Nhu cầu số liệu thống kê cho
phân tích chính sách kinh tế vĩ mô theo
luồng dữ liệu thời gian thực
Trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp 4.0, cách tiếp cận xây dựng các mô
hình dự báo KT-XH đã có nhiều thay đổi.
Tiếp theo bài [3], ở bài viết này chúng tôi
bổ sung nhu cầu số liệu thống kê phục vụ
phân tích chính sách kinh tế vĩ mô theo
luồng dữ liệu thời gian thực.
Vài năm gần đây trong lĩnh vực phân
tích và dự báo kinh tế, người ta nói nhiều
đến mô hình dự báo tên là nowcasting. Mô
hình nowcasting là mô hình cho phép dự
báo hiện tại, quá khứ rất gần và dự báo
tương lai. Mô hình nowcasting cho phép dự
báo các chỉ số kinh tế ở tần suất thấp
(chẳng hạn như quý) theo dữ liệu của các
biến ngoại sinh được thu thập ở tần suất
cao hơn (chẳng hạn như dữ liệu ở tần suất
ngày, tháng). Khi đó theo luồng dữ liệu
được phát hành chẳng hạn theo
ngày/tháng người ta có thể cập nhật lại dự
báo của các chỉ số kinh tế ở tần suất quý
ngay tại quý hiện tại và ở các quý tiếp
theo. Nói cách khác các mô hình
nowcasting cho phép cập nhật lại dự báo
theo luồng dữ liệu thời gian thực, tức là
mỗi khi dữ liệu đươc công bố thì kết quả dự
báo sẽ được điều chỉnh lại cho sát với diễn
biến của tình hình KT-XH.
Xây dựng mô hình nowcasting được
quan tâm đặc biệt trong những năm gần
đây ở rất nhiều quốc gia. Việc xây dựng mô
hình nowcasting liên quan chặt chẽ với việc
xử lý dữ liệu lớn big data. Dữ liệu được sử
dụng xây dựng các mô hình như vậy bao
gồm các số liệu cứng và số liệu mềm. Số
liệu cứng là số liệu thống kê được thu thập
theo các phương pháp truyền thống trong
khi dữ liệu mềm là các số liệu được thu
thập từ các cuộc điều tra, từ các mạng xã
hội và trong quá trình hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước và cộng đồng
doanh nghiệp. Các dữ liệu mềm thường
được thu thập theo tần suất ngày, tuần.
Với việc sử dụng mô hình nowcasting,
tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô
có thể nhận diện được hàng ngày. Nói cách
khác khi đó người ta có thể mô phỏng,
phân tích và đánh giá tác động chính sách
theo luồng dữ liệu thời gian thực.
Phân tích chính sách theo luồng dữ
liệu thời gian thực đòi hỏi phải có số liệu,
trong đó bao gồm các số liệu thống kê
cũng như số liệu từ các cuộc điều tra thống
kê để xây dựng mô hình dự báo KT-XH. Đó
là thách thức và cũng là cơ hội của Hệ
thống thống kê nhà nước. Trước hết Hệ
thống thống kê nhà nước nên xem xét bổ
sung thêm thông tin cần được điều tra
trong các cuộc điều tra quốc gia và điều tra
chuyên ngành, đồng thời cải tiến việc cung
cấp, chia sẻ dữ liệu các cuộc điều tra như
vậy cho xã hội.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
10 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 512 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu số liệu thống kê phục vụ phân tích định lượng chính sách kinh tế vĩ mô, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
➢➢➢ 
10 
NHU CẦU SỐ LIỆU THỐNG KÊ PHỤC VỤ PHÂN 
TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ
PGS.TS. Đỗ Văn Thành* 
Tóm tắt: 
Phân tích định lượng chính sách công thường sử dụng các mô hình dự báo KT-XH được 
xây dựng dựa trên số liệu, đặc biệt là số liệu thống kê. Do các loại chính sách công phục vụ 
điều hành, quản lý KT-XH là rất lớn, bài báo này chỉ tập trung vào trình bày nhu cầu số liệu 
thống kê phục vụ phân tích một số chính sách kinh tế quan trọng nhất, là công cụ được sử 
dụng phổ biến nhất trong công tác chỉ đạo điều hành và quản lý nền kinh tế của Chính phủ. 
1. Giới thiệu 
Phân tích chính sách nhằm phục vụ xây 
dựng và điều chỉnh chính sách, làm cho chính 
sách được ban hành phù hợp, khả thi và hiệu 
quả hơn. Nước ta đang trong tiến trình xây 
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa trong khi công cụ chủ yếu để 
điều hành và quản lý nền kinh tế thị trường 
là các chính sách kinh tế bởi vậy việc phân 
tích chính sách kinh tế nói riêng, chính sách 
công nói chung có vai trò rất quan trọng 
trong xây dựng và phát triển KT-XH ở nước 
ta. 
Bài viết này sẽ tập trung trả lời một số 
câu hỏi chính sau đây: 
1. Có những loại chính sách KT-XH 
(hay chính sách công) nào? 
2. Mục đích của phân tích chính sách là 
gì? Phương pháp chung để phân tích chính 
sách công là gì? 
3. Phương pháp phân tích định lượng 
chính sách công chủ yếu nào đang được sử 
dụng hiện nay? 
4. Nhu cầu số liệu thống kê trong mô 
phỏng và phân tích, đánh giá tác động của 
* Nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự 
báo KT-XH quốc gia 
một số chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng 
nhất? 
5. Nhu cầu số liệu thống kê phục vụ 
phân tích chính sách kinh tế vĩ mô theo luồng 
dữ liệu thời gian thực? 
2. Các chính sách công 
Phạm vi của các chính sách công 
(chính sách do Nhà nước ban hành) là rất 
rộng lớn và nó có thể được phân loại theo 
nhiều cách tiếp cận khác nhau như phân theo 
phạm vi ảnh hưởng của chính sách (vĩ mô, 
trung mô, vi mô), theo thời gian phát huy 
hiệu lực của chính sách (dài hạn, trung hạn, 
ngắn hạn), theo cấp độ ban hành chính sách 
( do Quốc hội, Chính phủ hay chính quyền 
cấp địa phương ban hành) hay theo lĩnh vực 
tác động của chính sách. 
 Nếu phân loại theo lĩnh vực tác động 
thì các chính sách công có thể được phân 
thành 5 nhóm: (1) chính sách kinh tế, (2) 
chính sách xã hội, (3) chính sách văn hóa, 
(4) chính sách đối ngoại, và (5) chính sách 
an ninh, quốc phòng [1], ở đây mỗi nhóm 
chính sách lại là một hệ thống phức tạp bao 
gồm nhiều loại chính sách khác nhau. Chẳng 
hạn, nhóm chính sách kinh tế gồm các chính 
  
11 
sách nhằm phát triển đất nước. Nhóm này 
đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong các 
chính sách công và tạo tiền đề cho thực hiện 
các chính sách công khác. Nhóm chính sách 
kinh tế gồm nhiều loại chính sách như: chính 
sách tài chính, chính sách tiền tệ - tín dụng, 
chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách phân 
phối, chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách 
điều tiết và phát triển các ngành kinh tế, 
chính sách cạnh tranh, chính sách phát triển 
các loại thị trường, chính sách phát triển kinh 
tế vùng, ..., trong khi đó nhóm chính sách xã 
hội gồm các chính sách nhằm giải quyết các 
mối quan hệ xã hội, làm cho xã hội phát triển 
công bằng, văn minh. Nhóm chính sách xã 
hội gồm: chính sách lao động việc làm, chính 
sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, chính 
sách an sinh xã hội, chính sách chăm sóc sức 
khỏe toàn dân, chính sách bảo hiểm xã hội, 
chính sách xóa đối giảm nghèo, chính sách 
bảo vệ môi trường, chính sách phòng chống 
tệ nạn xã hội,... Nói như vậy cũng hàm ý 
rằng trong một bài viết là không thể giới 
thiệu được đầy đủ nhu cầu số liệu thống kê 
phục vụ phân tích các chính sách công. Vì thế 
ở bài viết này chúng tôi chỉ tập trung vào 
trình bầy nhu cầu số liệu thống kê trong 
phân tích định lượng một số chính sách kinh 
tế vĩ mô quan trọng nhất. 
Như đã biết, mục tiêu của chính sách 
kinh tế vĩ mô được xem xét hài hòa ở cả 3 
phương diện: mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã 
hội và mục tiêu cơ cấu kinh tế. Về mục tiêu 
kinh tế: các chính sách kinh tế vĩ mô cần 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát 
thấp, việc làm tăng, thất nghiệp thấp, và ổn 
định cán cân thanh toán quốc tế. Về mục tiêu 
xã hội: các chính sách kinh tế vĩ mô cần đảm 
bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Về mục tiêu 
cơ cấu kinh tế: các chính sách kinh tế vĩ mô 
cần hướng các cơ cấu của nền kinh tế như cơ 
cấu các ngành kinh tế, cơ cấu các thành 
phần kinh tế, cơ cấu hạ tầng kinh tế và cơ 
cấu lãnh thổ theo hướng phù hợp, tiên tiến 
và hiện đại. Với mục tiêu như vậy thì các 
chính sách tài chính, chính sách tiền tệ -tín 
dụng, chính sách cơ cấu kinh tế và chính 
sách kinh tế đối ngoại là những chính sách 
kinh tế vĩ mô quan trọng nhất, và bài viết 
này sẽ tập trung trình bầy nhu cầu số liệu 
thống kê để phân tích 4 chính sách kinh tế 
vừa nêu này. 
3. Mục đích và phương pháp chung 
trong phân tích chính sách công 
Mục đích chung của phân tích chính 
sách công là nhằm tạo ra các phương án 
nhằm chọn ra quyết sách hợp lý để giải 
quyết những vấn đề mang tính xã hội. 
Nội dung của phân tích chính sách 
công bao gồm: Phân tích vấn đề chính sách, 
phân tích mục tiêu và phân tích giải pháp. 
Phân tích chính sách cần có thông tin, số liệu 
như: số liệu về tình hình KT-XH: đó là số liệu 
phản ánh về diễn biến và thực trạng của đời 
sống KT-XH có liên quan trực tiếp hoặc gián 
tiếp tới tiến trình chính sách; thông tin chính 
trị: đó là những diễn biến chính trị có thể làm 
thay đổi chính sách; thông tin quy phạm: là 
hệ thông văn bản quy phạm pháp luật đang 
còn có hiệu lực (chính sách mới được ban 
hành không được vi phạm những văn bản 
này) và thông tin khoa học và công nghệ: 
nhất là những tiến bộ khoa học, công nghệ 
có liên quan đến lĩnh vực chính sách. 
Việc phân tích chính sách được bắt đầu 
bằng việc xác định bộ ba bộ phận cấu thành 
[1]: mục tiêu chiến lược của chính sách, bối 
➢➢➢ 
12 
cảnh KT-XH trong và ngoài nước, và các chỉ 
tiêu đo lường kết quả thực hiện chính sách, ở 
đây bối cảnh KT-XH trong và ngoài nước gồm 
các nguồn lực (lao động, vốn, tài nguyên, 
công nghệ, thông tin, ), các chủ thể KT-XH 
như các hộ gia đình, các tổ chức nhà nước, 
các tổ chức KT-XH khác như công đoàn, 
doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề, ...; 
các chính sách cũ còn hiệu lực có liên quan, 
tình hình KT-XH thế giới và những nước đối 
tác chủ yếu của nền kinh tế, và các chỉ tiêu 
đo lường kết quả thực hiện. Nhiệm vụ của 
phân tích chính sách là xác định và đánh giá 
mối quan hệ giữa các biến của 3 bộ phận cấu 
thành nêu trên. 
Nhu cầu thông tin, số liệu phục vụ 
phân tích chính sách đang ở giai đoạn thực 
hiện và ở giai đoạn hoạch định chính sách 
cũng có một số khác biệt. Để phân tích và 
đánh giá chính sách đang được thực thi 
người ta cần có thêm thông tin phản hồi. Đó 
là thông tin thu được từ các chủ thể trong xã 
hội nhận xét, đánh giá về chính sách. Thông 
qua những thông tin như vậy Nhà nước có 
thể nhận biết thái độ của các chủ thể về 
những chính sách này để điều chỉnh sao cho 
nó phù hợp và khả thi hơn. Nhưng trong giai 
đoạn hoạch định chính sách thì rất cần 
những thông tin dự báo, trong đó đặc biệt là 
những dự báo được dựa trên nền tảng khoa 
học, nhận được từ các mô hình dự báo KT-
XH. Bài viết này đặc biệt chú ý đến nhu cầu 
thông tin số liệu thống kê phục vụ việc phân 
tích chính sách ở giai đoạn hoạch định chính 
sách. 
4. Phân tích định lượng các chính 
sách kinh tế vĩ mô 
Nói chung việc phân tích đánh giá 
chính sách công thường phải kết hợp cả 
phương pháp phân tích định tính với phương 
pháp định lượng. Để phân tích định lượng 
các chính sách công cần sử dụng các công cụ 
định lượng, trong đó nhất là sử dụng các mô 
hình dự báo KT-XH. Ở tầm vĩ mô, có 3 loại 
dự báo chủ yếu: Dự báo đánh giá tác động 
sự kiện, Dự báo thời điểm xẩy ra sự kiện và 
dự báo kinh tế-xã hội. Hai loại dự báo đầu 
tiên thường được thực hiện trong lĩnh vực đối 
ngoại, an ninh và quốc phòng trong khi cả 3 
loại dự báo đó đều xẩy ra trong lĩnh vực kinh 
tế - xã hội, trong đó loại dự báo thứ 3 là chủ 
yếu. Do khuân khổ có hạn, bài viết này chỉ 
tập trung vào loại dự báo thứ 3. 
Nói chung các mô hình dự báo kinh tế - 
xã hội đều có cả hai khả năng: dự báo và mô 
phỏng, phân tích đánh giá tác động của các 
chính sách. Các mô hình dự báo mạnh về khả 
năng mô phỏng và đánh giá tác động chính 
sách thường là các mô hình dự báo lớn, có 
rất nhiều biến số tham gia vì thế tiềm ẩn 
nguy cơ làm giảm độ chính xác dự báo bằng 
sử dụng mô hình. Việc xây dựng mô hình dự 
báo KT-XH đều mạnh cả về 2 khả năng nói 
trên là rất khó vì thế người ta phải chọn 
phương án đánh đổi hoặc dung hòa. Cụ thể 
là tùy theo mục đích sử dụng khác nhau, ở 
từng trường hợp người ta xây dựng các mô 
hình dự báo tập trung chỉ vào khả năng dự 
báo hoặc chỉ vào khả năng mô phỏng và 
phân tích đánh giá tác động chính sách, 
trong trường hợp cần có cả hai thì phải chấp 
nhận dung hòa, tức là chấp nhận độ chính 
xác của dự báo và/hoặc khả năng mô phỏng, 
phân tích và đánh giá tác động chính sách 
bằng sử dụng mô hình có thể bị giảm. 
  
13 
Hình 1 là minh họa phương pháp mô 
phỏng, phân tích và đánh giá tác động chính 
sách bằng sử dụng mô hình dự báo KT-XH. 
Về bản chất mô hình dự báo KT-XH là một hệ 
phương trình toán học biểu diễn quan hệ của 
các biến nội sinh theo trực tiếp các biến 
ngoại sinh hoặc thông qua một số biến trung 
gian khác. 
Việc mô phỏng và phân tích đánh giá 
tác động của chính sách được thực hiện bằng 
cách thiết lập các bộ giá trị được thiết kế 
khác nhau của một số biến ngoại sinh gồm: 
một số biến về nguồn lực trong nước, một số 
biến chính sách (liên quan trực tiếp đến 
chính sách sẽ ban hành), một số biến phản 
ánh các yếu tố ngoài nước có ảnh hưởng 
mạnh đến phát triển KT-XH trong nước, 
trong đó các biến chính sách là quan trọng 
nhất, và thông qua sử dụng mô hình dự báo 
ta nhận được tác động của của các chính 
sách đến các biến mục tiêu của chính sách. 
Thay đổi giá trị của bộ các biến ngoại sinh 
này ta sẽ nhận được mô phỏng tác động của 
chính sách và từ các bộ giá trị được thiết kế 
người ta sẽ xác định được chính sách tối ưu 
được ban hành nên là gì? Việc mô phỏng, 
phân tích và đánh giá tác động chính sách 
bằng sử dụng mô hình dự báo theo cách như 
vậy là phương pháp phân tích định lượng 
chính sách được sử dụng rất phổ biến hiện 
nay. 
Việc mô phỏng và đánh giá tác động 
của chính sách có thể được thực hiện cho 
một loại chính sách (hay còn được gọi sốc 
chính sách đơn) hoặc cho tổng hợp của nhiều 
loại chính sách (được gọi là sốc chính sách 
tổng hợp). Trong thực tế chỉ đạo điều hành 
và quản lý nền kinh tế, để đối phó với những 
tác động tiêu cực ở trong và ngoài nước đến 
phát triển KT-XH trong nước Chính phủ 
thường phải thực hiện đồng bộ nhiều giải 
pháp bằng việc ban hành một số loại chính 
sách kinh tế như chính sách tài chính, chính 
sách tiền tệ - tín dụng, chính sách tái cơ cấu 
nền kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại, ... 
khi đó cần thiết phải thực hiện mô phỏng và 
đánh giá tác động của các sốc chính sách 
tổng hợp. Mô hình dự báo cho phép mô 
phỏng và phân tích, đánh giá tác động của 
các sốc chính sách tổng hợp thường là những 
mô hình dự báo lớn và rất lớn. 
Nhu cầu số liệu thống kê cho phân tích 
chính sách trong bài viết này là bàn về việc 
Các biến nội sinh 
- Các mục tiêu kinh tế của 
chính sách: 
- Các mục tiêu xã hội, 
- Các mục tiêu về chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế, 
- Các mục tiêu khác 
Các biến ngoại sinh: 
1. Các yếu tố KT-XH trong 
nước 
- Các yếu tố nguồn lực: 
- Các biến chính sách 
2. Các yếu tố ngoài nước 
- Kinh tế thế giới 
- Kinh tế - xã hội của những 
nước đối tác chủ yếu 
3. Các hiệp định/hợp tác song 
phương, đa phương. 
Hình 1: Mô phỏng và đánh giá tác động của các chính 
sách KT-XH bằng sử dụng mô hình dự báo 
➢➢➢ 
14 
xây dựng các mô hình dự báo KT-XH có khả 
năng mô phỏng, phân tích và đánh giá tác 
động của 4 loại chính sách kinh tế vĩ mô nêu 
trên. 
5. Nhu cầu số liệu thống kê cho 
phân tích định lượng chính sách kinh tế 
vĩ mô 
Phần này sẽ dựa vào Hình 1 và mục 
tiêu, nội dung của các chính sách kinh tế vĩ 
mô để xác định nhu cầu số liệu thống kê khi 
mô phỏng và phân tích, đánh giá tác động 
của các chính sách kinh tế. 
5.1. Các chính sách tài chính 
 Mục tiêu của chinh sách tài chính là 
nhằm ổn định và phát triển kinh tế theo định 
hướng của Nhà nước, kiểm soát thâm hụt 
ngân sách và xử lý nợ quốc gia. Chính sách 
tài chính bao gồm: các chính sách về huy 
động vốn và phát triển thị trường tài chính; 
chính sách về thuế và chính sách về ngân 
sách Nhà nước. 
5.1.1. Chính sách về huy động vốn và 
phát triển thị trường 
Để phân tích các chính sách về huy 
động vốn cần có số liệu thống kê về vốn bao 
gồm vốn trong nước và vốn ngoài nước. Ở 
đây vốn trong nước gồm: vốn từ ngân sách 
Nhà nước, vốn từ trong dân (vốn từ doanh 
nghiệp tự đầu tư, vốn từ một số đối tượng 
chịu tác động trực tiếp của chính sách), vốn 
vay tín dụng ngân hàng (chẳng hạn trái 
phiếu); vốn từ các cơ quan tài chính trung 
gian như công ty bảo hiểm. Vốn nước ngoài 
gồm: vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn 
tài trợ của các tổ chức quốc tế gồm vốn ODA 
(không hoàn lại, vay có điều kiện, hợp tác đa 
phương) và viện trợ phát triển chính thức từ 
các nguồn chính thức; nợ quốc tế bao gồm: 
nợ chính phủ và nợ thương mại. 
Cần có số liệu thống kê về phát triển 
thị trường gồm: Thị trường tiền tệ, thị trường 
hối đoái và thị trường vốn. Về thị trường tiền 
tệ: thị trường tiền tệ liên ngân hàng, thị 
trường mở giữa các chủ thể kinh tế. Dữ liệu 
có thể được thống kê hàng ngày. 
Về thị trường hối đoái: tỷ giá hối đoái 
danh nghĩa, tỷ giá hối đoái hiệu quả thực 
giữa VNĐ và một số ngoại tệ mạnh khác 
cũng như giữa các ngoại tệ mạnh này. Dữ 
liệu được thống kê hàng ngày. 
Về thị trường chúng khoán: Thị trường 
sơ cấp: số lượng giao dịch và giá của những 
cổ phiếu sắp và đang phát hành và thị 
trường thứ cấp: chỉ số chứng khoán của Việt 
Nam và của một số chỉ số chứng khoán quốc 
tế quan trọng. Số lượng giao dịch và giá của 
một số cổ phiểu có tỷ lệ vốn hóa lớn hoặc đại 
diện cho xu hướng huy động vốn của một số 
ngành kinh tế ưu tiên, ... Mức vốn hóa thị 
trường phân theo các ngành kinh tế. Số liệu 
được thống kê hàng ngày. 
Hiện tại Ngành Thống kê chưa cung 
cấp những số liệu như vậy. 
5.1.2. Chính sách thuế: là một trong 
những công cụ tài chính quan trọng nhất để 
điều tiết phát triển nền kinh tế và các quan 
hệ xã hội. 
Thuế bao gồm thuế trực thu và thuế 
gián thu. Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp 
vào thu nhập bao gồm: thuế thu nhập doanh 
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, trong khi 
thuế gián thu bao gồm thuế doanh thu, thuế 
giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế 
xuất nhập khẩu, thuế đánh vào vốn doanh 
nghiệp, thuế sử dụng đất, thuế cầu đường, 
thuế môn bài, thuế trước bạ giao thông, ... 
Hiện tại việc tiếp cận số liệu thống kê 
có hệ thống của các loại thuế này là rất khó 
khăn. Chúng tôi chỉ có thể tìm được bằng 
cách tra cứu trong văn bản quy phạm pháp 
luật về các sắc thuế như vậy và có tính chất 
rất thời điểm. 
Trong phân tích chính sách thuế chúng 
tôi có nhu cầu sử dụng số liệu thống kê về 
  
15 
thuế doanh thu được phân theo các ngành 
kinh tế, các thành phần kinh tế và các vùng 
kinh tế? số liệu thống kê về thuế giá trị gia 
tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt được phân theo 
các nhóm ngành hàng; số liệu thống kê về 
thuế xuất nhập khẩu được phân theo nhóm 
ngành hàng xuất, nhập khẩu chủ đạo của 
nền nền kinh tế; số liệu thống kê về thuế 
đánh vào vốn doanh nghiệp, thuế sử dụng 
đất, thuế cầu đường, thuế môn bài, thuế 
trước bạ giao thông, ... 
5.1.3. Chính sách ngân sách nhà nước 
Chính sách ngân sách nhà nước liên 
quan đến chính sách thu – chi ngân sách. 
Việc phân tích đánh giá tác động của các 
chính sách ngân sách liên quan đến việc dự 
báo thu và tác động của việc phân bổ ngân 
sách (hay chính sách chi). 
Để phân tích chính sách ngân sách nhà 
nước cần có số liệu thống kê về thu ngân 
sách nhà nước theo các nguồn thu: thu từ 
thuế, phí, lệ phí; thu từ hoạt động kinh tế 
của nhà nước: phân theo lĩnh vực hoạt động 
và các ngành kinh tế; các khoản đóng góp tự 
nguyện của các tổ chức từ thiện và các nhân, 
các khoản vay của chính phủ phân theo các 
ngành kinh tế, các khoản viện trợ, các khoản 
thu khác. Về số liệu chi ngân sách nhà nước 
(bao gồm chi thường xuyên và chi phát triển) 
thì rất cần số liệu thống kê về chi đầu tư 
phát triển phân theo các ngành kinh tế, ít 
nhất đến 21 ngành kinh tế cấp 1, và cần chi 
tiết đến một số ngành cấp 2, cấp 3, , – đó 
là những ngành mũi nhọn hoặc được định 
hướng phát triển (như chi đầu tư phát triển 
cho ngành công nghệ thông tin, vật liệu mới, 
sản xuất nông nghiệp sạch, logistic, ) và 
các vùng kinh tế. 
 Các số liệu thống kê về thu chi ngân 
sách đã ngày càng được cải thiện hơn, tuy 
nhiên số liệu về chi đầu tư phát triển còn 
thiếu chi tiết. 
5.2. Chính sách tiền tệ - tín dụng 
Tiền tệ có 5 chức năng cơ bản: chức 
năng đo giá trị, chức năng phương tiện lưu 
thông, chức năng thanh toán, chức năng 
phương tiện dự trữ và chức năng tiền tệ thế 
giới. Thông qua thực hiện các chức năng này, 
tiền tệ có vai trò cực kỳ quan trọng trong mọi 
lĩnh vực của nền kinh tế thể hiện: nó là 
phương tiện hữu hiệu để phát triển sản xuất, 
kinh doanh và ổn định nền kinh tế. Trong 
nền kinh tế thị trường, tiền tệ là công cụ 
quan trọng để quản lý vĩ mô nền kinh tế, cụ 
thể là để thực hiện các chính sách tài chính, 
chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập và 
chính sách ngoại thương 
Mục tiêu của chính sách tiền tệ - tín 
dụng là nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, 
kìm chế lạm phát, tạo công ăn việc làm, ổn 
định thị trường tài chính, điều tiết sản xuất 
kinh doanh và mở rộng tiềm năng phát triển 
của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ - tín dụng 
gồm các loại chính sách cơ bản sau: chính 
sách điều tiết khối lượng tiền tệ trong nền 
kinh tế, chính sách tín dụng, chính sách 
ngoại hối và chính sách tạm ứng cho ngân 
sách nhà nước. 
5.2.1. Chính sách điều tiết khối lượng 
tiền tệ: 
Mục tiêu của chính sách điều tiết khối 
lượng tiền tệ là làm dung hòa các mục tiêu 
tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp, việc 
làm cao, cán cân thanh toán quốc tế ổn định. 
Để phân tích chính sách này cần có số liệu 
thống kê về cung tiền M1 và cung tiền M2 
(hay tổng phương tiện thanh toán trong nền 
kinh tế), tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân 
hàng thương mại, lãi suất chiết khấu và tái 
chiết khấu, lãi suất không kỳ hạn và có kỳ 
hạn như ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của 
đại diện hệ thống ngân hàng thương mại mà 
nhà nước không có hoặc có sở hữu vốn; tín 
dụng cho nền kinh tế: phân theo các ngành 
➢➢➢ 
16 
kinh tế. Lưu ý rằng số liệu về cung tiền M2 
cần được thống kê chi tiết hơn gồm: tiền lưu 
thông ngoài ngân hàng, tiền gửi không kỳ 
hạn và có kỳ hạn, tiền tiết kiệm trong ngân 
hàng và các tiền gửi của các định chế tài 
chính khác. Các số liệu nêu trên cần được 
thống kê theo tần suất tháng, quý, năm. 
Hiện tại số liệu thống kê phục vụ phân 
tích chính sách điều tiết khối lượng tiền tệ là 
chưa có trong Hệ thống thống kê Nhà nước, 
việc tiếp cận những số liệu này là rất khó 
khăn. 
5.2.2. Chính sách tín dụng: 
 Mục tiêu chính của chính sách tín dụng 
là nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kìm 
chế lạm phát, tạo công ăn việc làm. Chính 
sách tín dụng bao gồm chính sách lãi suất, 
tín dụng, thị trường mở và hạn chế tín dụng. 
Ngoài việc sử dụng những số liệu thống kê 
để phân tích chính sách điều tiết khối lượng 
tiền tệ nêu trên, để phân tích chính sách tín 
dụng cần có số liệu thống kê về tín dụng 
phân theo các ngành kinh tế (ít nhất là cho 
21 ngành kinh tế cấp 1) và phân theo các 
thành phần kinh tế, vùng kinh tế. Lượng mua 
và bán ngoại tệ của ngân hàng Nhà nước. Số 
liệu nêu trên nên được thống kê theo tần 
suất tháng. Hiện tại chỉ tiếp cận được số liệu 
thống kê về tín dụng cho toàn nền kinh tế 
theo tần suất tháng. 
5.2.3. Chính sách ngoại hối: 
Chính sách ngoại hối bao gồm chính 
sách dự trữ ngoại hối và chính sách tỷ giá hối 
đoái. Để phân tích chính sách ngoại hối, 
ngoài số liệu thống kê về tỷ giá hối đoái đã 
được nói ở phần trên, cần có số liệu thống kê 
về dự trữ ngoại hối. Các số liệu này nên được 
thống kê theo tần suất ngày, hoặc ít nhất là 
được thống kê theo tần suất tuần. 
5.2.4. Chính sách tạm ứng cho ngân 
sách nhà nước: 
Để phân tích chính sách tạm ứng cho 
ngân sách nhà nước cần có số liệu thống kê 
về cơ cấu tiêu dùng và tiết kiệm của các đối 
tượng chịu thuế; số liệu thống kê về đầu tư 
tư nhân, đầu tư của nhà nước, về vay của 
ngân hàng trung ương, vay của nước ngoài, 
vay của dân cư và vay của ngân hàng thương 
mại trong nước. Những số liệu thống kê này 
hiện chỉ có một phần (đầu tư tư nhân, đầu tư 
của nhà nước), các số liệu thống kê còn lại 
hiện thiếu vắng, chưa được tiếp cận qua hệ 
thống thống kê nhà nước. 
Những số liệu trong phần này nên 
được thống kê, thu thập theo tần suất quý, 
năm. 
5.3. Chính sách chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế 
Chính sách cơ cấu kinh tế đóng vai trò 
quyết định trong phát triển cơ cấu kinh tế 
quốc gia. Cơ cấu kinh tế gồm: Cơ cấu ngành 
kinh tế, Cơ cấu các thành phần kinh tế, Cơ 
cấu vùng kinh tế, Cơ cấu xuất nhập khẩu, Cơ 
cấu công nghệ, Cơ cấu kết cấu hạ tầng. 
Mục tiêu của chính sách cơ cấu kinh tế 
nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, 
góp phần thực hiện các mục tiêu của nền 
kinh tế phát triển: tăng trưởng cao, ổn định 
và bền vững; phúc lợi cao và công bằng, xóa 
đói giảm nghèo, giải quyết triệt để vấn đề 
môi trường. 
Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế phản 
ánh rõ nét sự thay đổi cấu trúc các nguồn lực 
của nền kinh tế. Quan niệm của kinh tế học 
cổ điển, tân cổ điển và của học thuyết kinh 
tế cơ cấu mới về cấu trúc nguồn lực có sự 
khác nhau. Theo kinh tế học cổ điển, cấu 
trúc nguồn lực của một nền kinh tế bao gồm: 
tài nguyên (đất đai, khoáng sản,...), vốn và 
lao động, nhưng theo học thuyết kinh tế cơ 
cấu mới [2] thì vốn được hiểu rộng hơn bao 
gồm vốn vật chất và vốn con người, và trong 
cấu trúc các nguồn lực của nền kinh tế còn 
  
17 
có thêm cơ sở hạ tầng bao gồm cơ sở hạ 
tầng cứng (năng lượng, viễn thông, sân bay, 
bến cảng, đường bộ, đường sắt,.... và cơ sở 
hạ tầng mềm: các thể chế, các quy định, 
nguồn vốn xã hội, các thỏa thuận kinh tế, xã 
hội khác). 
Các số liệu thống kê cần thiết cho phân 
tích cơ cấu kinh tế 
- Số liệu thống kê phản ánh các yếu tố 
bên ngoài có tác động đến thay đổi cơ cấu 
các nguồn lực, đến tăng trưởng các ngành 
kinh tế của Việt Nam, trong đó bao gồm giá 
thế giới của những nguyên liệu đầu vào của 
nền kinh tế. 
- Số liệu thống kê giá so sánh của một 
số sản phẩm thiết yếu của đời sống dân sinh; 
giá trong nước và ngoài nước của các sản 
phẩm xuất nhập khẩu chủ đạo của nền kinh 
tế; 
- Số liệu thống kê về tài nguyên thiên 
nhiên của quốc gia, trong đó nhất là số liệu 
về đất đai, một số tài nguyên khoáng sản 
chính; 
- Số liệu thống kê về cơ sở hạ tầng bao 
gồm cơ sở hạ tầng cứng (đường xá, sân bay, 
bến cảng, năng lượng, viễn thông, ...) và cơ 
hạ tầng mềm (vốn xã hội và các thỏa thuận 
kinh tế, xã hội khác; các thể chế và các quy 
định, nhất là những thể chế, quy định liên 
quan đến tích lũy vốn, đầu tư, nâng cấp 
và/hoặc phát triển ngành kinh tế mới;...); 
- Số liệu thống kê về lao động và cơ 
cấu lao động trong các ngành kinh tế phân 
theo nghề và kỹ năng nghề, phân theo 
ngành đào tạo và đào tạo nghề; 
- Số liệu thống kê về đầu tư cho y tế, 
giáo dục và đào tạo. Thông tin, dữ liệu về 
tiền lương trong các ngành kinh tế phân theo 
trình độ và kỹ năng nghề. Thông tin và tiền 
công, tiền lương trung bình trong các hộ gia 
đình và các loại hình doanh nghiệp; 
- Số liệu thống kê về công nghệ sản 
xuất đang được sử dụng trong các loại hình 
doanh nghiệp của Việt Nam; 
- Tổng ngân sách của nền kinh tế và cơ 
cấu phân bổ ngân sách. 
5.4. Chính sách kinh tế đối ngoại 
Bao gồm chính sách ngoại thương, 
chính sách đầu tư nước ngoài, chính sách tỷ 
giá, chính sách hợp tác khoa học kỹ thuật với 
nước ngoài, ... 
- Chính sách ngoại thương bao gồm 
chính sách mậu dịch tự do và chính sách bảo 
hộ mậu dịch. Công cụ thực hiện chính sách 
ngoại thương là: thuế quan (nhất là thuế 
xuất, nhập khẩu hoặc thuế quá cảnh theo 
các nhóm ngành hàng), trợ cấp xuất khẩu. 
- Chính sách đầu tư nước ngoài bao 
gồm chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và 
chính sách đầu tư ra nước ngoài. Chính sách 
thu hút đầu tư nước ngoài. Để phân tích 
chính sách ngoại thương cần có số liệu thống 
kê về vốn đầu tư (tổng vốn đăng ký, vốn 
đăng ký mới, vốn bổ sung, vốn thực hiện) 
phân theo nhóm ngành hàng, theo các ngành 
kinh tế, các vùng miền và địa phương. Số 
liệu thống kê và lượng và tỷ lệ thuế doanh 
nghiệp nước ngoài nộp cho nhà nước phân 
theo nhóm ngành hàng, các ngành kinh tế, 
các vùng và miền địa phương. Số liệu thống 
kê về lượng và thuế chuyển lợi nhuận về 
nước bao gồm: lợi nhuận, giá trị chuyển 
nhượng công nghệ và dịch vụ, vốn đầu tư 
thu hồi, gốc và lãi từ các khoản nợ thu được. 
Số liệu thống kê về thời hạn thuê đất, hình 
thức đầu tư, về lao động làm việc trong các 
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài phân theo 
các ngành kinh tế, các vùng miền. 
- Chính sách hợp tác quốc tế về khoa 
học và công nghệ: Để phân tích chính sách 
này cần có số liệu thống kê về số lượng các 
chuyên gia và các bộ khoa học và đào tạo 
trình độ cao ở trong nước và nước ngoài 
➢➢➢ 
18 
phân theo các ngành nghề đào tạo; số lượng 
các dự án hợp tác quốc tế về khoa học công 
nghệ phân theo tỷ lệ góp vốn, ngành kinh tế, 
và theo vùng miền; số lượng và giá trị của 
các dự án, chương trình hợp tác nghiên cứu 
phân theo tỷ lệ góp vốn, ngành kinh tế, và 
theo vùng miền. 
- Chính sách tỷ giá hối đoái bao gồm 
chế độ tỷ giá hối đoái (thả nổi hay cố định), 
phương pháp xác định tỷ giá hối đoái và 
chính sách quản lý ngoại hối. Số liệu thống 
kê cần thiết cho phân tích chính sách tỷ giá 
hối đoái đã được nêu ở những phần trước 
đó. 
5.5. Mô phỏng và đánh giá tác 
động của 4 loại chính sách kinh tế vĩ mô 
Các số liệu thống kê cần thiết cho phân 
tích 4 loại chính sách kinh tế vĩ mô được nêu 
ở trên tương ứng với 4 tiểu mục trên là rất 
quan trọng và rất nhiều số liệu trong chúng 
là giá trị của các biến ngoại sinh chính sách 
trong mô hình dự báo kinh tế vĩ mô. Các số 
liệu thống kê như vậy vẫn chưa đủ để phân 
tích định lượng chính sách bằng sử dụng mô 
hình dự báo trong Hình 1. Cụ thể để mô 
phỏng và phân tích đánh giá tác động của 4 
chính sách kinh tế vĩ mô, cần có số liệu thống 
kê phản ánh mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã 
hội và mục tiêu cơ cấu của các chính sách 
này. 
5.5.1 Về mục tiêu kinh tế: 
Cần có số liệu thống kê phản ánh về 
tăng trưởng, lạm phát, lao động việc làm và 
cán cân thanh toán quốc tế. 
- Số liệu thống kê phản ánh tăng 
trưởng của nền kinh tế chính là tốc độ tăng 
trường GDP và GDP theo giá so sánh và giá 
hiện hành của các ngành kinh tế và các vùng 
kinh tế (ít nhất bao gồm 21 ngành kinh tế 
cấp một và một số ngành kinh tế cấp 2 quan 
trọng là những ngành được Nhà nước định 
hướng ưu tiên phát triển, tốt nhất là đến 88 
ngành kinh tế cấp 2). Các số liệu này được 
thống kê theo tần suất quý. Các chỉ số phát 
triển công nghiệp, chỉ số tiêu thụ và chỉ số 
tồn kho của các ngành kinh tế (gồm các 
ngành kinh tế cấp 1 và cấp 2). 
- Số liệu thống kê phản ánh lạm phát 
bao gồm lạm phát cơ bản; lạm phát giá tiêu 
dùng của toàn nền kinh tế và theo các rổ 
hàng hóa; các chỉ số giá vàng và đô la; chỉ số 
giá xuất khẩu, nhập khẩu và chỉ số của nhà 
sản xuất phân theo các ngành sản xuất và 
hoặc các nhóm ngành hàng, ... 
- Về lao động việc làm: cần có số liệu 
thống kê về lực lượng lao động, số việc làm 
thêm mới, tỷ lệ thất nghiệp phân theo nhóm 
tuổi trong đó nhất là nhóm lao động trẻ được 
phân theo thành thị, nông thôn, nam, nữ, 
vùng miền, ... 
- Về cán cân thanh toán quốc tế: Cần 
có số liệu chi tiết về cán cân vốn, trong đó 
bao gồm số liệu về tài khoản vãng lai và nợ 
nước ngoài, và cán cân ngoại thương. Số liệu 
thống kê liên quan đến cán cân ngoại thương 
cần được thống kê chi tiết đến các nhóm 
ngành hàng. 
5.5.2 Mục tiêu công bằng và tiến bộ xã 
hội 
Để đánh giá tác động của các chính 
sách kinh tế đến sự công bằng và tiến bộ xã 
hội, cần có số liệu về thu nhập và tiêu dùng, 
tỷ lệ nghèo đói của dân cư thành thị, nông 
thôn và theo vùng miền; cần có số liệu thống 
kê về chi cho y tế, giáo dục, hưởng thụ văn 
hóa tinh thần, sử dụng nước sạch của các hộ 
gia định ở thành thị, nông thôn và theo vùng 
miền, ... cũng như số liệu về cơ cấu lao động 
theo nhóm độ tuổi, theo các ngành kinh tế, 
thành phần kinh tế, nam nữ, thành thị nông 
thôn, và theo các vùng miền. 
5.5.3 Mục tiêu cơ cấu kinh tế 
  
19 
Số liệu thống kê phản ánh mục tiêu 
của cơ cấu kinh tế ở mục này đã được bao 
hàm trong mục 3 ở trên. 
6. Nhu cầu số liệu thống kê cho 
phân tích chính sách kinh tế vĩ mô theo 
luồng dữ liệu thời gian thực 
Trong bối cảnh cách mạng công 
nghiệp 4.0, cách tiếp cận xây dựng các mô 
hình dự báo KT-XH đã có nhiều thay đổi. 
Tiếp theo bài [3], ở bài viết này chúng tôi 
bổ sung nhu cầu số liệu thống kê phục vụ 
phân tích chính sách kinh tế vĩ mô theo 
luồng dữ liệu thời gian thực. 
Vài năm gần đây trong lĩnh vực phân 
tích và dự báo kinh tế, người ta nói nhiều 
đến mô hình dự báo tên là nowcasting. Mô 
hình nowcasting là mô hình cho phép dự 
báo hiện tại, quá khứ rất gần và dự báo 
tương lai. Mô hình nowcasting cho phép dự 
báo các chỉ số kinh tế ở tần suất thấp 
(chẳng hạn như quý) theo dữ liệu của các 
biến ngoại sinh được thu thập ở tần suất 
cao hơn (chẳng hạn như dữ liệu ở tần suất 
ngày, tháng). Khi đó theo luồng dữ liệu 
được phát hành chẳng hạn theo 
ngày/tháng người ta có thể cập nhật lại dự 
báo của các chỉ số kinh tế ở tần suất quý 
ngay tại quý hiện tại và ở các quý tiếp 
theo. Nói cách khác các mô hình 
nowcasting cho phép cập nhật lại dự báo 
theo luồng dữ liệu thời gian thực, tức là 
mỗi khi dữ liệu đươc công bố thì kết quả dự 
báo sẽ được điều chỉnh lại cho sát với diễn 
biến của tình hình KT-XH. 
Xây dựng mô hình nowcasting được 
quan tâm đặc biệt trong những năm gần 
đây ở rất nhiều quốc gia. Việc xây dựng mô 
hình nowcasting liên quan chặt chẽ với việc 
xử lý dữ liệu lớn big data. Dữ liệu được sử 
dụng xây dựng các mô hình như vậy bao 
gồm các số liệu cứng và số liệu mềm. Số 
liệu cứng là số liệu thống kê được thu thập 
theo các phương pháp truyền thống trong 
khi dữ liệu mềm là các số liệu được thu 
thập từ các cuộc điều tra, từ các mạng xã 
hội và trong quá trình hoạt động của các cơ 
quan trong bộ máy nhà nước và cộng đồng 
doanh nghiệp. Các dữ liệu mềm thường 
được thu thập theo tần suất ngày, tuần. 
Với việc sử dụng mô hình nowcasting, 
tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô 
có thể nhận diện được hàng ngày. Nói cách 
khác khi đó người ta có thể mô phỏng, 
phân tích và đánh giá tác động chính sách 
theo luồng dữ liệu thời gian thực. 
Phân tích chính sách theo luồng dữ 
liệu thời gian thực đòi hỏi phải có số liệu, 
trong đó bao gồm các số liệu thống kê 
cũng như số liệu từ các cuộc điều tra thống 
kê để xây dựng mô hình dự báo KT-XH. Đó 
là thách thức và cũng là cơ hội của Hệ 
thống thống kê nhà nước. Trước hết Hệ 
thống thống kê nhà nước nên xem xét bổ 
sung thêm thông tin cần được điều tra 
trong các cuộc điều tra quốc gia và điều tra 
chuyên ngành, đồng thời cải tiến việc cung 
cấp, chia sẻ dữ liệu các cuộc điều tra như 
vậy cho xã hội. 
Tài liệu tham khảo 
1. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân: 
Giáo trình chính sách KT-XH, Nhà Xuất bản 
Khoa học Kỹ thuật, 2007, 479 trang; 
2. Justin Yifu Lin (2012). Học thuyết 
kinh tế cơ cấu mới. Bản dịch tiếng Việt của 
Ngân hàng thế giới, Lưu tại Thư viện Quốc 
hội, 356 trang. 
3. Đỗ Văn Thành (2020). Cơ hội và 
thách thức của hệ thống thống kê Nhà nước 
trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Hội 
thảo khởi động xây dựng Chiến lược phát 
triển Ngành Thống kê giai đoạn 2021-2030. 
Đại Lải, 7/2020. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhu_cau_so_lieu_thong_ke_phuc_vu_phan_tich_dinh_luong_chinh.pdf