Nhữmg giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập Quốc tế.

Hai là, thị trường tài chính đã kích thích và phân bổ các nguồn vốn tiết kiệm vào tiêu dùng hay vào lĩnh vực đầu tư sao cho có hiệu quả nhất. Do xuất hiện nhiều cơ hội đầu tư trên thị trường mà người tiết kiệm sẽ quyết định lựa chọn những cơ hội đầu tư tốt nhất, ít rủi ro nhất để làm tăng hiệu quả sử dụng vốn tiết kiệm của họ. Mặt khác, những thu nhập từ thị trường tài chính mang lại sẽ là động lực kích thích họ tiết kiệm nhiều hơn. Ba là, thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tài chính quốc gia. Thị trường tài chính vừa là nơi phản ánh thực trạng của nền kinh tế, vừa là nơi để Ngân hàng Trung ương can thiệp vào cung cầu tiền tệ, quyết định các mức lãi suất. Mặt khác, thị trường tài chính là địa điểm tin cậy mở rộng tín dụng Nhà nước góp phần cân đối tài chính quốc gia. Từ những đặc thù này cho phép các Chính phủ sử dụng các công cụ, các biện pháp tác động vào thị trường nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đề ra.

doc99 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 991 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nhữmg giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập Quốc tế., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dịch ngoại tệ trước đây. Từ đó tỷ giá của VND với ngoại tệ cũng được hình thành một cách khách quan hơn và phản ánh tương đối thực tế sức mua của VND. Đó là bước phát triển mới ở mức độ cao hơn của hoạt động ngoại tệ tại Việt Nam. *Hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do: Hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế và xã hội. Trước hết, nó làm thỏa mãn nhu cầu giao dịch mua bán bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư trong điều kiện thị trường ngoại hối chính thức chưa phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế như một tổng thể. Thị trường ngoại tệ tự do còn đáp ứng nhu cầu giao dịch về ngoại tệ của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh khi không thể tiếp cận hoặc không được tiếp cận với thị trường chính thức. Ngoài ra, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do luôn là một chỉ tiêu tham khảo quan trọng trong điều hành chính sách tỷ giá của NHTW. *Lượng kiều hối: Với hơn 2,5 triệu kiều bào đang định cư và sinh sống ở nước ngoài, trong những năm qua, nguồn kiều hối đã góp phần đáng kể, tạo thêm công ăn việc làm, nâng cao đời sống của một bộ phận dân cư, tạo nguồn vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, giảm bớt căng thẳng cung cầu về ngoại tệ và góp phần giảm sự mất cân đối của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. * Tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại: Có thể nói, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM đã được thực hiện trong một hành lang pháp lý chặt chẽ, từng bước đi vào nề nếp theo chuẩn mực quốc tế, các nghiệp vụ kinh doanh ngày càng được mở rộng, doanh số giao dịch ngày một lớn, nhiều ngân hàng đã tổ chức phòng kinh doanh ngoại tệ theo mô hình của một ngân hàng hiện đại. 2.2 Mặt còn hạn chế: *Đến nay, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tuy đã có những bước phát triển đáng kể, nhưng về cơ bản, qui mô và phạm vi thị trường còn nhỏ, hoạt động còn trầm lắng, kém linh hoạt... Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa hoàn thiện, do đó, nó chưa phản ánh được toàn bộ, đúng đắn quan hệ cung cầu về ngoại tệ của toàn bộ nền kinh tế. Hiện tượng căng thẳng giả tạo về cung cầu ngoại tệ xuất hiện khá phổ biến, trong khi, cùng lúc xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế cung cầu ngoại tệ không khó khăn. Các ngân hàng rất khó khăn trong việc tìm nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán của các doanh nghiệp. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng kém linh hoạt thể hiện ở tình trạng nhu cầu mua nhiều trong khi nhu cầu bán rất ít. Do ngoại tệ trên thị trường khan hiếm, các ngân hàng chưa có đủ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp, nên không có dư để bán trên thị trường. Mặt khác do cạnh tranh về tỷ giá trên thị trường bị triệt tiêu, mọi giao dịch đều được thực hiện với tỷ giá kịch trần, nên hoạt động của thị trường thường trầm lắng. Phương thức giao dịch trên thị trường liên ngân hàng cũng còn rất cổ điển, thiếu hẳn tính hiện đại. Chỉ một số ít ngân hàng hiện nay đã thực hiện giao dịch mua bán qua hệ thống Reuter, còn lại phần lớn là giao dịch thông qua thủ tục công văn, còn điện thoại thì không được chấp nhận (Theo Điều 10 của Quyết định số 101/1999/QĐ - NHNN 13, ngày 26/3/1999 về Quy chế tổ chức và hoạt động của TTNTLNH). Điều này một phần là giữa các ngân hàng có độ tịn cậy nhau còn hạn chế, nhưng phần chính là nhiều ngân hàng chưa có được một mô hình tổ chức thích hợp, thiếu một phòng chức năng được phân cấp có đủ khả năng và thẩm quyền trong việc quyết định mua hay bán ngoại tệ. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của Việt Nam mới chỉ đóng vai trò thứ yếu, do đó tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường này chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho cả nền kinh tế. *Nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi: Thị trường ngoại hối Việt Nam còn rất sơ khai về mặt nghiệp vụ, giao dịch ngoại hối chủ yếu là giao ngay, trong khi đó, trên thế giới người ta sử dụng thị trường kỳ hạn và hoán đổi ngày một tăng không khác gì thị trường giao ngay. Ngoài ra, các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu chưa được bảo vệ rủi ro trước sự biến động của tỷ giá. Hơn nữa, các NHTM chưa thực sự sẵn sàng phát triển nghiệp vụ kỳ hạn, bởi vì, trong suốt thời gian qua, tỷ giá VND/USD chỉ biến động tăng một chiều, trong lúc ngoại tệ lại luôn khan hiếm, do đó, các đơn vị xuất nhập khẩu chỉ muốn ký hợp đồng mua kỳ hạn ngoại tệ từ ngân hàng làm cho nghiệp vụ này chưa thể phát triển được. *Doanh số giao dịch trên thị trường ngoại hối Sau khi thị trường ngoại hối liên ngân hàng đi vào hoạt động từ tháng 10 năm 1994, hoạt động của thị trường ngoại hối Việt Nam đã có nhiều đổi sắc theo hướng tích cực. Tuy nhiên, do còn non trẻ cộng với doanh số hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam còn hạn chế, quy định biên độ giao động tỷ giá giao ngay rất hẹp, do đó, doanh số hoạt động của thị trường ngoại hối trong các năm vừa qua nhìn chung còn thấp , mức tăng trưởng chưa rõ nét. Trong tất cả các năm, doanh số mua vào thường thấp hơn doanh số bán ra, điều này nói lên rằng thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển theo hướng một chiều và luôn chịu áp lực cầu lớn hơn cung. Hay nói cách khác, thị trường thường ở tình trạng khan hiếm hàng hoá. *Thị trường ngoại tệ tự do: Do thị trường ngoại tệ tự do nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước, nên đã gây khó khăn và làm giảm hiệu lực của việc thực thi và điều hành chính sách tiền tệ. Cụ thể: hoạt động của thị trường này đã tiếp tay cho các hoạt động kinh tế bất hợp pháp như buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền...; Sự tồn tại của thị trường ngoại tệ tự do dẫn đến tình trạng chảy máu ngoại tệ. chương II đã tìm hiểu thực trạng của thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối. ở cả 3 thị trường kể trên tuy đều đã đạt được một số mặt tích cực nhưng vẫn còn rất nhiều tồn tại. Thực trạng trên đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu để tạo điều kiện cho thị trường tài chính Việt Nam phát triển và hội nhập thị trường tài chính Quốc tế. Chương III Những giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế I. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc phát triển và hội nhập thị trường tài chính việt nam. 1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc phát triển thị trường tài chính. Việc phát triển thị trường tài chính Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước đề cập nhiều trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Dưới đây là một vài ý kiến: “Phát triển thị trường vốn và thị trường tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung hạn và dài hạn. Tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, từng bước mở rộng qui mô và phạm vi hoạt động kể cả việc thu hút vốn nước ngoài.” Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh đến việc phát triển một thị trường tài chính vừa bình đẳng vừa trong sạch: “Bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính- tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế.” “Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ- ngân hàng. ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng đến mọi doanh nghiệp và dân cư, đáp ứng kịp các nhu cầu về vốn tín dụng...” 2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập thị trường tài chính Việt Nam. Quan điểm của Đảng về hội nhập thị trường tài chính Việt Nam vào thị trường tài chính quốc tế đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001): Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển... Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế khu vực... Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường. Chính phủ cùng các bộ, ngành và các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế- xã hội, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế”. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hợp tác với bên ngoài đã được Đảng và Nhà nước ta nhấn mạnh đến như sau: “Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài; tăng cường vai trò và ảnh hưởng của nước ta đối với kinh tế khu vực và thế giới. Mở rộng các dịch vụ tài chính - tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán... đi thẳng vào công nghệ hiện đại, áp dụng các quy chuẩn quốc tế. Từng bước hình thành trung tâm dịch vụ tài chính lớn trong khu vực. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hóa; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, tiến tới gia nhập WTO...Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới...” “Ngoài ra cần tăng cường đầu tư ra nước ngoài; phát triển các dịch vụ thu ngoại tệ; du lịch và các dịch vụ khác.” ii. dự báo Lộ trình hội nhập thị trường tài chính Việt Nam : Việc xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia rất phức tạp, phải dựa trên nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm: quan điểm, chủ trương hội nhập của Đảng và Nhà nước; trình độ phát triển của nền kinh tế va thị trường tài chính quốc gia; xu thế phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính thế giới... Tuy nhiên, trên thực tế tính đến thời điểm hiện nay chúng ta đã ký kết một số hiệp định trong đó có một số nội dung về nội dung hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia. Trong số các hiệp định quốc tế đã ký kết có Hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Đây là một trong những hiệp định quan trọng nhất đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung, là tiền đề để chúng ta tiến hành các bước đàm phán tiếp theo trong quá trình gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - tổ chức lớn nhất thế giới trên thế giới. Đồng thời, hiệp định này cũng là hiệp định quan trọng nhất đối với tiến trình hội nhập quốc tế thị trường tài chính Việt Nam; về cơ bản chúng ta có thể lấy lộ trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đối với các nội dung về mở cửa thị trường tài chính làm nền tảng để xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế thị trường tài chính Việt Nam. Bởi vì: Thị trường tài chính Mỹ là thị trường tài chính phát triển nhất thế giới, nơi tập trung những doanh nghiệp hàng đầu hoạt động trong lĩnh vực tài chính, do đó việc chúng ta chấp nhận cạnh tranh với các doanh nghiệp tài chính của Mỹ có thể coi là chấp nhận giới hạn cạnh tranh cao nhất trên thị trường tài chính quốc tế. Trên cơ sở đó, dự thảo lộ trình hội nhập quốc tế thị trường tài chính Việt Nam như sau: Đối với lĩnh vực ngân hàng: Đến năm 2008, Việt Nam phải dỡ bỏ các quy định hạn chế về hoạt động bằng nội tệ - Đồng Việt Nam đối với các ngân hàng nước ngoài. Đến năm 2010, phải dỡ bỏ hoàn toàn các quy định ngăn trở đối với hoạt động ngân hàng nước ngoài. Đối với lĩnh vực chứng khoán: Đến năm 2005, nâng mức chứng khoán của các nhà đầu tư (bao gồm cả tổ chức và cá nhân) lên 50% đến năm 2005; cấp giấy phép cho từ 3-5 công ty chứng khoán liên doanh và thí điểm cấp giấy phép cho 1-2 công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài; cấp giấy phép cho 5-7 quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài được phép tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam; tích cực xây dựng các điều kiện để tiến tới hình thành thị trường trái phiếu ASEAN. Đến năm 2010, tăng mức sở hữu chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài lên khoảng 70%; cấp thêm giấy phép để nâng lên khoảng 10 công ty chứng khoán liên doanh và khoảng 5 công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài; đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu quốc tế, thí điểm việc niêm yết cổ phiếu ở nước ngoài; chuẩn bị ban đầu cho hoạt động đầu tư chứng khoán ở nước ngoài của các công ty chứng khoán trong nước. III. Giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính việt nam trong điều kiện hội nhập quốc tế Thực hiện chủ chương của Đảng trong việc mở cửa hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, cho đến nay, Việt Nam đã thu được những kết quả quan trọng. Đó là khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu á; gia nhập ASEAN (1995), APEC (1998); ký Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ(7/2000). Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện đàm phán để gia nhập WTO. Tuy chưa đạt đến đích cuối cùng nhưng những cố gắng này hứa hẹn sẽ đạt kết quả đáp ứng lợi ích của nhiều bên. Bên cạnh những thành công kể trên, chúng ta cũng gặp rất nhiều những bất cập trong quá trình hội nhập. Bởi lẽ nền kinh tế của nước ta vẫn là nền kinh tế kém phát triển, thị trường tài chính tuy có nhiều khởi sắc nhưng vẫn là một thị trường chưa phát triển hoàn thiện. Trong quá trình hoạt động đã gặp phải không ít những tồn tại. Vậy để có thể hội nhập được với nền kinh tế thế giới một cách thành công thì không còn cách nào khác là chúng ta phải xây dựng được thị trường tài chính trong nước sao cho hoàn thiện và sánh ngang tầm với các thị trường tài chính trong khu vực và trên thế giới. Dưới đây là một số giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam. 1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường tài chính và dịch vụ tài chính theo hướng: nâng cao hiệu lực pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ thống nhất, minh bạch, ổn định và phù hợp với các thông lệ quốc tế. Hệ thống khung pháp luật là vấn đề hết sức quan trọng trong công tác hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập thị trường tài chính nói riêng. Bởi vì, tất cả các cam kết, các chương trình, lộ trình... về hội nhập quốc tế cuối cùng muốn thực thi được phải cụ thể hoá bằng hệ thống pháp luật. Do vậy, vấn đề đặt ra là mỗi quốc gia cần phải sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống khung pháp luật của mình. Đối với Việt Nam, vấn đề hoàn thiện khung pháp luật nhằm thực hiện lộ trình hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia càng trở lên quan trọng và cấp bách, bởi vì thời hạn thực hiện hội nhập quốc tế theo các cam kết đang đến gần, trong khi đó hệ thống các văn bản pháp luật cần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện lại rất lớn. Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kỳ đã có nhiều tác động đối với hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam. Bởi vậy chúng ta cần phải làm những việc sau: Thứ nhất, cần sớm tổ chức và triển khai công tác rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về ngân hàng để sớm có kế hoạch sửa đổi, bổ sung, xây dựng các văn bản mới cho phù hợp với các cam kết trong Hiệp định. Đây là một tác động lớn nhất, bao trùm đến hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung cũng như hệ thống ngân hàng nói riêng. Thứ hai, xây dựng, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với những chế định pháp luật chưa phù hợp hoặc pháp luật Việt Nam chưa quy định. Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện chế định công khai văn bản pháp luật, thông tin tín dụng ngân hàng. Nghĩa là, các văn bản pháp luật của Việt Nam phải được công bố công khai, minh bạch, rộng rãi và dễ tiếp cận đối với các cơ quan Nhà nước và các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động thương mại. Đối với từng thị trường cụ thể, chúng ta cũng cần phải bổ sung và ban hành các văn bản mới cho phù hợp với tình hình hiện nay. Cụ thể: Đối với thị trường tiền tệ: Tiếp tục hoàn thiện và phát triển nền tảng pháp lý cho hệ thống ngân hàng theo hai hướng: Một là: nhanh chóng ban hành một cách đồng bộ hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng nhằm tạo hành lang pháp lý mới đầy đủ, chặt chẽ. Hai là: Bổ sung, điều chỉnh một số nội dung của hai Luật này cho phù hợp với yêu cầu mới của hệ thống ngân hàng cũng như của nền kinh tế. Sửa đổi bổ sung quy chế hoạt động của Thị trường mở, ban hành qui chế tiêu chuẩn hoá việc phát hành kỳ phiếu của các NHTM, sớm ban hành những văn bản hướng dẫn Pháp lệnh Thương phiếu. Đối với thị trường chứng khoán: Cho đến nay, văn bản pháp lý cao nhất của Việt Nam về lĩnh vực chứng khoán là Nghị định 48/CP, sau 4 năm áp dụng đã cho thấy có nhiều bất cập, đặc biệt sau 2 năm TTCK hoạt động chính thức. Bởi vậy, Nghị định 48/CP cần được bổ sung, chỉnh sửa và nâng lên thành luật chứng khoán, điều này sẽ bảo đảm tính chế tài cao hơn, có hiệu lực tốt hơn. Ngoài ra, các quy định về công bố thông tin cần chặt chẽ, đầy đủ hơn, điều chỉnh chi tiết hơn đến các đối tượng tham gia thị trường; các quy định liên quan tới hoạt động của các CtyCK cần phải thiết kế theo hướng mở để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hoạt động của các định chế này, hình thành các nghiệp vụ kinh doanh mới trên thị trường, nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm thu hút sự tham gia của tất cả các đối tượng. Đồng thời phải xây dựng hệ thống các bộ luật liên quan đến hội nhập quốc tế như luật thực hiện các cam kết tham gia WTO, luật cạnh tranh và chống độc quyền, chống buôn lậu, chống làm hàng giả, bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng; Xây dựng và kiện toàn thể chế hiện đại về quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với thông lệ quốc tế. 2.Củng cố, hoàn thiện và phát triển các công cụ tài chính và các nghiệp vụ tài chính: Các công cụ thị trường tài chính là hàng hoá cho thị trường hoạt động, nhưng nó phải đa dạng, phong phú, phù hợp với nhu cầu của thị trường cả ở hiện tại và trong tương lai. Như vậy để phát triển thị trường tài chính nước ta đòi hỏi phải củng cố, hoàn thiện các công cụ đã có, đồng thời phải tạo ra thêm các công cụ mới phù hợp với trình độ phát triển của thị trường tài chính. Đối với thị trường tiền tệ, cần phải phát triển các công cụ sau: *Hợp đồng mua lại: Để phát triển công cụ này, NHNN cần soạn thảo một thoả ước chung về hợp đồng mua lại để cho các thành viên thị trường cùng ký kết. Trong đó cần phải bao hàm đầy đủ các nội dung sau: Thời hạn hợp đồng và giá chứng khoán ngắn hạn mua bán; Quyền lợi của người được chuyển nhượng; thể thức giao chứng khoán và thời điểm chuyển quyền sở hữu; Nghĩa vụ của các bên. *Ngoài hợp đồng mua lại, cũng cần phải có các biện pháp, chính sách, cơ chế để đưa thêm các công cụ khác vào hoạt động nhằm tạo sự đa dạng cho các công cụ như: chứng chỉ tiền gửi, thuận nhận ngân hàng... Riêng đối với thị trường chứng khoán, lượng hàng hoá hiện tại trên thị trường vẫn còn rất nhỏ so với tiềm năng. Cần phải đưa ra thị trường nhiều hàng hoá hơn nữa nhưng phải đảm bảo hàng hoá có chất lượng. Nguyên nhân của tình trạng khan hiếm hàng hóa là: nhiều doanh nghiệp thiếu kiến thức về TTCK, bởi vậy họ rất e ngại tham gia vào thị trường. Nhiều doanh nghiệp mặc dù biết sẽ được hưởng khá nhiều ưu đãi về thuế cùng nhiều lợi ích khác khi tham gia thị trường, nhưng vẫn quyết định không đưa chứng khoán ra niêm yết do vẫn rất ngần ngại khi phải kiểm toán tình hình tài chính và phải công khai hoá thông tin về tình hình hoạt động của mình. Như vậy trước tiên Nhà nước cần có chính sách để các doanh nghiệp hiểu rằng việc kiểm toán và công khai hoá thông tin sẽ là một việc mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng sẽ phải thực hiện, bất kể doanh nghiệp đó có niêm yết hay không. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế bằng việc tham gia vào AFTA, APEC và đang tích cực chuẩn bị cho việc tham gia vào WTO, và các doanh nghiệp nào đã và đang tham gia vào thương mại quốc tế cũng đều hiểu rằng một doanh nghiệp không thể bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trường nếu không tuân thủ các thông lệ quốc tế chung, trong đó, việc kiểm toán và công khai hóa thông tin đang trở thành những thông lệ quan trọng nhất. Đối với các loại trái phiếu đã phát hành còn đơn điệu về chủng loại, gò bó về cách thức thanh toán. Phần lớn trái phiếu phát hành qua hệ thống kho bạc chưa được chuẩn hoá về mệnh giá, về thời gian đáo hạn... nên không đủ tiêu chuẩn tham gia thị trường chứng khoán tập trung. Do vậy, việc huy động vốn cũng chưa đạt được mục tiêu đề ra. Vậy trong thời gian tới, để thực hiện mục tiêu huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, để Trái phiếu Chính phủ thực hiện được chức năng người “anh cả” trong các công cụ đầu tư và thực sự là một hàng hoá mẫu mực trên thị trường chứng khoán, thiết nghĩ Nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp cải thiện sau đây: Một là , lập chương trình kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ đối với các loại kỳ hạn chủ yếu 1,2,3,5,7 và 10 năm. Với kế hoạch được công bố này, các nhà đầu tư luôn có hàng hoá trên thị trường để đầu tư phù hợp với chiến lược đầu tư riêng của mình và thị trường cũng luôn tồn tại mức lãi suất chuẩn để các công cụ đầu tư khác sử dụng tham chiếu. Hai là, tiếp tục đổi mới, cải tiến và đa dạng hoá các phương thức phát hành, giao dịch, thanh toán... trái phiếu Chính phủ. Đối với phương thức đấu thầu, bảo lãnh phát hành: cần có sự nghiên cứu, chỉnh sửa lại cơ chế đấu thầu và bảo lãnh, trong đó nên giới hạn tỷ lệ nắm giữ trái phiếu theo danh mục đầu tư của tổ chức đấu thầu và bảo lãnh. Trên thị trường ngoại hối, cần phải hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. *Để thúc đẩy nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi, trước mắt nên cho phép các ngân hàng thực hiện các hợp đồng với các kỳ hạn linh hoạt mà không bị khống chế như quy định trong Quyết định số 1198/2001/QĐ-NHNN, ngày 18 tháng 9 năm 2001 của Thống đốc NHNN. Bên cạnh đó, từng bước nới rộng tỷ lệ % gia tăng cho phép để các ngân hàng có thể yết giá cạnh tranh tạo hàng hoá cho thị trường có độ thanh khoản cao hơn và sôi động hơn. *Mở rộng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ: Để phù hợp với trình độ thị trường và nhu cầu thực tiễn, trước mắt NHNN có thể cho phép và hướng dẫn các NHTM tiến hành thực hiện nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ. *Về giao dịch kỳ hạn- kỳ hạn (Forward- Forward Swap): Vì nghiệp vụ này tương đối phức tạp, hơn nữa nhu cầu của thị trường về nghiệp vụ này hầu như chưa phát sinh, do đó, cũng như giao dịch tương lai chúng ta nên giới thiệu nghiệp vụ này vào trong nền kinh tế. Trên cơ sở đa dạng hoá loại sản phẩm tài chính, khuyến khích các định chế tài chính trung gian phát triển các loại dịch vụ tài chính mới như mua bán nợ, chiết khấu thương phiếu, thuê mua tài chính, bảo lãnh phát hành, tư vấn, lưu ký, thanh toán bù trừ, định giá và xếp hạng tín nhiệm... 3. Hoàn thiện các loại hình thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối. Để thị trường tài chính được hoàn thiện thì không gì khác là phải hoàn thiện từng loại hình thị trường: thị trường tín dụng ngắn hạn, thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường tín phiếu kho bạc, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng... 3.1 Đối với thị trường tín dụng ngắn hạn: Phải hoàn thiện và phát triển phương thức thanh toán không dùng tiền mặt phù hợp với cơ chế thị trường. Mặc dù, năm 1991 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định 101QĐ-NH về thanh toán không dùng tiền mặt và Quyết định 181/ QĐ-NH về thanh toán bù trừ, và ngày 25/11/1993 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 91/CP về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt. Năm 1996 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 30/CP quy định về thanh toán séc trong nền kinh tế, nhưng cho đến nay, công tác thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta còn rất kém, tỷ lệ thanh toán dùng tiền mặt vẫn chiếm một tỷ trọng cao, đặc biệt là trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và trong các tầng lớp dân cư. Để khắc phục tình trạng trên, cần phải đưa ra nhiều phương thức thanh toán đa dạng với nhiều tiện ích để người sử dụng dịch vụ thanh toán có thể lựa chọn phương thức thanh toán có lợi cho mình nhất, mở rộng việc sử dụng tài khoản cá nhân và séc cá nhân trong cả nước; phải hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán, nhất là thủ tục thanh toán sao cho nhanh gọn để đáp ứng nhu cầu thanh toán chu chuyển vốn của thị trường; Đối với hoạt động cho vay: Khuyến khích các ngân hàng, các tổ chức tín dụng đa dạng hoá các loại hình cho vay, kể cả hoạt động thuê mua, bảo lãnh, tín chấp, đồng tài trợ, cho vay hợp vốn...; phải tăng cường vốn tự có của các NH, các tổ chức tín dụng bởi vì dù các NH có nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các hình thức cho vay nhưng theo quy định về tỷ lệ cho vay tối đa với 1 khách hàng trên vốn tự có của tổ chức tín dụng là 15%, trong khi vốn tự có của các NH nước ta lại quá nhỏ, do đó lượng cho vay không đáp ứng được nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh. 3.2 Hoàn thiện thị trường nội tệ liên ngân hàng Mặc dù thị trường nội tệ liên ngân hàng bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 1993 nhưng đến nay quy mô thị trường này vẫn còn nhỏ, kém linh hoạt, còn trông cậy vào sự bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nước. Trong thời gian tới, để phát triển thị trường này cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau: *Đẩy mạnh việc củng cố hệ thống ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh tiềm lực tài chính và thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo sự lành mạnh của cả hệ thống và tạo ra những thành viên có đủ uy tín trên thị trường. Hiện đại hoá mạng lưới công nghệ thông tin trong hệ thống ngân hàng, dần bắt kịp với những công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới. *áp dụng kỹ thuật, công nghệ thanh toán hiện đại để đảm bảo việc thanh toán, chuyển vốn được thực hiện nhanh gọn, chính xác, ngay trong ngày, có như vậy các giao dịch vay mượn rất ngắn từ một ngày đến một tuần mới có thể phát triển, đặc biệt là những giao dịch vốn qua đêm, một bộ phận chiếm tỷ trọng rất lớn trong thị trường liên ngân hàng. *Tổ chức đấu thầu thường xuyên tín phiếu kho bạc đồng thời phát triển các công cụ của thị trường tiền tệ khác như chứng chỉ tiền gửi, hối phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu... để có các phương tiện làm thế chấp trong các quan hệ vay mượn giữa các ngân hàng, tránh những rủi ro trong các giao dịch cũng như sự lệ thuộc quá nhiều vào sự bảo lãnh của ngân hàng nhà nước. *Thành lập các công ty môi giới làm trung gian cho các giao dịch trên thị trường nhằm giúp cho cung cầu tên thị trường gặp nhau một cách dễ dàng, thuận lợi hơn. *Tiếp tục củng cố và hoàn thiện việc cung cấp thông tin của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng. *Sửa đổi, bổ sung và ban hành lại các văn bản pháp quy về thanh toán bù trừ liên ngân hàng cho phù hợp với Luật ngân hàng và tình hình mới; Mở rộng cho phép các thành viên kháca của thị trường tiền tệ được tham gia thanh toán bù trừ, nhất là các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức tín dụng hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật để tiến tới thực hiện phương pháp thanh toán chuyển tiền điện tử trong toàn bộ hệ thống thay cho phương pháp thanh toán thủ công và bán thủ công đang áp dụng. Đồng thời cũng áp dụng các biện pháp bảo mật để tránh rủi ro trong thanh toán điện tử. Có vậy mới đáp ứng được yêu cầu thanh toán vốn nhanh chóng, chính xác, an toàn. (Hiện nay, trong thanh toán bù trừ, các cán bộ chuyên trách của ngân hàng phải mang tài liệu, chứng từ gửi kèm theo các bảng kê giao nhận đến ngân hàng chủ trì để đối chiếu và bù trừ cho nhau, vừa mất thời gian, vừa phát sinh rủi ro nhầm lẫn, mất mát chứng từ trong quá trình chuyên trở, giao nhận). 3.3 Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. ở nước ta, do trình độ thị trường còn sơ khai, do đó doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ chiếm tỷ lệ vào khoảng 15-20%; chính vì vậy, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ đóng vai trò thứ yếu, do đó tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường này chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho cả nền kinh tế. Để có một thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả, chúng ta cần phải làm những việc sau: Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới. NHNN cần phải can thiệp kịp thời với quy mô thích hợp, có như vậy thị trường mới hoạt động thông suốt. Một khi NHNN không tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc quy mô can thiệp không thích hợp sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè ngóng đợi, khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới. Cần mở rộng số lượng thành viên, và tạo ra môi trường để các thành viên tham gia thị trường được tích cực hơn. Bởi vì, đã có 60 thành viên được công nhận là thành viên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhưng số thành viên tham gia tích cực thì rất hạn chế, điều này khiến cho thị trường hoạt động trầm lắng. Hơn nữa, giao dịch trên thị trường thường diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng thì chuyên đi bán, số khác thì chuyên đi mua, điều này khiến cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mất đi tính đặc thù của nó. Ngoài những vấn đề căn bản nêu trên, thì việc hoàn thiện quy chế giao dịch, hiện đại hoá khâu thanh toán, trang bị công nghệ thông tin tiên tiến, nâng cao trình độ và kỹ năng kinh doanh cho cán bộ... cũng cần được xem xét thực hiện. 3.3 Hoàn thiện thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn: a/ Thị trường tín phiếu kho bạc: Cần phải tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc một cách đều đặn, thường xuyên hơn nhằm giúp các NHTM, các tổ chức tín dụng phi NH, các doanh nghiệp có kế hoạch đầu tư chủ động; đồng thời đảm bảo cung cấp cho thị trướng số lượng tín phiếu đủ lớn, làm phát sinh và nuôi dưỡng các giao dịch mua đi bán lại. Phát hành nhiều loại tín phiếu kho bạc với thời hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 1 năm (nhưng chủ yếu là loại 3 tháng và 6 tháng) với nhiều mức lãi suất xấp xỉ gần bằng lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cùng loại của ngân hàng để khuyến khích các chủ thể đầu tư vào công cụ này. Đẩy mạnh phát triển các giao dịch thoả thuận mua lại, vì đây là phương thức giao dịch phổ biến nhất đối với tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp. Muốn vậy, cần sớm ban hành các quy chế giao dịch cũng như các mẫu cụ thể của các hợp đồng mua lại Nhanh chóng hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thị trường mở để tạo thị trường thứ cấp cho tín phiếu kho bạc hoạt động. Tổ chức đấu thầu, thực hiện đặt thầu và công bố kết quả trên mạng máy tính đến mọi thành viên thị trường đều được biết kết quả cùng một lúc, đảm bảo tính chính xác và công bằng cho các đối tượng tham gia. b/ Thị trường chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng: Đối với thị trường này, cần phải quy định tiêu chuẩn hóa các loại chứng chỉ tiền gửi về hình thức, nội dung, kỳ hạn, lãi suất cũng như những tiêu chuẩn thống nhất cho việc phát hành các công cụ này nhằm tạo điều kiện cho việc phát hành, giao dịch và thanh toán trên thị trường, đồng thời cũng cần phải có những hướng dẫn cần thiết khi cấp giấy phép cho việc phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi. Nên đưa vào sử dụng rộng rãi các loại chứng chỉ tiền gửi như chứng chỉ tiền gửi lãi suất cố định, chứng chỉ tiền gửi lãi suất thả nổi, chứng chỉ tiền gửi lãi suất chiết khấu, chứng chỉ tiền gửi ngoại tệ để tạo ra sự phong phú, đa dạng các công cụ cho thị trường tiền tệ và tăng khả năng thu hút vốn cho ngân hàng. Cần tạo ra một sân chơi bình đẳng và phải trao một quyền hạn hoàn toàn cho các NH trong việc phát hành chứng chỉ tiền gửi. Vì hiện nay, mặc dù trong luật NH cho phép tất cả các NH đều được phát hành chứng chỉ tiền gửi, nhưng trong thực tế việc phát hành chứng chỉ tiền gửi đối với từng NH lại phụ thuộc vào sự phê chuẩn của NHNN. Và trong số các ngân hàng được phát hành thì NHNN lại xem xét cho từng trường hợp một. Việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi cũng chỉ giới hạn cho các ngân hàng nội, còn với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài lại không quy định cụ thể về việc phát hành công cụ này. Điều này đã làm ảnh hưởng tiêu cực đối với việc thu hút thêm nguồn vốn vào hệ thống NH và cản trở việc tăng nguồn vốn khả dụng cho các thị trường tiền tệ. 4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên tham gia thị trường tài chính. 4.1 Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam: Mở cửa kinh tế phải đi đôi với cải cách, đặc biệt là cải cách hệ thống tài chính thì mới đảm bảo được sự tăng trưởng bền vững, mới thu hút và sử dụng có hiệu quả các dòng vốn từ bên ngoài. Với mục tiêu thu hẹp dần khoảng cách, tiến tới đuổi kịp các nước khác về mặt kinh tế, hệ thống ngân hàng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề cấp bách và nan giải cần phải được quan tâm giải quyết; trong đó có vấn đề làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu qủa hoạt động của các NHTM. Trước mắt, cần phải giải quyết những vấn đề sau: *Phải có kế hoạch khả thi, cụ thể để các NHTM đẩy nhanh được chương trình cơ cấu lại, giải quyết dứt điểm nợ tồn đọng, nợ khó đòi, tăng vốn tự có. *Xây dựng lại mô hình tổ chức của NHTM, tiêu chuẩn hoá cán bộ nhân viên theo hướng đáp ứng nhanh chóng, chính xác nhu cầu thị trường, nhấn mạnh khả năng thu thập, xử lý và khai thác thông tin. Xây dựng quy trình ra quyết định sao cho vừa khoa học vừa nhanh chóng để nắm bắt thời cơ kịp thời. Muốn vậy cần chuẩn bị cho đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, về kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với trình độ chuẩn mực quốc tế. Tham gia cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi mỗi ngân hàng thương mại phải có chính sách và phương pháp kinh doanh riêng của mình phù hợp trong từng thời gian sao cho hiệu qủa. Cần tiến hành xây dựng hệ tiêu chuẩn đánh giá an toàn kinh doanh nhằm mở rộng hoạt động vào khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực này rộng lớn, kinh doanh năng động, có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh mạo hiểm... nhưng cũng đưa lại nhiều lợi ích cho xã hội và nền kinh tế; đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng khi mở rộng dịch vụ kinh doanh vào đây. Đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, cải tiến và tiếp thị sản phẩm nhằm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mở ra các sản phẩm mới, thị trường mới, thoả mãn và nâng cao nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. *Chuẩn bị tiềm năng về tri thức và công nghệ nhằm chủ động đáp ứng và khai thác tốt những tình huống đột biến có thể xảy ra trong các mối quan hệ kinh tế-thương mại song phương và đa phương giữa Việt Nam và các quốc gia khác. Theo lộ trình xác định trong các hiệp ước quốc tế mà nước ta đã cam kết thì chỉ một thời gian ngắn nữa các ngân hàng thương mại Việt Nam phải đối mặt trong cuộc cạnh tranh toàn diện với các NHTM khu vực nói riêng và quốc tế nói chung. Điều này đã buộc các NHTM nước ta phải tự vươn lên ngay từ bây giờ để nắm thời cơ và điều hành tốt các khâu kinh doanh trong điều kiện mới. Đã đến lúc có NHTM Việt Nam cần tính đến việc mở rộng thị trường đầu tư của mình không những trong nước mà cả với thị trường ở nước ngoài. * Hơn nữa, trong quá trình đàm phán tới đây về thương mại và dịch vụ trong đó có dịch vụ tài chính - ngân hàng để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các nước thành viên sẽ yêu cầu Việt Nam phải tiếp tục mở cửa thị trường, dành đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài, tuân thủ các quy định luật lệ của WTO và tiếp tục giải quyết các vấn đề như: người nước ngoài mua lại ngân hàng trong nước, cụ thể hoá các điều kiện và thủ tục cấp phép cho các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, việc đàm phán để gia nhập WTO sau vòng đàm phán uruguay đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận nhiều điều kiện khắc nghiệt hơn rất nhiều so với các nước đang phát triển đã gia nhập trước đây. Do vậy, để có thể vượt qua những thách thức nhiều mặt, Việt Nam phải xây dựng một chiến lược đàm phán và cải cách hệ thống rất khẩn trương nhằm giảm thiểu đến mức tối đa các tác động tiêu cực sẽ xuất hiện. Trong đó, một số biện pháp cải cách chủ yếu nên được thực hiện trong thời gian tới: *Tăng cường khung khổ pháp lý và kiểm sát, tập trung vào việc cải thiện khả năng giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế để xác định một cách rõ ràng về sự an toàn và lành mạnh của các nghiệp vụ ngân hàng; cải tiến các tiêu chuẩn kế toán và thực hiện kiểm toán hàng năm do các công ty kiểm toán độc lập nước ngoài tiến hành, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế; *Củng cố và sắp xếp lại các ngân hàng cổ phần, khuyến khích các tổ chức này liên kết lại với nhau, tiến tới hợp nhất thành các tổ chức tín dụng quy mô lớn hơn, hoạt động ổn định và phát triển trong thị trường biến động và cạnh tranh; *Nâng mức vốn các ngân hàng thương mại quốc doanh đến mức của các ngân hàng trung bình trong khu vực. Việc nâng mức vốn phải đảm bảo dựa trên một kế hoạch tổng thể với việc cơ cấu lại các khoản vay, cải tổ các ngân hàng thương mại quốc doanh và các doanh nghiệp nhà nước. Kế hoạch này phải bao gồm những biện pháp cơ cấu như chuyển những hoạt động cho vay ưu đãi phi thương mại cho các ngân hàng chính sách, xóa một số khoản cho vay chính sách và các khoản nợ khoanh, tiến hành cổ phần hóa và liên doanh với các ngân hàng nước ngoài; *Song song việc cải cách hệ thống ngân hàng, cần tiến hành thực hiện các cam kết quốc tế như các điều khoản cam kết với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), các điều khoản của Hiệp định khung về hợp tác thương mại và dịch vụ (AFAS) của ASEAN bắt đầu từ năm 2005. Hiệp định thương mại Việt Mỹ; đồng thời bước đầu xâm nhập vào thị trường khu vực. 4.2 Nâng cao hiệu qủa hoạt động của các công ty chứng khoán: Trong thời gian tới, nhằm tạo điều kiện cho các CtyCK nâng cao hiệu quả hoạt động, UBCKNN nên xem xét, hướng dẫn cho phép các CtyCK nhận lệnh qua điện thoại, máy Fax, internet; phối hợp cùng với các cơ quan chức năng nhằm tháo gỡ những bất cập trong các quy định pháp luật, nâng cao chất lượng dịch vụ, chủ động tìm kiếm khách hàng, đặc biệt trong bối cảnh môi trưòng cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động chứng khoán đã có dấu hiệu tăng lên và hơn thế nữa thời hạn được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định sẽ kết thúc vào cuối năm nay. 4.3 Hình thành các công ty môi giới ngoại hối Cũng như trên các thị trường khác, các công ty môi giới ngoại hối đóng vai trò là cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Do thị trường ngoại hối Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển, các phương tiện giao dịch chưa hiện đại, thì vai trò chắp nối cung cầu ngoại tệ của các công ty môi giới ngoại hối càng trở nên quan trọng và thiết thực. Trong thời gian qua, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam hoạt động đôi khi bị gián đoạn, lúc trầm, lúc bổng, ngoài các nguyên nhân cố hữu thuộc về cơ chế tỷ giá, vai trò can thiệp của NHNN, tình trạng găm giữ ngoại tệ và phương tiện giao dịch còn lạc hậu... thì việc thiếu vắng các công ty môi giới ngoại hối cũng được xem là nguyên nhân của tình trạng trên. Với tư cách là trung gian cho các ngân hàng, các công ty môi giới tạo điều kiện để NHTM có nhu cầu bán gặp gỡ giao dịch với ngân hàng có nhu cầu mua và ngược lại. Về mặt nguyên tắc, các công ty môi giới không được phép kinh doanh cho chính mình, mà chỉ môi giới cho các ngân hàng (không phải các công ty), chính vì vậy, các công ty môi giới sẽ duy trì thông tin liên lạc thường xuyên với các phòng kinh doanh ngoại tệ. Sau mỗi cuộc chắp nối thành công, công ty thu một khoản phí dịch vụ môi giới từ cả hai bên đối tác tham gia vào giao dịch mua bán ngoại tệ. Giao dịch qua công ty môi giới có ưu điểm hơn so với giao dịch trực tiếp giữa các ngân hàng, bởi vậy cần có giải pháp khuyến khích, cấp phép cho một vài công ty môi giới ngoại hối hoạt động trên thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian tới. 5. Tạo lập một thị trường tài chính bình đẳng, lành mạnh và chủ động hội nhập Từng bước điều chỉnh nghiêm ngặt cơ chế, chính sách tài chính, tiền tệ, vừa tạo điều kiện tháo gỡ mọi trở ngại, khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nước phát triển nói chung và các hoạt động kinh doanh tài chính-tiền tệ nói riêng theo hướng bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn và giảm dần, vừa hỗ trợ và hướng dẫn các tổ chức tài chính-tiền tệ và các tổ chức dịch vụ đổi mới trình độ quản lý, đồng thời mở cửa và nới lỏng các hạn chế đối với hoạt động của nước ngoài trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ tài chính, tiền tệ, kế toán, kiểm toán và chứng khoán nhằm tăng cường môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Thực hiện mở cửa có chọn lọc với mức độ hợp lý thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam cho các bên nước ngoài tham gia; từng bước thực hiện tự do hoá các loại lãi suất trên các thị trường tài chính và tự do hoá các giao dịch thanh toán trên tài khoản vãng lai vào cuối thập kỷ; xây dựng nền tảng và điều kiện thực thi tự do hóa tài khoản vốn sau 2010; xoá bỏ dần các giới hạn về số lượng tổ chức, tổng giá trị giao dịch nghiệp vụ ngân hàng, môi giới bảo hiểm, phạm vi thực hiện dịch vụ; về tỷ lệ giới hạn tham gia góp vốn của bên nước ngoài dưới hình thức sở hữu tối đa số cổ phần của các tổ chức trong nước; xúc tiến cổ phần hoá một hoặc hai NHTMQD, công ty tái bảo hiểm quốc gia, công ty kiểm toán với sự tham gia của các tổ chức nước ngoài có quy mô lớn và có uy tín nhằm tạo môi trường cạnh tranh của thị trường trong nước; giảm ảnh hưởng của hiện tượng đô la hoá nền kinh tế và phấn đấu thực hiện thanh toán chủ yếu là Việt Nam đồng; tăng cường đầu tư của các tổ chức kinh tế, tài chính, tiền tệ Việt Nam ra nước ngoài. Xây dựng kế hoạch chuyển đổi tự do đồng tiền Việt Nam, tạo lập môi trường kinh doanh tiền tệ và cung ứng dịch vụ tài chính theo cơ chế thị trường cho các định chế tài chính trong nước thông qua việc xây dựng các thể chế phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của cơ chế thị trường; Tạo lập môi trường bình đẳng về quyền kinh doanh cho các định chế tài chính - tiền tệ, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài. Hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang phải chịu mức giá cao hơn so với doanh nghiệp trong nước. Chúng ta cần nhanh chóng giảm dần khoảng cách về giá phí dịch vụ và tiến đến áp dụng chính sách một giá đối với tất cả các doanh nghiệp trên thị trường. Sự phân biệt về giá phí dịch vụ (nếu có) chỉ nên áp dụng theo tiêu thức ngành hoặc vùng lãnh thổ với mục đích tạo điều kiện thúc đẩy ngành hoặc vùng lãnh thổ nhằm phát triển toàn diện nền kinh tế-xã hội. Thiết lập hệ thống kiểm soát có hiệu lực, đảm bảo an toàn tài chính nhưng không ngăn cản tiến trình hội nhập; Xây dựng hệ thống giám sát nội bộ và giám sát, phân tích, dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô; Đảm bảo an toàn tài chính trong nước, hội nhập tài chính phải gắn liền với việc xây dựng hệ thống giám sát, kịp thời đưa ra các dấu hiệu cảnh báo sớm nhằm tăng cường sự ổn định của hệ thống tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định thị trường tài chính. 6. Đẩy mạnh việc đào tạo cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế Cần thiết phải đẩy mạnh công tác đào tạo con người vì con người mới là trung tâm của quá trình hội nhập: thực hiện đàm phán và ký các cam kết, soạn thảo hệ thống văn bản pháp luật... Xác định cán bộ là khâu then chốt và nghiên cứu ban hành các quy định về tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế; Coi trọng công tác đào tạo tất cả các đối tượng cán bộ, từ trung ương đến địa phương, từ cán bộ quản lý nhà nước đến cán bộ trong doanh nghiệp nhằm trang bị kiến thức cơ bản về kinh tế đối ngoại, thương mại quốc tế cũng như kỹ năng quản lý tài chính và quản trị kinh doanh, kỹ thuật đàm phán, trình độ ngoại ngữ và khả năng giao tiếp, đảm bảo cho quá trình hội nhập có hiệu quả. Trên phương diện quản lý Nhà nước đối với vấn đề hội nhập quốc tế, vấn đề đào tạo con người tập trung vào hai đối tượng chủ yếu sau: Thứ nhất, đội ngũ cán bộ tham gia đàm phán và ký kết các hiệp định quốc tế. Đối với đối tượng này, các nội dung cần tập trung đào tạo bao gồm: ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh), luật pháp (trong nước và quốc tế), kiến thức chuyên môn về lĩnh vực tham gia đàm phán, chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập thị trường quốc gia vào thị trường quốc tế. Thứ hai, đội ngũ cán bộ thực thi tiến trình hội nhập quốc tế. Đối với các đối tượng này, các nội dung cần tập trung đào tạo bao gồm: Ngoại ngữ, hệ thống pháp luật, nội dung các Hiệp định... Trên phương diện toàn bộ nền kinh tế, cần đẩy mạnh đào tạo con người (nguồn nhân lực) có đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia bao gồm: - Đưa nội dung hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia trực tiếp vào nội dung chương trình giảng dạy đại học của các trường Đại học thuộc khối kinh tế - tài chính. - Khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo lại đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp về nội dung hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính thông qua hai hình thức: Thứ nhất, doanh nghiệp tự bỏ kinh phí đào tạo lại; Thứ hai, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo thông qua việc mở các lớp miễn phí cho cán bộ của các doanh nghiệp về nội dung hội nhập quốc tế. 7. Đổi mới thị trường tài chính theo hướng công nghệ hoá, hiện đại hoá Trước tiên, cần nghiên cứu xây dựng một hệ thống thông tin kinh tế tài chính theo thông lệ quốc tế, hợp với cơ chế thị trường, có thể trao đổi được với bên ngoài; xây dựng cơ chế cung cấp thông tin, thống nhất áp dụng trong tất cả các ngành, các cấp; xây dựng cơ chế giám sát nội bộ và cơ chế giám sát tài chính, tiền tệ quốc gia phù hợp với tiến độ mở cửa, tự do hoá tài chính. Trên góc độ vi mô, phải cải tiến công nghệ ngân hàng: bao gồm cả việc cải tiến quy trình công nghệ, các sản phẩm tín dụng, dịch vụ ngân hàng, xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán quốc tế và cả việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thông tin vào hoạt động ngân hàng, áp dụng hệ thống thông tin quản lý đa phương (MIS) để quản trị điều hành ngân hàng đáp ứng yêu cầu hoạt động của ngân hàng hiện đại. Đổi mới công nghệ ngân hàng đã trở thành một điều kiện quyết định cho việc tăng trưởng và nâng cao chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh trên con đường hội nhập. Trên đây là một số giải pháp chính nhằm phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Kết luận Qua nghiên cứu đề tài “Những giải pháp để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập” có thể rút ra một số kết luận sau: Thị trường tài chính Việt Nam nhìn chung đến nay đã có nhiều bước tiến: thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động được 2 năm, thị trường tiền tệ thứ cấp đã bước đầu được hình thành, đã có nhiều ngân hàng nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam và nhiều ngân hàng của Việt Nam đã tham gia vào hệ thống thanh toán toàn cầu... Tuy nhiên cho đến nay, thực tế cho thấy thị trường tài chính Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chế: hạn chế về môi trường pháp lý, về hàng hoá giao dịch trên thị trường, về cơ cấu tổ chức... Như các quá trình quốc tế hoá có tính chất thị trường khác, hội nhập trong lĩnh vực thị trường tài chính cũng có cả mặt lợi và bất lợi. Mặt lợi là chúng ta nhanh chóng sử dụng được các nguồn vốn dồi dào của thế giới vào phát triển kinh tế nhằm tiến hành nhanh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mặt bất lợi là nếu không kiểm soát được sự ra vào của nguồn vốn cũng như không đủ lực giám sát và đầu cơ quốc tế thì quá trình tái sản xuất xã hội trong nước sẽ dễ bị ảnh hưởng tai hại của các biến động trên thị trường tài chính thế giới cũng như sẽ chịu sự lũng đoạn của các tổ chức tài chính lớn. Do vậy hội nhập là cần thiết nhưng phải thận trọng chuẩn bị từng bước vững chắc để có thể hội nhập có lợi nhiều hơn có hại. Để có thể hội nhập được thành công và rút ngắn khoảng cách chênh lệch so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam phải chủ động hội nhập quốc tế và nhanh chóng đưa ra các giải pháp hữu hiệu để phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam. tài liệu tham khảo 1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc ĐCS Việt Nam lần thứ IX 2 Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ 3 Hiệp định Khung về khu vực mậu dịch tự do ASEAN 4 Luật NHNN&Luật các TCTD và các văn bản có liên quan tới chính sách quản lý ngoại hối. 5 “Kết quả vòng đàm phán URUGUAY về hệ thống thương mại đa biên”, Nhà xuất bản Thống Kê-2000 6 Nguyễn Văn Tiến, “Thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế”, nhà xuất bản Thống Kê, 2001 7 Nguyễn Văn Tiến, “Cẩm nang thị trường ngoại hối và các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối”, nhà xuất bản Thống Kê 8 Đinh Xuân Trình, “Thị trường chứng khoán”, nhà xuất bản Giáo dục 9 Đinh Xuân Trình, “Giáo trình Thanh Toán quốc tế”, nhà xuất bản Giáo dục 10 Tạp chí Thị trường chứng khoán Việt Nam số 7 tháng 7 năm 2002 11 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ tháng 6 năm 2002 12 Tạp chí ngân hàng số 5 năm 2002 13 Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ tháng 10,11 năm 2002 14 Tạp chí Cộng Sản, số 17, tháng 6-2002 15 Tạp chí Tài chính quốc tế, số 9, tháng 5-2002 16 Tạp chí Ngân hàng, số 11 năm 2000 17 Tạp chí Ngân hàng, số 1 năm 2001 18 “Một số vấn đề cơ bản về Thị trường Ngoại hối”, Khoá luận tốt nghiệp, trường ĐHNT 19 “Sự phát triển Thị trường Chứng khoán VN trong điều kiện hội nhập: thách thức và triển vọng”, Khoá luận tốt nghiệp, trường ĐHNT 20 “Công nghệ hoá và hiện đại hoá trong lĩnh vực ngân hàng-thực trạng và triển vọng”, Khoá luận tốt nghiệp, trường ĐHNT 21 Maurice D.Levi: International Finance-The Markets&Financial Management of Multinational Business; Mc Graw-Hill, Inc, 1996 22 Sam Y.Cross: The Foreign exchange Market in the United States, Federal Reserve Bank of New york, 1998

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan.doc
Tài liệu liên quan