu cầu mức độ 1 là 82,4%,
nhu cầu mức độ 2 là 17,6%; theo nghiên cứu của
Nguyễn Dương Hanh và Nguyễn Trung Kiên
nhu cầu cao nhất là làm việc và thu nhập 94,34%
trong đó loại 1(15,69%), loại 2 (84,31%), nhu cầu
về tham gia hoạt động gia đình có tỷ lệ thấp nhất
74,39% với nhu cầu mức độ 1 là 40,53%, nhu cầu
mức độ 2 là 59,47%. Từ kết quả trên nhận thấy
nhu cầu làm việc có thu nhập luôn chiếm tỷ cao,
điều này do NKT khó có cơ hội làm việc độc lập,
nhất là NKT có nhu cầu ở mức 2 là không thể
làm việc độc lập và hỗ trợ cao hơn nhu cầu sinh
hoạt gia đình luôn thấp hơn bởi vì sinh hoạt gia
đình thì đơn giản hơn, nhu cầu mức độ 1 cao
hơn mức độ 2; còn nghiên cứu của Nguyễn
Dương Hanh và Nguyễn Trung Kiên thì ngược
lại, cho thấy NKT trong nghiên cứu có cơ hội
hòa nhập xã hội nhiều hơn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 155 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu phục hồi chức năng của người khuyết tật vận động tại thành phố Thủ Dầu Một năm 2012 ‐ 2013, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 560
NHU CẦU PHỤC HỒI CHỨC NĂNG CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
VẬN ĐỘNG TẠI THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT NĂM 2012 ‐ 2013
Nguyễn Văn Hóa*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nhu cầu phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng là điểm sáng, là tia hy vọng của người khuyết
tật vận động để họ giảm tỷ lệ khuyết tật và giúp họ sớm hòa nhập xã hội.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhu cầu phục hồi chức năng của người khuyết tật vận động trong chương trình
phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng tại thành phố Thủ Dầu Một năm 2012 ‐ 2013.
Phương pháp nghiên cứu: Điều tra cắt ngang mô tả, tại 14 xã, phường, với 985 người khuyết tật vận
động, khám, phỏng vấn dựa vào 23 nhu cầu cơ bản cho người khuyết tật của Tổ chức Y tế thế giới.
Kết quả và kết luận: Người khuyết tật vận động có nhu cầu chung chiếm tỷ lệ 96%, nhu cầu theo nhóm,
vận động 82,7%, hòa nhập xã hội 73,7%, sinh hoạt 36,4%, giao tiếp 13,4%.
Từ khóa: phục hồi chức năng, người khuyết tật vận động, cộng đồng.
ABSTRACT
REHABILITATION NEEDS OF PERSONS WITH MOBILITY IMPAIREMENTS
IN THU DAU MOT CITY 2012 ‐ 2013
Nguyen Van Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 560 ‐ 564
Background: The demand for community ‐ based rehabilitation is significantly necessary for the disabled
because this is a hope to reduce the rate of disability and help them integrate into society early.
Objectives: To determine the percentage of the rehabilitation needs of people with disabilities in the
community ‐ based rehabilitation program in Thu Dau Mot town in 2012 ‐ 2013.
Methods: descriptive cross ‐ sectional survey, in 14 communes, with 985 motor disabilities, examining and
interviewing with a questionnaire developed by World Health Organization to determine 23 basic needs of the
disabled.
Result: Persons with mobility impairments have the general need, team needs; movement, social integration,
activities, and communication take up 96%, 82.7%, 73.7%, 36.4%, and 13.4% respectively.
Key words: rehabilitation, disability, community.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nơi đâu trên thế giới cũng có người khuyết
tật, ở dạng này hay dạng khác, mức độ nặng hay
nhẹ, trẻ em hay người lớn(4).
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới và
Liên hợp quốc năm 2007 người khuyết tật trên
thế giới có khoảng 650 triệu người, tương đương
với 10% dân số(8).
Việt Nam theo tổng điều tra Dân số và Nhà
ở năm 2009, dân số Việt Nam có 78,5 triệu người
từ 5 tuổi trở lên, trong đó có 6,1 triệu người
khuyết tật, chiếm 7,8% dân số từ 5 tuổi trở lên(1).
Người khuyết tật cần được phục hồi chức
năng và can thiệp y tế để phục hồi tầm vận động
của khớp, làm mạnh cơ, điều hợp các động tác,
tái rèn luyện cơ bị liệt, bị mất chức năng(6).
Ở Việt Nam cũng như tỉnh Bình Dương
những đề tài nghiên cứu về nhu cầu phục hồi
chức năng (PHCN) của người khuyết tật vận
động (NKTVĐ) còn quá ít.
* Bệnh viện Điều dưỡng – Phục hồi chức năng tỉnh Bình Dương
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Văn Hóa ĐT: 0918230 119 Email: nguyenvanhoabvdd@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 561
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ nhu cầu phục hồi chức năng
của người khuyết tật vận động trong chương
trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng tại
thành phố Thủ Dầu Một năm 2012 ‐ 2013.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả
Đối tượng nghiên cứu
985 NKTVĐ có hộ khẩu tại thành phố Thủ
Dầu Một từ 06/2012 ‐ 09/2013. Phỏng vấn trực
tiếp NKTVĐ (đối với trẻ dưới 6 tuổi, NKTVĐ
không nói được, phỏng vấn người trực tiếp
chăm sóc) và khám đánh giá, phỏng vấn dựa
vào 23 nhu cầu cơ bản cho người khuyết tật của
Tổ chức Y tế thế giới. Phân thành 4 nhóm nhu
cầu (nhu cầu vận động, sinh hoạt, hội nhập xã
hội và giao tiếp) và 2 mức độ:
Mức độ 1: người khuyết tật có thể thực hiện
hoạt động với sự hỗ trợ/thực hiện được một
phần hoạt động.
Mức độ 2: NKT không thể thực hiện được
hoạt động/phụ thuộc. Đối tượng được chọn dựa
theo danh sách người khuyết tật vận động
xã/phường đang quản lý.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm dân số học của mẫu nghiên cứu
Đặc tính mẫu Tần số Tỷ lệ (%)
Giới tính (n=985)
Nam 569 57,8
Nữ 416 42,2
Nhóm tuổi (n=982)
(Có 03NKTVĐ
không đồng ý Cung cấp
Từ 0 đến 14 tuổi 88 9,0
Từ 15 đến 59 tuổi 487 49,6
Từ 60 tuổi trở lên 407 41,4
Trong 985 người KTVĐ được thống kê
trong nghiên cứu thì nam chiếm đa số với tỷ lệ
57,8%. Nhóm tuổi từ 15 đến 59 chiếm tỷ lệ cao
nhất 49,6% và thấp nhất là từ 0 đến 14 tuổi
chiếm tỷ lệ 9%.
Bảng 2: Phân bố nhu cầu PHCN theo nhóm (n=985)
Loại nhu cầu PHCN Nhu cầu
(n %)
Không nhu
cầu(n %)
Nhu cầu vận động 815 (82,7) 170 (17,3)
Nhu cầu hòa nhập xã hội 726 (73,7) 259 (26,3)
Nhu cầu sinh hoạt 359 (36,4) 626 (63,6)
Nhu cầu giao tiếp 132 (13,4) 853 (86,6)
Nhóm nhu cầu về vận động là cao nhất
82,7%, kế tiếp là nhu cầu hòa nhập xã hội 73,7%
và thấp nhất là nhu cầu giao tiếp 13,4%.
Bảng 3: Phân bố nhu cầu PHCN nhóm sinh hoạt
(n=985)
Nhu cầu sinh hoạt Có nhu cầu
n (%)
Mức độ 1
n (%)
Mức độ 2
n (%)
Đại, tiểu tiện 338 (34,3) 244 (72,2) 94 (27,8)
Làm vệ sinh 336 (34,1) 238 (70,8) 98 (29,2)
Mặc quần áo 333 (33,8) 242 (72,7) 91 (27,3)
Ăn uống 173 (17,6) 118 (68,2) 55 (31,8)
Trong các nhu cầu về sinh hoạt thì nhu cầu
về đại, tiểu tiện có tỷ lệ cao nhất 34,3% với nhu
cầu ở mức độ 2 là 27,8%. Ăn uống có nhu cầu
thấp nhất với 17,6% và nhu cầu ở mức độ 2 là
31,8%.
Bảng 4: Phân bố nhu cầu PHCN nhóm giao tiếp
(n=985)
Nhu cầu giao tiếp Có nhu cầu
n (%)
Mức độ1
n (%)
Mức độ 2
n (%)
Hiểu câu nói 122 (12,4) 94 (77) 28 (23)
Nói 118 (12) 91 (77,1) 27 (22,9)
Thể hiện ý muốn 116 (11,8) 91 (78,4) 25 (21,6)
Ra hiệu để người khác
biết ý muốn của mình 112 (11,4) 85 (75,9) 27 (24,1)
Hiểu được điệu bộ, dấu
hiệu của người khác 109 (11,1) 83 (76,1) 26 (23,9)
Đọc môi 96 (9,7) 80 (83,3) 16 (16,7)
Nhu cầu về giao tiếp thì nhu cầu về hiểu câu
nói có tỷ lệ cao nhất 12,4%, trong đó nhu cầu
mức độ 2 là 23,0%. Nhu cầu về đọc môi có tỷ lệ
thấp nhất 9,7% với nhu cầu mức độ 2 là 16,7%.
Bảng 5: Phân bố nhu cầu PHCN nhóm vận động
(n=985)
Nhu cầu vận động Có nhu cầu
n (%)
Mức độ 1
n (%)
Mức độ 2
n (%)
Di chuyển được trong
làng 778 (79) 624 (80,2) 154 (19,8)
Đi bộ được ít nhất 10
bước 694 (70,5) 555 (80) 139 (20)
Di chuyển được trong
nhà 645 (65,5) 514 (79,7) 131 (20,3)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 562
Nhu cầu vận động Có nhu cầu
n (%)
Mức độ 1
n (%)
Mức độ 2
n (%)
Đứng 186 (18,9) 94 (50,5) 92 (49,5)
Ngồi 132 (13,4) 91 (68,9) 41 (31,1)
Đau các nơi 27 (2,7) 17 (62,9) 10 (37,1)
Trẻ bú sữa mẹ, lớn
bình thường 5 (0,5) 2 (40) 3 (60,0)
Trong các nhu cầu về giao tiếp thì nhu cầu
về di chuyển được trong làng có tỷ lệ cao nhất
79%, trong đó nhu cầu mức độ 2 là 19,8%. Nhu
cầu về trẻ bú sữa mẹ, lớn bình thường có tỷ lệ
thấp nhất 0,5% với nhu cầu mức độ 2 là 60,0%.
Bảng 6: Phân bố nhu cầu PHCN nhóm HNXH theo
mức độ nhu cầu (n=985)
Nhu cầu hòa nhập
xã hội
Có nhu cầu
n (%)
Mức độ 1
n (%)
Mức độ 2
n (%)
Làm việc và thu
nhập 684 (69,4) 363 (53,1) 321 (46,9)
Tham gia hoạt động
cộng đồng 649 (65,9) 460 (70,9) 189 (29,1)
Làm việc nội trợ 599 (60,8) 462 (77,1) 137 (22,9)
Tham gia hoạt động
gia đình 359 (36,4) 296 (82,4) 63 (17,6)
Đi học 53 (5,4) 5 (9,4) 48 (90,6)
Chơi đùa 57 (5,8) 30 (52,6) 27 (47,4)
Trong các nhu cầu về hòa nhập xã hội thì
nhu cầu về làm việc và thu nhập có tỷ lệ cao
nhất 69,4%, trong đó nhu cầu mức độ 2 là 46,9%.
Nhu cầu về đi học có tỷ lệ thấp nhất 5,4% với
nhu cầu mức độ 2 là 90,6%.
Bảng 7: Nhu cầu PHCN theo giới (n=985)
Giới tính Có nhu cầu
n (%)
Không có nhu cầu
n (%)
p
Nam 544(95,6) 25(4,4)
0,536
Nữ 401(96,4) 15(3,6)
Không có mối liên quan giữa giới tính với
nhu cầu PHCN với p >0,05.
Bảng 8: Tỷ lệ NKTVĐ có nhu cầu PHCN theo nhóm
tuổi (n=982) (Có 03 NKTVĐ không đồng ý cung cấp
tuổi)
Nhóm tuổi Nhu cầu n(%)
Từ 0 đến 14 tuổi 87(98,9)
Từ 15 đến 59 tuổi 468(96,1)
Từ 60 tuổi trở lên 387(95,1)
Các nhóm tuổi từ 0 đến 14 tuổi, từ 15 đến 49
tuổi, từ 60 tuổi trở lên có nhu cầu PHCN khá cao
với tỷ lệ lần lượt là 98,9%; 96,1% và 95,1%.
BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu cho thấy ở bảng 1. NKT
nam (57,8%) luôn nhiều hơn nữ (42,2%), theo
nghiên cứu của Dương Quang Tỉnh nam (57,8),
nữ (42,2%)(2); nghiên cứu của Trần Văn Hải tại
thị xã Tam Điệp, Tỉnh Ninh Bình 2011nam
(59,1%)và nữ giới (40,9%)(7); điều này cho thấy
rằng nam tham gia lao động, làm việc, đi bộ
đội ngoài xã hội nhiều hơn nữ nên tỷ lệ
thương tật gây nên khuyết tật nhiều hơn nữ;
bảng 8 cho thấy nhu cầu PHCN ở các nhóm tuổi
khá cao với tỷ lệ lần lượt là (98,9%; 96,1% và
95,1%), điều này cho thấy mọi lứa tuổi đều có
nhu cầu PHCN là nhu cầu thiết yếu của người
khuyết tật, họ mong mỏi được phục hồi sức
khỏe như những người cùng trang lứa cùng
hoàn cảnh. WHO đã chia 23 nhu cầu cơ bản của
NKT theo 4 nhóm là: nhu cầu về sinh hoạt, nhu
cầu tự giao tiếp, nhu cầu về vận động và nhu
cầu về hòa nhập xã hội, nhu cầu về vận động là
cao nhất (82,7%); thấp nhất là nhu cầu giao tiếp
(13,4%); theo nghiên cứu của Nguyễn Dương
Hanh và Nguyễn Trung Kiên nhu cầu về vận
động (39,77%) và thấp nhất là nhu cầu giao tiếp
(39,47%)(4); nghiên cứu của Nguyễn Lương Bầu
năm 2005 nhu cầu về vận động 52,76% và nhu
cầu giao tiếp 25,85%(5). Đối tượng nghiên cứu
các tác giả nêu trên là người khuyết tật chung;
đối tượng nghiên cứu là những người khuyết tật
vận động tại cộng đồng nên nhu cầu về vận
động là cao nhất; nhu cầu giao tiếp thấp nhất
tương tự kết quả tác giả Nguyễn Dương Hanh
và Nguyễn Trung Kiên thấp nhất là nhu cầu
giao tiếp (39,47%)(4).
Nhu cầu về sinh hoạt: đại, tiểu tiện có tỷ lệ
cao nhất 34,3% trong đó nhu cầu ở mức độ 1 là
72,2%, mức độ 2 là 27,8%. Ăn uống có nhu cầu
thấp nhất với 17,6% trong đó nhu cầu ở mức độ
1 là (68,2%), mức độ 2 là (31,8%). Nhu cầu về
sinh hoạt của người KTVĐ: đó là nhu cầu cơ bản
nhất của con người như: là tự ăn uống, đánh
răng, tắm rửa, đi đại tiểu tiện và mặc quần
áo...Tuy vậy, người KTVĐ thường bị phân biệt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 563
đối xử, dễ dẫn đến cách sống khép mình và tách
biệt, tự ti nhất là đối với NKT nặng. Ăn uống là
một chức năng tự nhiên của đời sống sinh học,
có ý nghĩa sống còn với mỗi con người, vẫn biết
thế nhưng không phải ai cũng tự ăn uống được
nên NKT cần phải tự thích nghi. Người KTVĐ
thường nghèo, ít và thậm chí chưa được tiếp cận
kiến thức về dinh dưỡng nên họ ăn uống thường
không hợp lý, các nhu cầu thuộc về vệ sinh cá
nhân như đại tiểu tiện, đánh răng, rửa mặt, thay
quần áo có thể NKTVĐ còn tùy tiện vì ít giao
tiếp nên chưa chú ý hoặc không có khả năng tự
chăm sóc cho bản thân. Theo nghiên cứu
Nguyễn Dương Hanh và Nguyễn Trung Kiên
nhu cầu cao nhất là đi vệ sinh 97,24%, trong đó
loại 1 (70,21%), loại 2 (29,79%), thấp nhất là tự ăn
uống 48,96% trong đó loại 1(87,32%), loại 2
(12,68%)(4). Ở cả hai nhu cầu cao nhất và nhu cầu
thấp nhất tỷ lệ NKT có nhu cầu mức độ 2 thấp
hơn mức độ 1, đây là dấu hiệu cho thấy ở nhu
cầu sinh hoạt NKT ít lệ thuộc vào người khác
Nhu cầu giao tiếp của NKTVĐ: gồm những
nhu cầu như tự mình hiểu được điều người khác
nói hoặc diễn đạt; đồng thời biểu hiện ý nghĩ,
nhu cầu, tình cảm, tâm tư, nguyện vọng của bản
thân để người chưa khuyết tật có thể hiểu được.
Việc trao đổi các thông tin qua giao tiếp giúp cho
mọi người hiểu về nhau, với khả năng, tình cảm
và trách nhiệm của gia đình và cộng đồng cần
động viên, chia sẽ, giúp đỡ NKTVĐ những gì
cần thiết, kịp thời, kết quả giống các tác giả khác
về nhu cầu tuy có khác nhau về tỷ lệ các nhu
cầu. Nhu cầu giao tiếp thì nhu cầu về hiểu câu
nói có tỷ lệ cao nhất 12,4%, trong đó nhu cầu
mức độ 1 (77%), mức độ 2 là (23%), nhu cầu về
đọc môi có tỷ lệ thấp nhất 9,7% với nhu cầu,
mức độ 1 (83,3%) mức độ 2 là (16,7%). Kết quả
tương đương kết quả nghiên cứu Nguyễn
Dương Hanh và Nguyễn Trung Kiên nhu cầu
giao tiếp 39,47% trong đó nhu cầu về hiểu câu
nói chiếm tỷ lệ cao nhất 91,11% trong đó loại 1
(43,09%), loại 2 (56,91%), thấp nhất là nhu cầu
đọc bằng môi 57,04%, trong đó loại 1 (74,03%),
loại 2 (25,97%)(4). Ở cả hai nhu cầu cao nhất và
nhu cầu thấp nhất tỷ lệ NKT có nhu cầu mức độ
2 thấp hơn mức độ 1, đây là dấu hiệu cho thấy ở
nhu cầu giao tiếp NKT ít lệ thuộc vào người
khác và có khả năng hòa nhập cộng đồng với tỷ
lệ cao.
Nhu cầu về vận động của người KTVĐ gồm
hoạt động như: ngồi dậy, đứng đi lại quanh nhà,
đi lại trong làng, trẻ bú mẹ, lớn bình thường và
biểu hiện đau ở các nơi. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, nhu cầu về di chuyển được trong làng có tỷ
lệ cao nhất 79%, trong đó nhu cầu mức độ 1 là
(80,2%), mức độ 2 là (19,8%); nhu cầu về trẻ bú
sữa mẹ, lớn bình thường có tỷ lệ thấp nhất 0,5%
với nhu cầu mức độ 1(40%) mức độ 2 là (60%),
kết quả tương đương nghiên cứu Nguyễn
Dương Hanh và Nguyễn Trung Kiên nhu cầu di
chuyển trong xóm cao nhất chiếm tỷ lệ 98,5%
trong đó loại 1(57,46%), loại 2 (42,54%).
Sự khác nhau giữa các nhu cầu về vận động
của người KTVĐ có thể một phần là do mức độ
khuyết tật khác nhau, mặt khác, trong thực tế
NKTVĐ thường ít vận động nên các thương tổn
thứ cấp lại dễ phát sinh làm cho việc vận động
của họ thêm khó khăn hơn. Do vậy, việc PHCN
cho NKTVĐ về lĩnh vực vận động tại cộng đồng
cần lồng ghép nhiều kỹ thuật mới đạt hiệu quả.
Ở cả hai nhu cầu cao nhất và nhu cầu thấp nhất
tỷ lệ NKT có nhu cầu mức độ 2 thấp hơn mức độ
1, đây là dấu hiệu cho thấy NKTVĐ luôn cần có
sự giúp đỡ để sớm hòa nhập cộng đồng.
Nhu cầu hòa nhập xã hội của NKTVĐ: nhu
cầu hòa nhập xã hội của NKTVĐ không giống
nhau giữa trẻ em và người lớn; trong đó trẻ em
KTVĐ có nhu cầu về hòa nhập xã hội thông qua
các hoạt động với các bạn cùng lứa tuổi bao
gồm: chơi đùa chỉ có 5,8% (mức độ 1: 52,6%;
mức độ 2: 47,4%); đi học 5,4% (mức độ 1: 9,4%;
mức độ 2: 90,6%); theo nghiên cứu của Nguyễn
Dương Hanh và Nguyễn Trung Kiên nhu cầu
cao nhất là đi học 84,21% trong đó loại 1
(43,75%), loại 2 (56,25%), thấp nhất là chơi đùa
73,68% trong đó loại 1 (21,43%), loại 2 (78,57%).
Qua kết quả nêu trên chúng ta thấy trẻ em ở lứa
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 564
tuổi đi học, vui đùa, nhưng nhu cầu ở mức độ 2
luôn cao, tỷ lệ này cho thấy trẻ em không thể đi
học được chiếm tỷ lệ cao. Đối với người lớn
KTVĐ, nhu cầu về hòa nhập xã hội người lớn
bao gồm các hoạt động như: tham gia các hoạt
động trong gia đình, tham gia các hoạt động xã
hội, làm việc và thu nhập, làm nội trợ. Trong các
nhu cầu về hòa nhập xã hội thì nhu cầu về làm
việc và thu nhập có tỷ lệ cao nhất 69,4% trong đó
nhu cầu mức độ 1 là 53,1%, mức độ 2 là 46,9%.
Nhu cầu về tham gia hoạt động gia đình có tỷ lệ
thấp nhất 36,4% với nhu cầu mức độ 1 là 82,4%,
nhu cầu mức độ 2 là 17,6%; theo nghiên cứu của
Nguyễn Dương Hanh và Nguyễn Trung Kiên
nhu cầu cao nhất là làm việc và thu nhập 94,34%
trong đó loại 1(15,69%), loại 2 (84,31%), nhu cầu
về tham gia hoạt động gia đình có tỷ lệ thấp nhất
74,39% với nhu cầu mức độ 1 là 40,53%, nhu cầu
mức độ 2 là 59,47%. Từ kết quả trên nhận thấy
nhu cầu làm việc có thu nhập luôn chiếm tỷ cao,
điều này do NKT khó có cơ hội làm việc độc lập,
nhất là NKT có nhu cầu ở mức 2 là không thể
làm việc độc lập và hỗ trợ cao hơn nhu cầu sinh
hoạt gia đình luôn thấp hơn bởi vì sinh hoạt gia
đình thì đơn giản hơn, nhu cầu mức độ 1 cao
hơn mức độ 2; còn nghiên cứu của Nguyễn
Dương Hanh và Nguyễn Trung Kiên thì ngược
lại, cho thấy NKT trong nghiên cứu có cơ hội
hòa nhập xã hội nhiều hơn.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu trên 985 người
khuyết tật vận động tại thành phố Thủ Dầu
Một, tỉnh Bình Dương 06/2012 ‐ 09/201. Người
khuyết tật nhu cầu theo nhóm, vận động
(82,7%), hòa nhập xã hội 73,7%, sinh hoạt
36,4%, giao tiếp (13,4%).
KIỀN NGHỊ
Chương trình PHCN dựa vào cộng đồng
tỉnh Bình Dương cần phải khảo sát nhu cầu
PHCN của NKTVĐ theo từng nhóm nhu cầu
và có kế hoạch hổ trợ cho NKTVĐ sớm hòa
nhập xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chỉ đạo điều tra dân số trung ương (2009) ʺTổng điều tra
dân số và nhà ở Việt Nam 2009ʺ. NXB Y học. Hà Nội. Tr 6 ‐
226.
2. Dương Quang Tỉnh (2011), Nghiên cứu nhu cầu phục hồi
chức năng của người khuyết tật và kết quả chương trình phục
hồi chức năng dựa vào cộng đồng tại 2 xã của huyện tuyên
Du Tỉnh Bắc Ninh. Luận án Bác sĩ Chuyên khoa cấp II. Đại
học Y Hà Nội. Tr 60.
3. Công Phượng (2012).
https://vietnam.unfpa.org/webdav/site/vietnam/shared/Public
ations%202011/Disability_Viet.pdf. Truy cập ngày 23/1/2012.
4. Nguyễn Dương Hanh, Nguyễn Trung Kiên (2011). Nhu cầu
phục hồi chức năng tại cộng đồng của người khuyết tật ở
quận Ninh Kiều. Đề tài nghiên cứu khoa học cáp thành phố.
Thành phố Cần Thơ. Tr38 ‐ 39.
5. Nguyễn Lương Bầu (2005), Tình hình người tàn tật và hoạt
động phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng tại huyện Tân
Yên tỉnh Bắc Giang năm 2005. Luận án Bác sĩ Chuyên khoa
cấp II. Trường Đại học Y Thái Bình. Tr 43 ‐ 82.
6. Trần Văn Chương (2010), Phục hồi chức năng bệnh nhân liệt
nửa người do tai biến mạch máu não. Nhà xuất bản Y học Hà
Nội. Hà Nôi.Tr 9 ‐ 71.
7. Trần Văn Hải (2011), Tình hình hoạt động phục hồi chức
năng dựa vào cộng đồng cho người khuyết tật về vận động
tại thị xã Tam Điệp Tỉnh Ninh Bình 2011. Luận án tốt nghiệp
chuyên khoa II. Đại học Y Thái Bình. Tr 29 ‐ 101.
8. United Nation Population Fund (2009). Người khuyết tật Việt
Nam: một số kết quả chủ yếu từ tổng cục điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam 2009. Tr. 34‐78.
Ngày nhận bài báo: 18/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhu_cau_phuc_hoi_chuc_nang_cua_nguoi_khuyet_tat_van_dong_tai.pdf