Nhu cầu chăm sóc tại nhà về xã hội cao chiếm tỷ
lệ là 82,2%. Trong đó, nhu cầu tham gia hoạt động
xã hội, giải trí, niềm tin lần lượt là 74,5%; 74,5%;
67,5%. Trong nghiên cứu của Lloyd, Jacob, Ashna
Maria Pinto, Shoba Nair và Subhash Tarey chỉ ra rằng
sự đau khổ hiện hữu và nhu cầu niềm tin, tâm linh
được nhìn thấy ở những bệnh nhân sau đột quỵ suy
nhược và thường không được giải quyết [11]. Bệnh
nhân sau đột quỵ luôn cần có một tâm hồn thanh
thản, cần được sống trong niềm vui, hạnh phúc bên
gia đình và hài hòa trong các quan hệ xã hội. Để có
được điều này, các đối tượng nên có cơ hội tham
gia các hoạt động xã hội như tham gia vào phong
trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, các lễ
hội truyền thống, các sự kiện giao lưu, sinh hoạt văn
hóa cộng đồng và các hoạt động chính trị - xã hội
khác. Giải quyết các nhu cầu này là một trong những
lĩnh vực quan trọng của chăm sóc và sẽ giúp giảm
bớt những phiền muộn về tinh thần mà nhiều bệnh
nhân có thể gặp phải.
Mô hình hồi quy logistic đa biến ở bảng 5 cho
thấy các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với nhu
cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà cao (p<0,05).
Tình trạng vận động phụ thuộc hoàn toàn với
OR=19,25; 95% CI: (2,38-156,09) và tình trạng vận
động phụ thuộc một phần OR=11,13; 95% CI: (2,01-
61,56) so với tình trạng vận động độc lập. Sự khác
biệt này có thể là do những đối tượng có tình trạng
vận động phụ thuộc hoàn toàn và một phần có di
chứng tàn tật nặng nề hơn, gặp khó khăn nhiều hơn
trong sinh hoạt hằng ngày, tình trạng sức khỏe yếu
hơn và khả năng tự chăm sóc hạn chế hơn những
đối tượng có tình trạng vận động độc lập. Đồng thời,
họ lo lắng về tình trạng bệnh của bản thân, họ mong
muốn được chia sẻ, vì vậy cần được chăm sóc và
có nhu cầu chăm sóc tại nhà cao hơn các đối tượng
khác. Nhóm đối tượng sẵn sàng chi trả cho dịch
vụ chăm sóc tại nhà với OR=26,25; 95% CI: (4,63-
148,92) so với nhóm không sẵn sàng chi trả; Có lẽ
do những đối tượng có điều kiện kinh tế sẵn sàng
sử dụng tiền để làm cho cuộc sống của họ tốt hơn.
Nhóm đối tượng mắc bệnh mạn tính với OR=3,96;
95% CI: (1,06-14,80) so với nhóm không mắc bệnh.
Điều này có thể do những người bệnh sau đột quỵ
mắc bệnh mạn tính đòi hỏi một chế độ chăm sóc
không chỉ khắc phục những biến chứng sau đột quỵ
mà còn phải phù hợp với bệnh mạn tính họ đang
mắc phải. Trong mô hình hồi quy logistic đa biến này,
nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa giới tính, trình độ học vấn, tình trạng
gia đình, tình hình kinh tế gia đình, thể đột quỵ và
tình hình chăm sóc với nhu cầu chăm sóc tại nhà.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà của bệnh nhân sau đột quỵ tại thành phố Huế, Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
19
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
Địa chỉ liên hệ: Lê Thị Bích Thuý, email: ltbthuy@huemed-univ.edu.vn 
Ngày nhận bài: 12/1/2020.; Ngày đồng ý đăng: 27/1/2020; Ngày xuất bản: 26/2/2020;
Nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà của bệnh nhân sau đột 
quỵ tại thành phố Huế, Việt Nam
Đinh Bảo Trâm, Lê Thị Bích Thúy, Nguyễn Hoàng Lan
Khoa Y tế công cộng, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà của bệnh nhân sau đột quỵ tại 
thành phố Huế và tìm hiểu các yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được 
thực hiện ở thành phố Huế. 157 bệnh nhân đột quỵ đã xuất viện được phỏng vấn trực tiếp dựa trên bộ câu 
hỏi đã được cấu trúc sẵn. Bộ công cụ bao gồm các câu hỏi về tình trạng chức năng của người bệnh, tình hình 
chăm sóc và nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà. Phân tích hồi quy đa biến logistic được áp dụng để 
tìm hiểu các yếu tố liên quan. Kết quả: 81,5% đối tượng cho biết họ rất cần được chăm sóc tại nhà, trong đó 
nhu cầu chăm sóc ở các lĩnh vực thể chất, tinh thần và xã hội chiếm tỷ lệ lần lượt là 84,1%; 79,6% và 82,2%. 
Tình trạng vận động, bệnh mạn tính và sẵn sàng chi trả của người bệnh có liên quan đến nhu cầu chăm sóc 
tại nhà (p<0,05). Kết luận: Hầu hết người bệnh sau đột quỵ đều có nhu cầu được chăm sóc tại nhà. Ngành y 
tế cần có những kế hoạch để làm cho những dịch vụ chăm sóc trở nên chuyên nghiệp và sẵn có đáp ứng nhu 
cầu người bệnh.
Từ khóa: nhu cầu, dịch vụ chăm sóc, tại nhà, đột quỵ.
Abstract 
Needs for home care services among patients after stroke in Hue 
city, Vietnam
Dinh Bao Tram, Le Thi Bich Thuy, Nguyen Hoang Lan
Faculty of Public Health, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Objectives: To identify the needs for home care services among patients after stroke in Hue city and 
explore the factors affecting them. Methodology: A cross-sectional study was conducted in Hue city. 157 
stroke patients who were discharged were directly interviewed based on the structured questionnaire. The 
questionnaire included the patients’ functional status, the care status and the need for care services at home. 
A multivariate logistic regression model was applied to explore factors related to patients’ needs. Results: 
81.5% of respondents said that they desired to receive care services at their home. Need for physical, mental 
and social care accounted for 84.1%; 79.6% and 82.2% respectively. Status of daily living activities, chronic 
diseases and willingness to pay for home care of the patients were found to be significantly associated with 
their care needs (p<0.05). Conclusion: Most patients after stroke have high need for home care. The health 
sector should have plan to provide professional care services and make them available to meet care needs 
of the patients.
Key words: needs, home care services, stroke, Hue city.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ là một trong những nguyên nhân phổ 
biến gây nên tàn tật và tử vong trên thế giới. Theo 
thống kê của Tổ chức Y tế thế giới từ năm 2000-
2015, đột quỵ là nguyên nhân đứng thứ hai gây tử 
vong trên toàn thế giới chỉ sau các bệnh tim mạch 
[1], [2], [3]. Ngay cả khi thoát khỏi nguy hiểm đến 
tính mạng, đột quỵ cũng có thể để lại những di 
chứng nặng nề và thực sự là một gánh nặng kinh 
tế cho gia đình bởi chi phí phát sinh trong điều trị 
cũng như khắc phục hậu quả mà nó gây ra [4], [5]. 
Theo thống kê của WHO, có từ 1/3 đến 2/3 bệnh 
nhân sống sót sau đột quỵ để lại di chứng tàn tật 
vĩnh viễn, 51% bệnh nhân bị phụ thuộc về tự chăm 
sóc bản thân, 11% người bệnh không tự đi lại 
được [6]. Tại Việt Nam mỗi năm có trên 200.000 
người bị đột quỵ, 50% trong số đó tử vong, số còn 
lại may mắn được sống sót nhưng đa số đều có 
những biến chứng nguy hiểm. Theo Nguyễn Văn 
Đăng, di chứng về vận động của đột quỵ là 92,96%, 
di chứng nặng là 27,69%, di chứng vừa và nhẹ là 
68,42% [7]. Trong khi đó, tình hình chăm sóc y tế 
DOI: 10.34071/jmp.2020.1.3
20
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
cho bệnh nhân sau đột quỵ còn khá hạn chế, mạng 
lưới y tế phục vụ bệnh nhân chưa có, số nhân viên 
y tế phục vụ tại cộng đồng vừa thiếu về số lượng 
vừa yếu về nghiệp vụ và kỹ năng trong khi nhu cầu 
chăm sóc y tế lại rất lớn. Kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Như Mai và Trần Thị Thanh Hương 
thực hiện trên 164 bệnh nhân tai biến mạch máu 
não của bệnh viện Lão khoa Trung ương tại thời 
điểm xuất viện để đánh giá nhu cầu chăm sóc và 
phục hồi chức năng cho thấy có 92,7% bệnh nhân 
có nhu cầu chăm sóc, trong đó nhu cầu nhiều nhất 
là cơ xương khớp (92,7%), có 89,6% bệnh nhân có 
nhu cầu phục hồi chức năng trong đó nhóm nhu 
cầu trong sinh hoạt hàng ngày cao nhất (67,7%) 
[8]. Để có thể cung cấp bằng chứng về nhu cầu sử 
dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà của bệnh nhân sau 
đột quỵ tại Thành phố Huế, nghiên cứu được thực 
hiện với hai mục tiêu là mô tả nhu cầu sử dụng 
dịch vụ chăm sóc tại nhà của những bệnh nhân 
sau đột quỵ và tìm hiểu một số yếu tố liên quan 
đến nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà của 
những đối tượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu 
sẽ cung cấp thêm bằng chứng để các nhà quản lý y 
tế phát triển các kế hoạch thiết thực đáp ứng nhu 
cầu của người bệnh đột quỵ.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân bị đột quỵ đã ra viện đang sống tại 
thành phố Huế và/hoặc người thân sống cùng bệnh 
nhân (trong trường hợp bệnh nhân không thể giao 
tiếp được).
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 06 đến 
tháng 12/2018 tại thành phố Huế.
2.3. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
2.4. Cỡ mẫu và chọn mẫu
Từ hồ sơ bệnh án của những người bệnh được 
chẩn đoán đột quỵ tại bệnh viện Trung ương Huế từ 
năm 2016, có 492 bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn 
nghiên cứu. Dựa trên thông tin cá nhân người bệnh 
từ hồ sơ bệnh án, chúng tôi tìm đến hộ gia đình người 
bệnh mời họ tham gia nghiên cứu. Tổng cộng có 157 
người bệnh (người thân) đồng ý được phỏng vấn.
2.5. Phương pháp và công cụ thu thập thông tin
Bộ câu hỏi được thiết kế sẵn gồm ba phần: đặc 
điểm chung; tình hình chăm sóc hiện tại; nhu cầu 
sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà. Trong dó, nhu 
cầu chăm sóc tại nhà của đối tượng bao gồm nhu 
cầu về thể chất, nhu cầu về tinh thần và nhu cầu 
về xã hội; mỗi nhu cầu được đánh giá bằng cách sử 
dụng thang đo Likert gồm 5 mức độ. Ngoài ra, đối 
tượng nghiên cứu (ĐTNC) được đánh giá tình trạng 
vận động theo chỉ số Barthel [9]. Thông tin thu thập 
thông qua phỏng vấn bằng bộ câu hỏi, kết hợp quan 
sát để đánh giá tình trạng vận động của ĐTNC. 
2.6. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu sau khi được làm sạch, được nhập bằng phần 
mềm EpiData 3.1, xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. 
Phân nhóm nhu cầu chăm sóc tại nhà về thể chất, 
về tinh thần hoặc về xã hội cao khi tổng điểm > 2/3 
tổng số điểm của mỗi loại nhu cầu. Phân nhóm nhu 
cầu chăm sóc tại nhà cao khi tổng điểm > 36 điểm.
3. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam 108 68,8
Nữ 49 31,2
Nhóm tuổi
Dưới 60 35 22,3
Từ 60 trở lên 122 77,7
Tuổi trung bình (năm)
68,32 (SD = 12,69)
Min: 38 Max: 90
Trình độ học vấn
Mù chữ 2 1,3
Tiểu học 35 22,3
THCS 33 21,0
THPT 64 40,8
Trên THPT 23 14,6
Tham gia BHYT
Có 157 100,0
Không 0 0,0
21
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
Nghề nghiệp hiện tại
Nghề nghiệp có thu 
nhập
15 9,6
Hưu trí 27 17,2
Không có thu nhập 115 73,2
Cơ cấu hộ gia đình
Sống một mình 1 0,6
Sống cùng người thân 156 99,4
Kinh tế hộ gia đình
Nghèo – Cận nghèo 7 4,5
Trung bình trở lên 150 95,5
Trong tổng số 157 ĐTNC khảo sát thì nam giới gấp đôi nữ giới, chiếm tỷ lệ 68,8%. Nhóm tuổi trên 60 chiếm 
chủ yếu (77,7%). Nhóm ĐTNC có trình độ học vấn THPT chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là Tiểu học và THCS 
với tỷ lệ 40,8%; 22,3% và 21,0% theo thứ tự. Tất cả ĐTNC đều tham gia BHYT. Nhóm ĐTNC không có thu nhập 
chiếm tỷ lệ cao nhất với 73,2% và các đối tượng hiện sống cùng người thân (99,4%). Hầu hết hộ gia đình ĐTNC 
có kinh tế thuộc mức trung bình trở lên (95,5%), tỷ lệ nhỏ thuộc cận nghèo và nghèo (4,5%).
Bảng 2. Đặc điểm bệnh tật của đối tượng nghiên cứu (n=157)
Đặc điểm bệnh tật Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Thể đột quỵ
Nhồi máu não 120 76,5
Xuất huyết não 28 17,8
Không xác định 9 5,7
Thời gian mắc đột quỵ
< 1 năm 2 1,3
1 năm - < 2 năm 83 52,9
≥ 2 năm 72 45,8
Bệnh mạn tính
Không 67 42,7
Có 90 57,3
Thể đột quỵ do nhồi máu não chiếm tỷ lệ cao nhất là 76,5%, tiếp theo là thể xuất huyết não với tỷ lệ 
17,8%. Hầu hết ĐTNC mắc đột quỵ từ 1 năm trở lên, chiếm 98,7%. Hơn một nửa số ĐTNC mắc ít nhất 1 bệnh 
mạn tính (57,3%). 
Bảng 3. Đánh giá tình trạng vận động ĐTNC theo chỉ số Barthel
Tình trạng vận động Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Phụ thuộc hoàn toàn 54 34,4
Phụ thuộc một phần 79 50,3
Độc lập 24 15,3
Tổng 157 100,0
Tình trạng vận động của ĐTNC ở mức độ phụ thuộc một phần chiếm tỉ lệ cao nhất (50,3%) trong khi tình 
trạng vận động độc lập chỉ chiếm 15,3%.
Bảng 4. Tình hình chăm sóc hiện tại và sự sẵn sàng chi trả cho dịch vụ chăm sóc tại nhà (n=157)
Tình hình chăm sóc hiện tại Số lượng (n) Tỷ lệ (%)
Người chăm sóc
Tự chăm sóc 10 6,4
Người thân 136 86,6
Người thuê 11 7,0
Người chăm sóc đào tạo 
kỹ năng
Không 150 95,5
Có 7 4,5
Tình hình chăm sóc chung
Tốt 11 7,0
Không tốt 146 93,0
22
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
Sẵn sàng chi trả
Có 80 51
Không 77 49
Người chăm sóc chính cho ĐTNC chủ yếu là người thân chiếm 86,6% và hầu hết không được đào tạo 
chiếm 95,5%, chỉ có 4,5% người chăm sóc được đào tạo. Đa số ĐTNC cho biết họ không được chăm sóc tốt 
chiếm 93,0%. Có 51% số ĐTNC sẵn sàng chi trả cho dịch vụ điều dưỡng tại nhà.
Bảng 5. Nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà của đối tượng nghiên cứu (n=157)
Nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà Cao n (%) Thấp n (%)
Nhu cầu 
chăm sóc về 
thể chất
Phục hồi chức năng 
(các bài tập vật lý trị liệu)
133 (84,8) 24 (15,3)
Sinh hoạt hàng ngày (đi lại, ăn uống, mặc quần áo, 
tắm, đi vệ sinh) 103 (65,6) 54 (34,4)
Ngôn ngữ (nói, đọc, viết) 120 (76,4) 37 ( 23,6)
Chăm sóc sức khoẻ 
(theo dõi, điều trị khi có bệnh) 132 (84) 25(16)
Nhu cầu về thể chất 132 (84,1) 25 (15,9)
Nhu cầu 
chăm sóc về 
tinh thần
Được cảm thông, chia sẻ 126 (80,3) 31 (19,7)
Được trò chuyện người thân, con cháu 82 (52,2) 75 (47,8)
Được tôn trọng 101 (64,3) 56 (35,7)
Được quan tâm, chăm sóc, động viên 113 (72,0) 44 (28,0)
Có bạn bè trong thôn, xóm 133 (84,7) 24 (15,3)
Nhu cầu về tinh thần 125 (79,6) 32 (20,4)
Nhu cầu 
chăm sóc về 
xã hội
Được tham gia các hoạt động xã hội 117 (74,5) 40 (25,5)
Niềm tin (tôn giáo, tín ngưỡng) 106 (67,5) 51 (32,5)
Giải trí (xem tivi, nghe đài) 117 (74,5) 40 (25,5)
Nhu cầu về xã hội 129 (82,2) 28 (17,8)
Nhu cầu chung sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà 128 (81,5) 29 (18,5)
Có 81,5% ĐTNC có nhu cầu cao sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà về cả ba lĩnh vực thể chất, tinh thần và 
xã hội. Trong đó, 84,1% đối tượng có nhu cầu chăm sóc cao về thể chất, 79,6% ĐTNC có nhu cầu chăm sóc 
cao về tinh thần và nhu cầu cao về xã hội là 82,2%.
Bảng 6. Mô hình hồi quy đa biến logistic kiểm định các yếu tố liên quan đến 
nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà
Biến độc lập OR KTC 95% P
Bệnh mạn tính
Có 3,958 1,06-14,80 0,041
Không 1 1
Tình trạng vận 
động
Phụ thuộc hoàn toàn 19,25 2,38 - 156,10 0,006
Phụ thuộc một phần 11,13 2,01 -,61,56 0,006
Độc lập 1 1
Sẵn sàng chi trả
Có 26,25 4,63 - 148,92 0,000
Không 1 1
Tình trạng vận động, bệnh mạn tính và sự sẵn sàng chi trả là các yếu tố có mối liên quan đến nhu cầu sử 
dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà của ĐTNC (p<0,05). Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống 
kê giữa giới tính, trình độ học vấn, tình trạng gia đình, tình hình kinh tế gia đình, thể đột quỵ và tình hình 
chăm sóc với nhu cầu chăm sóc tại nhà.
23
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
4. BÀN LUẬN
Ở bảng 2, tình trạng vận động của ĐTNC theo 
chỉ số Barthel ở nhóm phụ thuộc một phần chiếm tỷ 
lệ cao nhất với 50,3%, phụ thuộc hoàn toàn chiếm 
34,4% cho thấy chức năng vận động độc lập của ĐTNC 
còn kém, phải phụ thuộc khá nhiều vào người thân và 
dụng cụ trợ giúp. Người chăm sóc chính cho các bệnh 
nhân sau đột quỵ chủ yếu là người thân chiếm 86,6% 
và hầu hết không được đào tạo, chỉ có 4,5% người 
chăm sóc được đào tạo. Điều này cho thấy ở Việt 
Nam mô hình cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tại 
nhà chưa được sử dụng phổ biến, đa phần sự chăm 
sóc người bệnh đều từ người thân trong gia đình, 
đa số họ chưa được đào tạo về kiến thức và kỹ năng 
chăm sóc người bệnh, do vậy mà có đến 93,0% đối 
tượng cho rằng họ không được chăm sóc tốt. Điều 
này sẽ ảnh hưởng đến không chỉ sức khoẻ thể chất, 
tinh thần mà về lâu dài sẽ tác động đến kết quả điều 
trị và khả năng hồi phục của bệnh nhân.
Trong 157 đối tượng khảo sát, 81,5% ĐTNC có 
nhu cầu chăm sóc tại nhà chung cao. Trong nghiên 
cứu của Nguyễn Thị Như Mai và Trần Thị Thanh 
Hương, tỷ lệ cao đối tượng có nhu cầu chung phục 
hồi chức năng với 89,6% thì kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi phù hợp [8]. So sánh với nghiên cứu của 
Lê Thị Thảo tại quận Ba Đình năm 2013, tỷ lệ người 
có nhu cầu chung phục hồi chức năng là 80,4%, thì 
nghiên cứu của chúng tôi cũng khá tương đồng [10]. 
Nhu cầu chăm sóc tại nhà về thể chất cao tỷ lệ 
chiểm 84,1%. Trong đó, nhu cầu cao về PHCN là 
84,5%; nhu cầu chăm sóc sức khỏe là 84%; nhu cầu 
ngôn ngữ là 76,4% và sinh hoạt hàng ngày là 65,6%. 
Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi tương tự 
nghiên cứu của Nguyễn Thị Như Mai và Trần Thị 
Thanh Hương về nhu cầu PHCN sinh hoạt hằng ngày 
(67,7%), nhưng lại cao hơn về nhu cầu PHCN giao 
tiếp (55,5%) và nhu cầu PHCN vận động (59,1%) [8]. 
Cũng theo tác giả này, tỷ lệ đối tượng có nhu cầu 
chăm sóc về cơ xương khớp là 92,5% và ít nhất là 
nhu cầu chăm sóc về đại tiện (18,9%), các nhu cầu 
chăm sóc khác là: 56,1% nhu cầu chăm sóc về tư thế 
đúng, 36,0% số bệnh nhân cần chăm sóc về mặt nuôi 
dưỡng, 48,8% có nhu cầu chăm sóc loét hoặc phòng 
chống loét, 36,6% về tiết niệu, 53,6% về hô hấp [8].
Nhu cầu cao chăm sóc tại nhà về tinh thần của 
ĐTNC chiếm tỷ lệ khá cao (79,6%). Trong đó, nhiều 
nhất là nhu cầu được có bạn bè (84,7%) tiếp theo 
là được cảm thông, chia sẻ (80,3%); được quan 
tâm, chăm sóc, động viên (72,0%); được tôn trọng 
(64,3%); được trò chuyện với người thân, con cháu 
(52,2%). Những nhu cầu trên là những nhu cầu cơ 
bản chăm sóc tại nhà về tinh thần cho ĐTNC. Bởi 
ĐTNC thường ít nhiều có rối loạn về tâm lý, hoặc có 
những ưu tư, phiền muộn về tình trạng sức khỏe 
của bản thân. Những tác động tâm lý này có thể bắt 
nguồn từ sự thay đổi đột ngột từ một cá nhân có 
đầy đủ chức năng sang một người phụ thuộc vào 
người khác trong các hoạt động của cuộc sống hàng 
ngày. Mất việc làm và các vấn đề tài chính cũng làm 
tăng thêm gánh nặng tâm lý cho bệnh nhân. ĐTNC 
tuổi càng cao thì sức khỏe lại càng giảm sút, đặc biệt 
dưới ảnh hưởng của bệnh mạn tính nên đối tượng 
dễ tự ái, tủi thân hơn. Ngoài ra, những khuyết tật 
chức năng vận động ngăn cản họ thực hiện các hoạt 
động sinh hoạt hàng ngày và trở nên phụ thuộc vào 
người chăm sóc, gây ra sự đau khổ về tinh thần to 
lớn trong họ. Chính vì vậy, chăm sóc về tinh thần là 
rất cần thiết và cần có sự phối hợp, hỗ trợ từ con 
cháu, người thân và những người xung quanh.
Nhu cầu chăm sóc tại nhà về xã hội cao chiếm tỷ 
lệ là 82,2%. Trong đó, nhu cầu tham gia hoạt động 
xã hội, giải trí, niềm tin lần lượt là 74,5%; 74,5%; 
67,5%. Trong nghiên cứu của Lloyd, Jacob, Ashna 
Maria Pinto, Shoba Nair và Subhash Tarey chỉ ra rằng 
sự đau khổ hiện hữu và nhu cầu niềm tin, tâm linh 
được nhìn thấy ở những bệnh nhân sau đột quỵ suy 
nhược và thường không được giải quyết [11]. Bệnh 
nhân sau đột quỵ luôn cần có một tâm hồn thanh 
thản, cần được sống trong niềm vui, hạnh phúc bên 
gia đình và hài hòa trong các quan hệ xã hội. Để có 
được điều này, các đối tượng nên có cơ hội tham 
gia các hoạt động xã hội như tham gia vào phong 
trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, các lễ 
hội truyền thống, các sự kiện giao lưu, sinh hoạt văn 
hóa cộng đồng và các hoạt động chính trị - xã hội 
khác. Giải quyết các nhu cầu này là một trong những 
lĩnh vực quan trọng của chăm sóc và sẽ giúp giảm 
bớt những phiền muộn về tinh thần mà nhiều bệnh 
nhân có thể gặp phải.
Mô hình hồi quy logistic đa biến ở bảng 5 cho 
thấy các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với nhu 
cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà cao (p<0,05). 
Tình trạng vận động phụ thuộc hoàn toàn với 
OR=19,25; 95% CI: (2,38-156,09) và tình trạng vận 
động phụ thuộc một phần OR=11,13; 95% CI: (2,01-
61,56) so với tình trạng vận động độc lập. Sự khác 
biệt này có thể là do những đối tượng có tình trạng 
vận động phụ thuộc hoàn toàn và một phần có di 
chứng tàn tật nặng nề hơn, gặp khó khăn nhiều hơn 
trong sinh hoạt hằng ngày, tình trạng sức khỏe yếu 
hơn và khả năng tự chăm sóc hạn chế hơn những 
đối tượng có tình trạng vận động độc lập. Đồng thời, 
họ lo lắng về tình trạng bệnh của bản thân, họ mong 
muốn được chia sẻ, vì vậy cần được chăm sóc và 
có nhu cầu chăm sóc tại nhà cao hơn các đối tượng 
khác. Nhóm đối tượng sẵn sàng chi trả cho dịch 
24
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
vụ chăm sóc tại nhà với OR=26,25; 95% CI: (4,63-
148,92) so với nhóm không sẵn sàng chi trả; Có lẽ 
do những đối tượng có điều kiện kinh tế sẵn sàng 
sử dụng tiền để làm cho cuộc sống của họ tốt hơn. 
Nhóm đối tượng mắc bệnh mạn tính với OR=3,96; 
95% CI: (1,06-14,80) so với nhóm không mắc bệnh. 
Điều này có thể do những người bệnh sau đột quỵ 
mắc bệnh mạn tính đòi hỏi một chế độ chăm sóc 
không chỉ khắc phục những biến chứng sau đột quỵ 
mà còn phải phù hợp với bệnh mạn tính họ đang 
mắc phải. Trong mô hình hồi quy logistic đa biến này, 
nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa 
thống kê giữa giới tính, trình độ học vấn, tình trạng 
gia đình, tình hình kinh tế gia đình, thể đột quỵ và 
tình hình chăm sóc với nhu cầu chăm sóc tại nhà.
5. KẾT LUẬN
Qua khảo sát 157 bệnh nhân sau đột quỵ tại 
thành phố Huế cho thấy nhu cầu cao sử dụng dịch 
vụ chăm sóc tại nhà là cao (81,5%), trong đó nhu cầu 
chăm sóc tại nhà về thể chất là 84,1%, về tinh thần 
79,6% và về xã hội là 82,2%. Các yếu tố tình trạng 
vận động, bệnh mạn tính và việc sẵn sàng chi trả cho 
dịch vụ có liên quan đến nhu cầu chăm sóc tại nhà 
của bệnh nhân sau đột quỵ. Ngành y tế cần có những 
kế hoạch thiết thực để làm cho những dịch vụ chăm 
sóc trở nên chuyên nghiệp và sẵn có đáp ứng nhu 
cầu người bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Khánh (2010), Giáo trình sau đại học chuyên 
ngành nội thần kinh, Nhà xuất bản Đại học Huế, tr. 11-16 
và tr. 206 - 254.
2. Feigin V. L., Norrving B., Mensah G. A. (2017), 
“Global Burden of Stroke”, Circ Res, 120(3), pp.439-448.
3. Mira Katan, Andreas Luft (2018), Global Burden of 
Stroke, Thieme Medical Publishers 333 Seventh Avenue, 
New York, NY 10001, USA.
4. Cooper University Health care (2018), “Complications 
After Stroke”. Available from: https://www.cooperhealth.
org/services/stroke-program/complications-after-stroke, 
accessed 15/01/2019.
5. Cadilhac D.A., R. Carter, A.G. Thrift, et al. (2009), 
“Estimating the Long-Term Costs Of Ischemic and 
Hemorrhagic Stroke for Australia New Evidence Derived 
From the North East Melbourne Stroke Incidence Study 
(NEMESIS)”, Stroke, 40 (3), pp. 915-921.
6. Trần Văn Chương (2004), “Kết quả phục hồi tại bệnh 
viện khả năng ngồi, đứng, đi của bệnh nhân liệt nửa người 
do TBMMN”, Tạp chí Y học thực hành, số 8, tr 9.
7. Nguyễn Văn Đăng (2007), Thực hành thần kinh các 
bệnh và hội chứng thường gặp, NXB y học, tr 569-610.
8. Nguyễn Thị Như Mai, TS. Trần Thị Thanh Hương 
(2014), “Nhu cầu chăm sóc và phục hồi chức năng của 
bệnh nhân tai biến mạch máu não khi xuất viện tại Bệnh 
viện Lão khoa Trung ương”, Kỷ yếu Công trình khoa học 
2014 phần II, Đại học Thăng Long.
9. Istas A. THE BARTHEL INDEX. 2. (
strokecenter.org/wp-content/uploads/2011/08 /barthel.
pdf).
10. Lê Thị Thảo, Nghiên cứu nhu cầu phục hồi chức 
năng và một số yếu tố liên quan đến mức độ độc lập trong 
sinh hoạt hàng ngày của người bệnh sau tai biến mạch 
máu não tại cộng đồng quận Ba Đình, năm 2003, Luận văn 
thạc sỹ y tế công cộng, Đại học Y tế công cộng.
11. Lloyd, Jacob, Ashna Maria Pinto, Shoba Nair, và 
Subhash Tarey (2019), “A Qualitative Study on Palliative 
Needs of Stroke Patients in an Indian Tertiary Care Setting 
- Doctors’ Perspective”, Indian Journal of Palliative Care 
25, p.h 1: 84–91.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhu_cau_su_dung_dich_vu_cham_soc_tai_nha_cua_benh_nhan_sau_d.pdf