Nhu cầu xây dựng chế định hủy việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam

Thứ nhất, liên quan đến các căn cứ huỷ việc nuôi con nuôi. Về lý thuyết, hủy việc nuôi con nuôi là hậu quả của sự vô hiệu của việc nuôi con nuôi. Bởi vậy, hủy việc nuôi con nuôi nếu có một trong các căn cứ như sau: - Có sự vi phạm một trong những điều kiện đối với người nhận con nuôi. Cụ thể: người nhận con nuôi không có năng lực hành i dân sự; người nhận con nuôi chênh lệch so với con nuôi dưới 20 tuổi; người nhận con nuôi không có điều kiện kinh tế, sức khoẻ, chỗ ở để đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. - Có sự vi phạm điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. Chẳng hạn, người được nhận làm con nuôi trên 16 tuổi nhưng không thuộc trường hợp được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận làm con nuôi; đã được nhận làm con nuôi và quan hệ nuôi con nuôi này chưa chấm dứt. - Không có sự đồng ý của các bên về việc cho nhận nuôi con nuôi. - Vi phạm các hành vi cấm tại Điều 13 Luật Nuôi con nuôi. - Có sự vi phạm trình tự, thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi. Quan hệ nuôi con nuôi có tính chất đặc biệt nên không phải mọi trường hợp vô hiệu đều dẫn tới hậu quả huỷ việc nuôi con nuôi. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự của Nhật Bản quy định: người nhận con nuôi phải là người chưa thành niên. Nếu người nhận con nuôi chưa thành niên thì có thể yêu cầu Toà án huỷ việc nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi vẫn được công nhận nếu người nhận con nuôi đã qua sáu tháng kể từ ngày thành niên hoặc người con nuôi chấp nhận việc nuôi con nuôi20. Như vậy, việc tuyên bố hủy việc nuôi con nuôi cần được giải quyết một cách mềm mỏng, linh hoạt để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu xây dựng chế định hủy việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 5(405) - T3/202018 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 1. Bản chất pháp lý của nuôi con nuôi Để hiểu rõ các vấn đề liên quan đến hủy việc nuôi con nuôi, phải xuất phát từ tính chất pháp lý của nuôi con nuôi. Theo quan điểm của chúng tôi, nuôi con nuôi là một hành vi pháp lý. Về lý thuyết, hành vi pháp lý là sự biểu thị ý chí của con người nhằm tạo ra những hệ quả pháp lý, còn sự kiện pháp lý là những hiện tượng mà quy phạm pháp luật gắn cho nó những hệ quả pháp lý nằm ngoài ý chí của các bên liên quan1. Nuôi con nuôi là một 1 Jacques GHESTIN, Gilles GOUBEAUX et Muriel FABRE-MAGNAN, Traité de droit civil - Introduction générale, Téd., Paris, L.G.D.J., 1994, tr.137; Nicole CATALA, La nature juridique du payment Paris, L.G.D.J., 1961, tr.26; Gérard CORNU, Vocabulaire juridique, 2 éd., Paris, PUF, 1990, Các từ “Acte”, “fait” et “volonté”. nhu cầu XÂy dỰng chẾ đỊnh hủy việc nuôi cOn nuôi TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM Ngô Thanh Hương* * TS. Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Tóm tắt: Hủy việc nuôi con nuôi làm quan hệ nuôi con nuôi không được tiếp tục duy trì. Tuy nhiên, khác với các căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi, hủy việc nuôi con nuôi được áp dụng khi việc nuôi con nuôi bị vô hiệu. Tức là, việc nuôi con nuôi được xác định là bất hợp pháp và không có giá trị pháp lý ngay từ khi xác lập. Dưới góc độ lịch sử và luật so sánh, có thể thấy hủy việc nuôi con nuôi đã được ghi nhận. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam lại không quy định về hủy việc nuôi con nuôi nếu vi phạm các điều kiện luật định. Do đó, bài viết tập trung nghiên cứu bản chất pháp lý, phân tích nguyên lý của hủy việc nuôi con nuôi; từ đó làm sáng tỏ nhu cầu xây dựng chế định hủy việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị. Abstract: Adoption cancelation leads to the adoption relationship is not maintained. However, unlike the legal ground for adoption termination, the adoption cancellation is applied once the adoption is concluded as invalid. That is, the adoption is determined to be illegal and has no legal validity from the time of establishment. From historical perspective and comparative law, it can be undestood that cancellation of adoption has been recorded. However, the Vietnamese law does not provide anyprovisions on cancellation of adoption in case of legal violations. This article is focused on discussions on the legal nature, analysis of the principle of adoption cancellation; thereby provides clear need to develop legal provisions on adoption cancellation in the Vietnamese law and as well as recommendations for related issues. Thông tin bài viết: Từ khóa: Hủy nuôi con nuôi, chấm dứt nuôi con nuôi. Lịch sử bài viết: Nhận bài : 10/02/2020 Biên tập : 22/02/2020 Duyệt bài : 26/02/2020 Article Infomation: Keywords: Adoption cancelation, adoption termination Article History: Received : 10 Feb. 2020 Edited : 22 Feb. 2020 Approved : 26 Feb. 2020 19Số 5(405) - T3/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT hành vi pháp lý vì nó xuất phát trực tiếp từ ý chí của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi. Trong trường hợp, con nuôi chưa thành niên thì nhận con nuôi là một hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên, để đảm bảo lợi ích của người được nhận làm con nuôi, khi chưa đủ năng lực hành vi dân sự để bày tỏ ý chí của mình thì buộc phải có sự đồng ý của người đại diện của người được nhận làm con nuôi. Ở đây, sự đồng ý của người đại diện của người được nhận làm con nuôi không có tính chất như trong quan hệ hợp đồng tặng cho tài sản. Bởi lẽ, con nuôi không thể là đối tượng được tặng cho và mục đích của sự đồng ý này không vì lợi ích của người nhận con nuôi mà phải xuất phát từ lợi ích của người được nhận làm con nuôi. Ngược lại, nếu người được nhận làm con nuôi đã thành niên thì việc nhận con nuôi trong trường hợp này có bản chất là sự thoả thuận (khế ước) của các bên trong việc xác lập quan hệ cha mẹ con. Sự thoả thuận này hướng tới sự ràng buộc các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con giữa người được nhận làm con nuôi với người nhận con nuôi, những người không có mối quan hệ huyết thống với nhau như cha mẹ con ruột, nhưng người nhận con nuôi được xem như cha mẹ của người được nhận nuôi dù không sinh ra người được nhận nuôi; người được nhận nuôi, về phần mình, coi người nhận con nuôi như cha mẹ ruột2. Như vậy, việc nuôi con nuôi chỉ có thể được xác lập do sự bày tỏ ý chí của người nhận nuôi và người được nuôi hoặc người đại diện của người được nuôi trong khuôn khổ thủ tục nuôi con nuôi tiến hành dưới sự giám sát của Nhà nước3. Nuôi con nuôi là một trong những nền tảng quan trọng của phát triển xã hội. Vì vậy, quan hệ nuôi con nuôi luôn được điều chỉnh bởi các quy định chặt chẽ. Các bên trong quan hệ nuôi con nuôi buộc phải tuân thủ đầy đủ các quy định này. Tuy nhiên, không ai có thể ép buộc một người tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi nếu điều này không xuất phát từ ý chí tự nguyện của người đó. Mặt khác, nếu cho rằng nhận con nuôi không phải là một hành vi pháp lý vì các bên trong quan hệ nuôi con nuôi không thể thoả thuận được những vấn đề liên quan đến nhân thân thì đây là một quan niệm không phù hợp. Bởi lẽ, quan hệ nuôi con nuôi không chỉ làm phát sinh các vấn đề liên quan đến nhân thân mà còn bao gồm các quan hệ tài sản. Để nhận định bản chất pháp lý của một quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ nuôi con nuôi nói riêng phải xuất phát từ nguồn gốc hình thành của nó. Nuôi con nuôi bắt nguồn từ hành vi nhận con nuôi, nếu không có hành vi này thì không thể xuất hiện quan hệ nuôi con nuôi. Điều này có nghĩa, quan hệ nuôi con nuôi được xác lập khi và chỉ khi có sự tuyên bố ý chí về việc ràng buộc các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con giữa các bên trong quan hệ nuôi con nuôi thông qua việc thực hiện các thủ tục nuôi con nuôi và được Nhà nước công nhận. 2. Nguyên lý của hủy việc nuôi con nuôi Nguyên lý của hủy việc nuôi con nuôi bắt nguồn từ lý thuyết về hành vi pháp lý vì nhận con nuôi là một hành vi pháp lý. Theo lý thuyết này thì cần phân tách hai vấn đề: Một là, sự vi phạm điều kiện xác lập hiệu lực của hành vi pháp lý dẫn tới tuyên bố hành vi pháp lý vô hiệu và áp dụng chế tài hủy. Hai là, xử lý vi phạm nghiêm trọng hành vi pháp lý có hậu quả là chấm dứt hành vi pháp lý. Như vậy, nếu có sự vi phạm quy định của pháp luật về nuôi con nuôi làm cho việc nuôi con nuôi bị vô hiệu thì hậu quả của nó là hủy việc nuôi con nuôi. Áp dụng lý thuyết về hành vi pháp lý, việc nuôi con nuôi bị vô hiệu khi xảy ra một trong các vi phạm về: (i) sự ưng thuận trong 2 Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb. Trẻ thành phố Hồ Chí Minh, tr.197. 3 Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tlđd, tr.197. Số 5(405) - T3/202020 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT việc cho nhận con nuôi; (ii) năng lực của chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi; (iii) hành vi nhận con nuôi là trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc (iv) vi phạm điều kiện về hình thức của việc nuôi con nuôi. Thứ nhất, việc nuôi con nuôi phải được xác lập trên cơ sở sự ưng thuận của đương sự. Theo đó, sự đồng ý của người nhận con nuôi, người được nhận làm con nuôi hoặc người đại diện của người con nuôi là điều kiện cần thiết để quan hệ nuôi con nuôi hợp pháp. Mặt khác, sự ưng thuận đó phải là ưng thuận một cách sáng suốt, của người đủ minh mẫn và không bị bất kỳ một áp lực nào. Chẳng hạn, người vợ có con riêng trước khi kết hôn đã giấu chồng về mối quan hệ thật giữa mình và con riêng, đồng thời nói dối về lai lịch của đứa trẻ để người chồng nhận con riêng của mình làm con nuôi thì trường hợp này không thể coi người chồng đã có sự đồng ý sáng suốt, minh mẫn. Hoặc người nhận con nuôi đã bị lừa dối để nhận một đứa trẻ khuyết tật làm con nuôi thì cũng không thể nhận định họ có sự đồng ý hoàn toàn tự do... Mặt khác, ở một số nước như Đức, Nhật Bản, nếu một người đã có vợ, chồng muốn nhận con nuôi thì sự ưng thuận của họ chưa đủ để xác lập việc nuôi con nuôi mà buộc phải có sự đồng ý của người chồng, người vợ còn lại của họ4. Có thể thấy, thông thường sự ưng thuận bị khiếm khuyết là sự ưng thuận do cưỡng ép, nhầm lẫn hoặc lừa dối. Tuy nhiên, do tính chất quan trọng của quan hệ nuôi con nuôi nên việc xác định các trường hợp cưỡng ép, nhầm lẫn hoặc lừa dối là căn cứ hủy bỏ việc nuôi con nuôi thường được suy xét một cách cẩn trọng. Thứ hai, năng lực của chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi. Để việc nuôi con nuôi có hiệu lực thì người nhận con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Về nguyên tắc, người thành niên là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Tuy nhiên, quan hệ nuôi con nuôi thực chất là quan hệ cha mẹ con nhân tạo nên thông thường ngoài quy định về năng lực hành vi dân sự thì sự chênh lệch về tuổi so với con nuôi cũng là yếu tố bắt buộc. Quy định về năng lực hành vi dân sự và chênh lệch tuổi là cần thiết nhằm tạo ra sự khác biệt thế hệ giữa người nhận con nuôi và người con nuôi, từ đó giúp ích cho việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Theo Luật La Mã thời kỳ hoàng đế Justinian, ngoài việc đạt độ tuổi tối thiểu, người nhận con nuôi còn phải lớn hơn người được nhận nuôi 18 tuổi5. Mặt khác, đối với người con nuôi thì năng lực hành vi dân sự không phải là điều kiện bắt buộc nhưng tuỳ theo từng nước mà có sự giới hạn về độ tuổi được nhận làm con nuôi. Chẳng hạn, pháp luật Việt Nam quy định người được nhận con nuôi phải là trẻ em, dưới 16 tuổi6. Ngược lại, theo pháp luật Nhật Bản người được nhận làm con nuôi có thể là người thành niên nhưng ông bà, tổ tiên hoặc người đã lớn tuổi không thể trở thành con nuôi7. Thứ ba, hủy việc nuôi con nuôi xảy ra khi việc nuôi con nuôi trái pháp luật và đạo đức xã hội. Nói cách khác, hành vi nhận con nuôi không được vi phạm các điều cấm của luật, không trái với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục. Thứ tư, vi phạm điều kiện hình thức của việc nuôi con nuôi là căn cứ huỷ việc nuôi con nuôi. Hành vi nhận con nuôi là hành vi có tính chất trọng thức nên việc nuôi con nuôi chỉ có hiệu lực khi được Nhà nước công nhận, phê chuẩn. Điều đó có nghĩa, phải đảm bảo trình tự, thủ tục đăng ký theo quy định 4 Xem khoản 1 Điều 1749 Bộ luật Dân sự Đức và Điều 795 Bộ luật Dân sự Nhật Bản. 5 Robert Morris, Adoption in Japan, The Yale Law Journal, Vol. 4, No. 4 (Mar., 1895), pp.143-149 published by: The Yale Law Journal Company, Inc.. 6 Xem khoản 1 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 7 Xem Điều 793 Bộ luật Dân sự Nhật Bản. 21Số 5(405) - T3/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT của pháp luật. Thông thường, hình thức công nhận có thể được thực hiện bằng con đường hành chính hoặc tư pháp. Tuy nhiên, dù cho việc nuôi con nuôi do Toà án công nhận thì quyết định công nhận này vẫn có thể bị hủy nếu vi phạm các điều kiện có hiệu lực của việc nuôi con nuôi mà pháp luật quy định. Nguyên nhân vì, bản chất quyết định phê chuẩn nuôi con nuôi của Toà án không có tính chất xử đoán vụ kiện như các bản án thông thường mà là hành vi có tính chất hành chính, không có không tính cách tư pháp và có mục đích chấp nhận hiệu lực của việc nuôi con nuôi8. Hiện nay, pháp luật Nhật Bản quy định việc nuôi con nuôi phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền9. Ngược lại, ở Anh thì Toà án là cơ quan ban hành lệnh xác nhận việc nuôi con nuôi10. Như vậy, khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi, các bên buộc phải tuân thủ các quy định về điều kiện có hiệu lực của việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp dù không đáp ứng được các yêu cầu do luật định, việc nuôi con nuôi vẫn có thể được xác lập nếu không có ai phản đối và cơ quan có thẩm quyền không biết về sự vi phạm. Nhưng tại thời điểm xác lập, hành vi nhận con nuôi đã bị vô hiệu và hậu quả là hủy việc nuôi con nuôi. Có thể thấy, hủy việc nuôi con nuôi và chấm dứt nuôi con nuôi đều làm quan hệ nuôi con nuôi không thể tiếp tục được duy trì, bị chấm dứt. Tuy nhiên, hủy việc nuôi con nuôi là hệ quả của việc nuôi con nuôi bị vô hiệu. Trái lại, nếu việc nuôi con nuôi có hiệu lực và có sự vi phạm nghiêm trọng đến quan hệ nuôi con nuôi (ví dụ: một trong các bên hoặc cả hai bên trong quan hệ nuôi con nuôi có hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, danh dự của bên còn lại) thì việc xử lý vi phạm này dẫn đến hậu quả là chấm dứt việc nuôi con nuôi. Mặt khác, bản chất của hủy việc nuôi con nuôi đồng nghĩa với việc quan hệ nuôi con nuôi đó không có hiệu lực gì trong cả quá khứ và tương lai; giữa người nhận con nuôi và người con nuôi không được công nhận có quan hệ cha mẹ con. Ngược lại, chấm dứt việc nuôi con nuôi chỉ làm chất dứt quan hệ cha mẹ con giữa người nhận con nuôi và người con nuôi kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác, người nhận con nuôi và người con nuôi vẫn được công nhận là cha mẹ và con từ thời điểm xác lập đến thời điểm chấm dứt việc nuôi con nuôi. 3. Nhu cầu xây dựng chế định hủy việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam Nhận con nuôi là một hành vi pháp lý nên việc nuôi con nuôi buộc phải đảm bảo các điều kiện xác lập thì mới có hiệu lực pháp luật. Nếu các bên trong quan hệ nuôi con nuôi không tuân thủ các quy định về nuôi con nuôi thì việc nuôi con nuôi bị vô hiệu. Và chế tài đối với sự vô hiệu của việc nuôi con nuôi là hủy việc nuôi con nuôi. Đối chiếu với các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành có thể kết luận việc xây dựng chế định hủy việc nuôi con nuôi là cần thiết xét về cả lý luận và thực tiễn. Thứ nhất, pháp luật hiện hành chưa có quy định điều chỉnh đối với vấn đề nuôi con nuôi vô hiệu. Tức là, trường hợp có sự vi phạm các điều kiện mà pháp luật quy định khi xác lập việc nuôi con nuôi. Sự bất cập này ảnh hưởng tiêu cực đến tính nghiêm minh của việc thực hiện pháp luật nuôi con nuôi, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi và gây hệ luỵ xấu đối với xã hội. Theo Báo cáo tổng kết 05 năm (2003- 2008) thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi 8 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam Dân luật lược khảo, Quyển I-Gia đình, xuất bản Bộ Quốc gia Giáo dục, năm 1962, tr.319. 9 Xem Điều 800 Bộ luật Dân sự Nhật Bản. 10 Buckinghamshire County Council’s Adoption Agency, “Guide to Adoption”, tldd. Số 5(405) - T3/202022 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT của Bộ Tư pháp năm 200911, trong quá trình giải quyết việc cho, nhận con nuôi xảy ra nhiều hiện tượng hồ sơ đăng ký việc nuôi con nuôi không đầy đủ; nhiều trường hợp nhận con nuôi trên 9 tuổi nhưng không có chữ ký của trẻ vào tờ khai. Hoặc có trường hợp anh rể và chị gái nhận em gái (của vợ) làm con nuôi và mang họ của anh rể Từ thực trạng trên, một trong những điểm chú ý khi xây dựng Luật nuôi con nuôi năm 2010 là phải quy định chặt chẽ các điều kiện nuôi con nuôi. Theo tinh thần đó, pháp luật nuôi con nuôi hiện nay đã quy định rất nhiều các điều kiện nuôi con nuôi bao gồm các điều kiện về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sự tự nguyện, về trình tự, thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi... Cụ thể, theo Điều 21 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: việc nhận con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi. Nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại. Nếu cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ. Mặt khác, nếu trẻ em đủ từ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì phải có sự đồng ý của trẻ. Sự đồng ý này phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe doạ hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo các yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Hơn nữa, về phía người nhận con nuôi cũng phải thể hiện sự đồng ý, đặc biệt đối với trường hợp người đang có vợ, chồng thì không thể nhận con nuôi nếu người còn lại không cùng đồng ý cùng nhận đứa trẻ đó làm con nuôi của mình. Ngoài ra, để đủ điều kiện nhận con nuôi, người nhận con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự và chênh lệch so với con nuôi ít nhất từ 20 tuổi trở lên. Người nhận con nuôi phải là người có điều kiện kinh tế, sức khoẻ, chỗ ở và tư cách đạo đức tốt12. Một người không thể nhận con nuôi nếu thuộc một trong các trường hợp như: đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang chấp hành hình phạt tù hoặc chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh sự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em13. Đồng thời, người được nhận nuôi phải là trẻ em dưới 16 tuổi, ngoại trừ một số trường hợp có thể từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Việc đăng ký nuôi con nuôi phải đảm bảo đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục đăng ký nhận con nuôi.14 Như vậy, việc nuôi con nuôi chỉ có hiệu lực nếu đảm bảo các điều kiện nêu trên. Tuy nhiên, điểm bất hợp lý là cho đến hiện nay pháp luật nuôi con nuôi không có bất kỳ quy định liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi vô hiệu và hệ quả của nó, ngoại trừ quy định tại khoản 4, Điều 25 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi khi vi phạm vào các hành vi cấm tại Điều 13 bao gồm: (i) lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục, bắt cóc, mua bán trẻ em; 11 Báo cáo tổng kết 05 năm (2003-2008) thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi của Bộ Tư pháp năm 2009, đăng tải trên website: duthaoonline.quochoi.vn. 12 Xem khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010. 13 Xem khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi 2010. 14 Xem Điều 9 Luật Nuôi con nuôi 2010. 23Số 5(405) - T3/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT (ii) giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi; (iii) phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi; (iv) lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số; (v) lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước; (vi) ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi; (vii) lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Có thể khẳng định, không vi phạm các hành vi cấm tại Điều 13 chỉ là một trong số điều kiện có hiệu lực của việc nuôi con nuôi và quy định của pháp luật hiện nay là không bao quát, toàn diện nên có thể dẫn tới các quan điểm khác nhau khi giải quyết các tranh chấp phát sinh. Mặt khác, việc vi phạm các hành vi bị cấm được coi là căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi là không phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi. Thứ hai, về lý thuyết, sự vi phạm các điều kiện có hiệu lực của việc nuôi con nuôi dẫn đến hậu quả là hủy việc nuôi con nuôi. Nói cách khác, hủy việc nuôi con nuôi được áp dụng khi việc nuôi con nuôi vô hiệu. Theo lý thuyết về hành vi pháp lý, sự vô hiệu của việc nuôi con nuôi phải được xử lý bằng chế tài hủy việc nuôi con nuôi chứ không phải là chấm dứt việc nuôi con nuôi. Sự phân biệt giữa huỷ việc nuôi con nuôi và chấm dứt việc nuôi con nuôi có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ, hiệu lực của hủy việc nuôi con nuôi hồi tố đến thời điểm xác lập việc nuôi con nuôi. Quan hệ nuôi con nuôi không có giá trị pháp lý ngay kể từ khi xác lập. Ngược lại, chấm dứt việc nuôi con nuôi chỉ có hiệu lực từ ngày bản án có hiệu lực và các hiệu lực của nuôi con nuôi đã phát sinh trong quá khứ không bị hủy bỏ. Mặt khác, xét trong tương quan giữa các ngành luật trong hệ thống luật tư ở nước ta, Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có sự phân biệt rất rõ ràng giữa chế định “huỷ” và “chấm dứt”. Bằng chứng là, cả hai Bộ luật đã có sự phân tách vấn đề của lý thuyết về hành vi pháp lý về: điều kiện xác lập hiệu lực của hành vi pháp lý và xử lý vi phạm nghiêm trọng hành vi pháp lý đã có hiệu lực thông qua việc xây dựng các quy định pháp luật tương ứng. Cụ thể, Bộ luật Dân sự có sự phân biệt rạch ròi giữa vô hiệu hợp đồng (vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng) với chấm dứt hay huỷ bỏ hợp đồng (vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng). Và Luật Hôn nhân và gia đình quy định về huỷ kết hôn trái pháp luật (vi phạm điều kiện kết hôn) bên cạnh quy định về ly hôn (hậu quả của việc vi phạm các lỗi hôn nhân). Thiết nghĩ, nhận con nuôi cũng có bản chất là một hành vi pháp lý nên cần thiết phải xây dựng chế định huỷ việc nuôi con nuôi do việc nuôi con nuôi vô hiệu, để phân biệt với trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi nhằm có cái nhìn hoàn chỉnh về vấn đề nuôi con nuôi. Thứ ba, so sánh với pháp luật nước ngoài, pháp luật của Nhật Bản sự có sự phân biệt cụ thể giữa huỷ việc nuôi con nuôi và chấm dứt việc nuôi con nuôi. Điều 814 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định một trong các bên của quan hệ nhận con nuôi có thể khởi kiện để chấm dứt quan hệ nhận con nuôi trong những trường hợp sau đây: (i) nếu bên khởi kiện đã bị bên kia ngược đãi thậm tệ; (ii) nếu sau 3 năm hoặc lâu hơn mà vẫn không rõ người được nhận làm con nuôi đã chết hay còn đang sống; (iii) nếu có nguyên nhân dẫn đến việc tiếp tục quan hệ nhận con nuôi trở lên khó khăn. Đồng thời, Điều 739 và Điều 802 quy định: “việc nuôi con nuôi bị hủy khi không có ý chí chung của các bên trong việc nhận con nuôi, lỗi về lý lịch của người con nuôi hoặc vì các nguyên nhân khác; khi việc đăng ký nhận con nuôi không Số 5(405) - T3/202024 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT thực hiện theo đúng quy định15. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, việc nuôi con nuôi còn có thể bị hủy khi vi phạm các điều kiện nuôi con nuôi16. Mặt khác, dưới góc độ lịch sử, hủy việc nuôi con nuôi không phải là một chế định xa lạ. Chế định này đã được quy định trong các đạo luật trước đây. Chẳng hạn, Bộ Hoàng Việt Hộ Luật (còn gọi là Bộ Dân luật Trung) có đề cập đến huỷ việc nuôi con nuôi; nếu việc nuôi con nuôi nhằm mục đích bán con và hậu quả là người nhận con nuôi không thể yêu cầu cha mẹ đẻ của con nuôi hoàn trả lại những tài vật hay tiền đã nhận khi việc nuôi con nuôi bị huỷ trong quy định tại Điều 203 như sau: “từ này về sau, không ai được giả làm khế ước con nuôi mà kỳ thực đem bán con, sự bán con là một điều luật hình đã nghiêm cấm và định phạt. Và nếu trong lúc làm khế ước nuôi con nuôi, người đứng nuôi có cho cha mẹ đẻ đứa con nuôi những tài vật gì hay một số tiền gì, đến sau này, có tiêu hủy việc nuôi con nuôi người ấy, người đứng nuôi cũng không bao giờ được bắt cha mẹ đứa con nuôi điền hoàn”17. Suy luận ra, theo Bộ Dân luật Trung thì trong trường hợp này việc vi phạm điều cấm đã làm việc nuôi con nuôi bị vô hiệu và dẫn đến việc nuôi con nuôi bị huỷ. Ngoài ra, hủy việc nuôi con nuôi cũng được coi là giải pháp cho các trường hợp việc nuôi con nuôi bị vô hiệu theo Luật Gia đình (2-1-1959) dưới thời kỳ chính quyền Ngô Đình Diệm (Luật Gia đình). Theo đó, trong cuốn Việt Nam Dân luật lược khảo, Quyển I, tác giả Vũ Văn Mẫu khi nói về nuôi con nuôi theo Luật Gia đình có viết “sự chấm dứt nghĩa dưỡng có thể có hai hình thức: sự truất bãi và sự tiêu hủy”18. Điều này cũng được Nguyễn Quang Quýnh đề cập trong cuốn Dân luật, Quyển I như sau:“có hai cách để tiêu hủy hiệu quả của nghĩa dưỡng là tiêu hủy vì khế ước nghĩa dưỡng vô hiệu và truất bãi nghĩa dưỡng vì lý do ăn ở vô nghĩa”19. Có thể khẳng định, việc xây dựng chế định huỷ nuôi con nuôi là cần thiết. Chế định huỷ việc nuôi con nuôi giúp lấp đi sự thiếu hụt của pháp luật liên quan đến vấn đề vô hiệu của việc nuôi con nuôi. Nó hoàn toàn phù hợp với bản chất pháp lý của nuôi con nuôi và tạo nên đồng bộ giữa Luật Nuôi con nuôi với Bộ luật Dân sự và Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. 4. Một số kiến nghị Chế định nuôi con nuôi có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, để đảm bảo quan hệ nuôi con nuôi diễn ra lành mạnh, tự nguyện, bình đẳng, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nhận con nuôi, người con nuôi, đảm bảo không trái pháp luật và thuần phong mỹ tục, pháp luật Việt Nam cần bổ sung quy định liên quan đến hủy việc nuôi con nuôi. Theo quan điểm của chúng tôi, khi thiết kế quy định về hủy việc nuôi con nuôi cần áp dụng các lý thuyết về hành vi pháp lý và quan tâm tới những vấn đề sau: Thứ nhất, liên quan đến các căn cứ huỷ việc nuôi con nuôi. Về lý thuyết, hủy việc nuôi con nuôi là hậu quả của sự vô hiệu của việc nuôi con nuôi. Bởi vậy, hủy việc nuôi con nuôi nếu có một trong các căn cứ như sau: - Có sự vi phạm một trong những điều kiện đối với người nhận con nuôi. Cụ thể: người nhận con nuôi không có năng lực hành 15 Xem Điều 802 và Điều 739 Bộ luật Dân sự Nhật Bản. 16 Xem Điều 804 đến 806 Bộ luật Dân sự Nhật Bản. 17 Điều 203 Bộ Hoàng Việt Hộ Luật (Bộ Dân luật Trung). 18 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo, Quyển I – Gia đình, xuất bản Bộ Quốc gia Giáo dục, năm 1962, tr.316. 25Số 5(405) - T3/2020 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT vi dân sự; người nhận con nuôi chênh lệch so với con nuôi dưới 20 tuổi; người nhận con nuôi không có điều kiện kinh tế, sức khoẻ, chỗ ở để đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. - Có sự vi phạm điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. Chẳng hạn, người được nhận làm con nuôi trên 16 tuổi nhưng không thuộc trường hợp được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, dì, chú, bác, cậu ruột nhận làm con nuôi; đã được nhận làm con nuôi và quan hệ nuôi con nuôi này chưa chấm dứt. - Không có sự đồng ý của các bên về việc cho nhận nuôi con nuôi. - Vi phạm các hành vi cấm tại Điều 13 Luật Nuôi con nuôi. - Có sự vi phạm trình tự, thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi. Quan hệ nuôi con nuôi có tính chất đặc biệt nên không phải mọi trường hợp vô hiệu đều dẫn tới hậu quả huỷ việc nuôi con nuôi. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự của Nhật Bản quy định: người nhận con nuôi phải là người chưa thành niên. Nếu người nhận con nuôi chưa thành niên thì có thể yêu cầu Toà án huỷ việc nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi vẫn được công nhận nếu người nhận con nuôi đã qua sáu tháng kể từ ngày thành niên hoặc người con nuôi chấp nhận việc nuôi con nuôi20. Như vậy, việc tuyên bố hủy việc nuôi con nuôi cần được giải quyết một cách mềm mỏng, linh hoạt để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Thứ hai, về thẩm quyền và quyền yêu cầu huỷ việc nuôi con nuôi: Theo quy định của pháp luật nuôi con nuôi hiện nay, Toà án là cơ quan giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi. Tương tự như quan hệ hôn nhân, nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội có ý nghĩa quan trọng. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, lợi ích của cộng đồng thì huỷ việc nuôi con nuôi cũng phải do Toà án thực hiện. Về quyền yêu cầu huỷ việc nuôi con nuôi, so với pháp luật Nhật Bản người được nhận làm con nuôi không bị giới hạn về độ tuổi, trừ trường hợp là người cao tuổi, Luật Nuôi con nuôi Việt Nam quy định người được nhận làm con nuôi là trẻ em (từ 16 tuổi trở xuống), ngoại lệ có trường hợp từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi. Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người con nuôi thì pháp luật cần quy định nhiều chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc nuôi con nuôi. Các chủ thể có quyền yêu cầu hủy nên đồng nhất với chủ thể có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. Đó có thể là con nuôi, cha mẹ đẻ, người giám hộ của con nuôi hoặc cơ quan lao động thương binh và xã hội và hội liên hiệp phụ nữ. Thứ ba, về hậu quả pháp lý của hủy việc nuôi con nuôi: Về lý thuyết, quan hệ nuôi con nuôi bị hủy bỏ thì các bên không còn ràng buộc với nhau trong mối quan hệ cha mẹ con, đương nhiên người nhận con nuôi và người con nuôi cũng không phải thực hiện các nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng, giám hộ với tư cách là cha mẹ và con. Ngoài ra, người con nuôi còn sẽ được lấy lại họ, tên mà người con nuôi mang trước khi việc nuôi con nuôi được xác lập. Mặt khác, hiệu lực của hủy việc nuôi con nuôi là việc nuôi con nuôi không có giá trị pháp lý. Do đó, cũng cần suy xét các vấn đề liên quan đến quyền kết hôn giữa những người bị hủy việc nuôi con nuôi; vấn đề hoàn trả những lợi ích mà các bên nhận được do xác lập việc nuôi con nuôi; hay vấn đề giải quyết quan hệ hợp đồng với người thứ ba do hủy việc nuôi con nuôi hoặc nếu việc nuôi con nuôi được xác lập nhằm mục đích trục lợi thì có đặt ra vấn đề bồi hoàn... n 19 Nguyễn Quang Quýnh, Dân luật, Quyển I, xuất bản Viện Đại học Cần Thơ, năm 1967, tr.459. 20 Xem Điều 804 Luật Dân sự Nhật Bản.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhu_cau_xay_dung_che_dinh_huy_viec_nuoi_con_nuoi_trong_phap.pdf
Tài liệu liên quan