Xóa bỏ sự khác biệt về mặt pháp lý và xây dựng một Luật công ty thống nhất áp dụng chung sẽ có nhiều ưu điểm.
- Tạo ra được khuôn khổ pháp lý rõ ràng, đơn giản và hiệu quả cho các nhà đầu tư cũng như nâng cao tính hiệu quả và đơn giản cho công tác quản lý Nhà nước.
- Tạo ra tâm lý tin tưởng, ổn định cho các nhà đầu tư, vì xóa bỏ sự phân biệt về mặt pháp lý cũng có nghĩa là xóa bỏ hoặc giảm dần sự phân biệt đối xử với các công ty có sở hữu khác nhau.
- Áp dụng cùng một luật làm cho người đầu tư nước ngoài được quyền thành lập công ty như mua cổ phiếu của các công ty nhà nước, ngược lại các nhà đầu tư trong nước cũng có thể mua cổ phiếu của các công ty nước ngoài và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Tạo ra cơ sở cho sự hình thành một thị trường vốn thống nhất và đồng nhất. Giá của hàng hóa trên thị trường được đánh giá đồng nhất và trung thực. Điều đó buộc các nhà quản trị kinh doanh phải luôn nỗ lực để nâng cao hiệu quả và sẽ không còn khả năng vận động tìm sự hỗ trợ và bảo trợ từ nhà nước. Đó cũng là yếu tố góp phần tạo ra sự công khai, rõ ràng cho các nhà đầu tư trong việc quyết định về luân chuyển vốn.
Tất cả những điều trên sẽ góp phần thúc đẩy những nhà đầu tư dài hạn, quy mô lớn, khuyến khích sự xâm nhập đan xen và kết hợp lẫn nhau giữa các nhà đầu tư. Đó cũng là nền tảng cho sự phát triển và mở rộng không ngừng của các công ty, tiến tới thành lập các TĐKT.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch cùng sử dụng các yếu tố sản xuất như công nghệ, vốn và thông tin với các thành viên khác của tập đoàn nhằm làm giảm chi phí giao dịch và tận dụng những lợi thế riêng có của mình như tính độc lập và sự linh hoạt vì họ có thể gia nhập hoặc rút khỏi một TĐKT nào đó hoặc đồng thời trở thành thành viên của hai tập đoàn khác nhau tuỳ theo lợi ích của mình. Lợi ích lớn nhất từ việc thiết lập mối quan hệ giữa TĐKT với các doanh nghiệp nhỏ này là sẽ hình thành một thị trường nội bộ với sự hợp tác nhiều hơn và cạnh tranh ít hơn giữa các thành viên. Bởi vì chính tập đoàn sẽ đóng vai trò chủ chốt trong quá trình điều chỉnh cơ cấu công nghiệp quốc gia khi xoá bỏ hoặc phát triển một số ngành, nên các doanh nghiệp nhỏ hợp tác với tập đoàn có thể nắm chắc định hướng điều chỉnh cơ cấu và nhận được sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật thị trường, v.v…từ các doanh nghiệp chủ chốt hoặc cơ bản để điều chỉnh cơ cấu sản phẩm và định hướng hoạt động của mình với chi phí và trở ngại thấp vào thời điểm điều chỉnh cơ cấu công nghiệp quốc gia. Đây là cách tốt nhất để tồn tại và phát triển đối với các doanh nghiệp nhỏ này.
*Là trung gian quan trọng để chính phủ quản lý các DNNN và thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.
Do chính phủ Trung Quốc đã xoá bỏ nhiều cơ quan giám sát chuyên ngành trong nền kinh tế kế hoạch hoá truyền thống để kiểm soát và quản lý các DNNN khi hình thành và phát triển hệ thống kinh tế thị trường. Trong khi đó TĐKT có rất nhiều thành viên, chẳng hạn như Tập đoàn Hoá dầu Trung Quốc, Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc và 10 đơn vị thành viên lớn có trên 1.000 doanh nghiệp thành viên cấp ba, do đó, chính phủ có thể quản lý một cách gián tiếp rất nhiều doanh nghiệp thành viên bằng cách trực tiếp kiểm soát tập đoàn thông qua mối quan hệ về vốn hoặc hệ thống hợp tác sản xuất chứ không hoàn toàn bằng biện pháp hành chính như trước kia. Vì vậy TĐKT đóng vai trò là người giám sát công nghiệp trực tiếp cho chính phủ.
Đồng thời, TĐKT lớn cũng trở thành người thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô vì chúng đã đưa một lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hệ thống sản xuất và hợp tác của mình. Và chỉ kênh này thôi đã là cách thức tốt nhất để thực hiện các chính sách công nghiệp quốc gia.
* Nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá Trung Quốc.
Việc xây dựng các TĐKT ở Trung Quốc tạo nền tảng cho việc tham gia vào cạnh tranh quốc tế. Vào năm 2002, quy mô của các tập đoàn đã được mở rộng bằng nhiều cách như sát nhập hoặc nhóm lại. Tổng tài sản cuối năm của các tập đoàn lên tới 12.804,5 tỷ NDT , với tỷ lệ tăng trưởng là 19,7%. Tài sản cố định trung bình của các tập đoàn là 4.700 triệu NDT , đối với những tập đoàn mà có công ty mẹ là DNNN hay tập đoàn có chủ sở hữu duy nhất là nhà nước thì con số đó tương ứng là 12,5 tỷ và 5,5 tỷ NDT . Có 179 tập đoàn có tài sản và doanh thu hoạt động đạt hơn 50 tỷ, tăng 39 tập đoàn so với năm 2001. 7 TĐKT có doanh thu lớn nhất được xếp vào danh sách 500 tập đoàn mạnh nhất hế giới.
Ngoại trừ những tập đoàn về vận tải, dịch vụ bưu chính viễn thông và nguyên liệu thô, trong lĩnh vực sản xuất, một số tập đoàn đã được thành lập như Haier, Hisence và Aucma, sản phẩm của họ có thể cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu cùng loại trên thị trường nội địa.
Những mặt hạn chế của TĐKT nhà nước Trung Quốc: Mặc dù TĐKT tăng trưởng rất nhanh, đóng vai trò chi phối và thậm chí là quyết định trong nền kinh tế quốc dân về phát triển kinh tế nói chung, nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề giữa các TĐKT Trung Quốc ở các khía cạnh dưới đây:
* TĐKT có quy mô tương đối nhỏ, sức mạnh kinh tế thấp và cơ cấu tổ chức không bình thường.
Việc tổ chức xây dựng TĐKT thường là sự gia tăng đơn giản về số lượng doanh nghiệp và khối lượng hàng hoá sản xuất được. Về mục đích liên kết, nhiều TĐKT chưa xác định rõ nghĩa vụ và mục đích xây dựng tập đoàn đã vội vã đăng ký xin giấy phép đăng ký kinh doanh. Các mối liên kết thường xảy ra tình trạng chạy theo phong trào, không tìm hiểu nghiên cứu kỹ tính khả thi của TĐKT dẫn đến kết quả là xây dựng tổ chức bừa bãi các TĐKT. Nhiều doanh nghiệp hơi lớn một chút đã tự xưng là TĐKT. Do vậy, quy mô của các TĐKT thiên về nhỏ, thực lực yếu khó có thể tạo ra sức cạnh tranh quốc tế. Mặt khác, các TĐKT chưa xây dựng được thể chế kinh doanh nhất thể hoá trong nội bộ tập đoàn nên thiếu mục tiêu kinh doanh đa dạng hoá giữa các ngành nghề phù hợp với kinh doanh quốc tế hoá.
Năm 2002, chỉ có 7,2% số TĐKT có lợi nhuận hoạt động lớn hơn 50 tỷ NDT, còn 53,5% là dưới 0,5 tỷ NDT. Theo bảng xếp hạng thu nhập hoạt động năm 2002 của “500 Doanh nghiệp mạnh nhất Trung Quốc”, tổng thu nhập hoạt động của họ là 6.900 tỷ NDT, thấp hơn tổng giá trị của 500 doanh nghiệp mạnh nhất năm 2001. Thu nhập hoạt động của các doanh nghiệp xếp hạng từ 1 đến 3, cụ thể là của tập đoàn Dầu khí Trung Quốc, Tập đoàn Công nghệ Hoá dầu Trung Quốc và Tập đoàn Thông tin di động Trung Quốc, tương ứng là 379,2 tỷ NDT, 378, 00401 tỷ NDT, 163,7212 tỷ NDT, và doanh nghiệp cuối cùng trong danh sách chỉ đạt 2,5 tỷ NDT.
Các văn bản nhà nước Trung Quốc về TĐKT quy định rằng công ty mẹ phải đạt được tiêu chuẩn quốc gia về doanh nghiệp lớn hoặc có vốn đăng ký trên 100 triệu NDT và có ít nhất 5 công ty con mà nó chi phối. Nhưng có 23,1% tổng số tập đoàn có ít hơn 5 doanh nghiệp thành viên và có 163 tập đoàn không có công ty con. Đây là minh chứng về cơ cấu tổ chức bất thường của các tập đoàn kinh tế Trung Quốc.
* Hầu hết các doanh nghiệp cần được tổ chức lại từ bên trong.
Có hai con đường hình thành TĐKT ở Trung Quốc : Một là bằng biện pháp hành chính mà chính phủ sử dụng để bắt buộc hình thành nên một tập đoàn, điều này làm cho các đơn vị thành viên phân phối tài sản với nhau một cách thiếu trật tự và làm giảm hiệu quả hoạt động của họ; cách thứ hai là các doanh nghiệp tự nguyện liên kết với nhau tuy vậy vẫn có vấn đề là các doanh nghiệp không tỉnh táo khi tìm cách mở rộng quy mô mà phải trả giá là hiệu quả hoạt động giảm.
Rõ ràng là sự phân phối không hợp lý các nguồn lực là rất phổ biến trong cả hai cách do thiếu mối liên kết chặt chẽ giữa các ngành nghề kinh doanh, thiếu ngành nghề chính có hiệu quả và lợi thế thị trường và năng lực cạnh tranh còn mơ hồ. Do đó, cần phải tổ chức lại và phân phối lại tài sản của tập đoàn để nâng cao lợi nhuận và năng lực cạnh tranh của tập đoàn.
Doanh nghiệp muốn có lợi thế cạnh tranh trên thị trường sẽ phải có năng lực cạnh tranh của chính mình, điều này thể hiện hoàn toàn ở năng lực sáng tạo công nghệ. Ngoài ra, việc thiếu đầu vào khoa học là nhân tố chính làm cản trở quá trình sáng tạo công nghệ và nâng cao năng lực chuyên môn chính. Mặc dù chi phí cho nghiên cứu và phát triển của tập đoàn đã tăng 39,4% vào năm 2002 so với năm trước, nhưng tỷ lệ chi phí bình quân cho nghiên cứu và phát triển trong thu nhập hoạt động chỉ là 1% và số lượng các tập đoàn có tỷ lệ dưới 1% là 76,7%, trong khi tỷ lệ chi trên 5% chỉ là 3,3%, điều này rất không phù hợp với thông lệ quốc tế
* Thể chế quản lý của nhà nước đối với các TĐKT chưa hoàn toàn hợp lý:
Những quy định về mở rộng quyền tự chủ đã ban bố hiện nay là những quy định đối với các doanh nghiệp đơn lẻ chứ chưa giải quyết vấn đề tự chủ cho các TĐKT. Quyền phê duyệt, quyền nhận đầu tư đều bị hạn chế, mức tiền vay bị hạn chế theo từng khoản chứ không được dựa theo kế hoạch, việc nộp thuế trùng lặp. Đặc biệt, việc quản lý trong nội bộ tập đoàn chưa hoàn thiện, nó thể hiện ở chỗ:
Một là: Yêu cầu về chương trình hoạt động của một số doanh nghiệp chưa rõ ràng, tính đúng đắn chưa đủ, sức ràng buộc không mạnh rơi vào hình thức chủ nghĩa.
Hai là: Trong nội bộ tập đoàn chưa hình thành những biện pháp và chế độ quản lý kinh doanh có hiệu quả, nhất quán. Trong tình hình môi trường kinh doanh ở bên ngoài có những biến động tương đối lớn như điều chỉnh giá cả, điều chỉnh thu thuế làm cho quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp phức tạp, ảnh hưởng đến sức mạnh tập trung của tập đoàn.
Ba là: Về mặt sắp xếp bộ máy, quản lý nhân sự còn ít cán bộ tháo vát, ban giám đốc hoặc nhân sự ban quản lý còn có nhiều biến động, tạo nên tình trạng thiếu người làm việc.
Thiếu sự đảm bảo về phát triển trong phát triển TĐKT: Các hạng mục đầu tư lớn có chu trình dài, các bên liên hợp đều có rủi ro lớn nhưng không có sự đảm bảo của pháp luật. Trong điều kiện thị trường biến động các bên đều có thể đơn phương xoá bỏ hợp đồng, rút ra khỏi liên hợp. Tình hình này rất bất lợi cho việc phát triển lâu dài và ổn định của các TĐKT, đồng thời giữa các doanh nghiệp luôn có va chạm về quản lý và phân phối lợi ích làm cho việc củng cố và phát triển tập đoàn bị hạn chế.
* Chưa thiết lập được các cơ chế khuyến khích và trách nhiệm hiệu quả.
Vì tài sản cuả các tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước có giá trị lớn, nên giám đốc của tập đoàn phải có trách nhiệm rất lớn đối với số tài sản này. Nhưng trong thực tế, quyền lợi và nghĩa vụ của người giám đốc không cân xứng nhau. Hệ thống bổ nhiệm và lương bổng của ban giám đốc là theo tiêu chuẩn của cán bộ công chức nhà nước, điều này làm cho ông ta có thể điều hành hoạt động bình thường của tập đoàn với rủi ro và nghĩa vụ thấp dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp của cả tập đoàn.
Một số tập đoàn kinh tế gặp trở ngại trong kinh doanh vì gánh nặng xã hội trong quá khứ và khó khăn trong việc tách khỏi các nghĩa vụ xã hội đó. Năm 2002, có 59 TĐKT làm ăn thua lỗ, chiếm 21% tổng số các tập đoàn , cao hơn 2,1 so với năm trước. Tổng giá trị tài sản thua lỗ là 33,1 tỷ NDT, tăng 40,9% so với năm trước. Mặt khác, các gánh nặng nghĩa vụ truyền thống có từ thời kinh tế kế hoạch hoá cũng đang làm giảm khả năng sinh lời của tập đoàn. Ngoài ra, một loạt các chi phí do cải cách, sáp nhập, tổ chức lại, phá sản, đánh giá lại tài sản, dịch vụ trung gian và chính sách không tốt đã trở thành gánh nặng mới cho tập đoàn.
2.3.2. Xu hướng phát triển của TĐKT Trung Quốc trong tương lai.
Thứ nhất, TĐKT sẽ đảm nhiệm chức năng ngày càng quan trọng trong nền kinh tế.
Kể từ khi cải cách và mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc đã có sự tăng tưởng cao và gia tăng trong tổng thu nhập. Vị thế của nền kinh tế Trung Quốc trên thế giới cũng đang dần dần tăng lên. Nền kinh tế Trung Quốc xếp thứ 7 vào năm 1999, thứ 6 năm 2000; vào năm 2000, nền kinh tế Trung Quốc chiếm 3,4% trong nền kinh tế thế giới và vào năm 2001, con số này tăng lên thành 3,7%. Trong một thời kỳ tương đối dài trong tương lai, xu hướng này sẽ vẫn được duy trì. Theo một số chuyên gia, GDP của Trung Quốc sẽ vượt qua Pháp vao năm 2005; dự kiến Trung Quốc sẽ trở thành nến kinh tế lớn thứ ba trên thế giới; vào 2050, Trung Quốc sẽ vượt qua Nhật Bản và trở thành nền kinh tế lớn thứ hai. Theo điều kiện phân bố của 500 doanh nghiệp mạnh, có thể đánh giá rằng các tập đoàn kinh tế của Trung Quốc sẽ có bước tiến xa hơn cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Theo tình hình hiện nay của các tập đoàn kinh tế, số lượng các tập đoàn sẽ không tăng nhiều và sẽ có thể giảm xuống do sự sáp nhập và nhóm lại của các doanh nghiệp - đặc biệt là sự sáp nhập và nhóm lại của các doanh nghiệp lớn.
Thứ hai, tận dụng lợi thế so sánh của các nguồn lực của Trung Quốc để nâng cao khả năng cạnh tranh là chìa khoá của sự phát triển các tập đoàn kinh tế Trung Quốc.
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, nền kinh tế Trung Quốc đã áp dụng các chính sách mở cửa trong mọi lĩnh vực. Thị trường nội địa ngày càng được quốc tế hoá. Nhiều tập đoàn đa quốc gia đã đến và đầu tư thêm vào Trung Quốc, điều chỉnh các chiến lược hoạt động. Các tập đoàn kinh tế nhà nước Trung Quốc đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các tập đoàn đa quốc gia. Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh, các tập đoàn kinh tế Trung Quốc sẽ phải có khả năng cạnh tranh, đặc biệt là khả năng cạnh tranh quốc tế, và không thể dựa dẫm vào sự bảo hộ của chính phủ Trung Quốc. Đồng thời, trong kỷ nguyên toàn cầu hoá kinh tế, kinh tế Trung Quốc phải chuẩn bị các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu và hoạt động trên toàn thế giới. Điều đó sẽ buộc các tập đoàn kinh tế nhà nước Trung Quốc phải cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước và các công ty đa quốc gia, cũng đòi hỏi các tập đoàn kinh tế Trung Quốc phải có khả năng cạnh tranh quốc tế. Để tìm được vị trí của mình trong quá trình toàn cầu hoá, Trung Quốc cần dựa vào lợi thế của Trung Quốc về các nguồn lực là lao động rẻ. Do đó, các ngành sử dụng nhiều lao động và vốn tương đối lớn là những ngành chính có thể mang lại sự tăng trưởng cho các tập đoàn kinh tế Trung Quốc
Thứ ba, tỷ lệ các tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước hay do nhà nước kiểm soát sẽ giảm xuống.
Hiện tại, các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước hay do nhà nước kiểm soát hoàn toàn chiếm ưu thế trong các tập đoàn và có sức mạnh kiểm soát. Với công cuộc cải cách kinh tế ngày càng sâu rộng của Trung Quốc, sự phát triển của kinh tế phi nhà nước và sự tăng lên của đầu tư, các TĐKT thuộc sở hữu nhà nước hay do nhà nước kiểm soát cần phải tiếp tục phát triển. Số lượng, quy mô tài sản tỷ lệ doanh thu của các tập đoàn doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hay do nhà nước kiểm soát sẽ có thể tăng lên và ảnh hưởng của chúng đối với nền kinh tế quốc dân cũng sẽ tăng lên. Đồng thời, các kinh tế gồm cả các cơ quan đầu tư nhà nước, phi nhà nước và nước ngoài sẽ phát triển trong tương lai. Tỷ lệ các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước hay do nhà nước kiểm soát sẽ giảm đi một cách tương đối. Sự giảm xuống này có nghĩa là sự mở rộng của nền kinh tế. Và điều đó cũng có nghĩa là cơ cấu của nền kinh tế quốc dân hợp lý hơn và việc điều hành nền kinh tế đồng bộ hơn.
2.3.3. đánh giá chung.
Qua quá trình hình thành và phát triển TĐKT nhà nước của Trung Quốc có thể nhận thấy rằng đây là một chủ trương đúng đắn của chính phủ Trung Quốc tiến trình cải cách nền kinh tế nói chung và cải cách DNNN nói riêng. Trung Quốc phát triển TĐKT qua nhiều giai đoạn, tiến hành thử nghiệm, rút kinh nghiệm để tìm ra phương thức quản lý nhà nước hiệu quả nhất đối với các TĐKT này.
Mô hình này phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế Trung Quốc – nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Các TĐKT nhà nước góp phần thúc đẩy kinh tế Trung Quốc tăng trưởng mạnh, ổn định trong những năm gần đây. Các TĐKT nhà nước có hai dạng, một là thuộc sở hữu nhà nước hoàn toàn, hai là đa sở hữu trong đó sở hữu nhà nước chiếm tỷ trọng lớn. Do đó thành phần kinh tế nhà nước vẫn duy trì được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhà nước có thể thông qua các TĐKT để định hướng phát triển cho toàn bộ nền kinh tế. Phát triển các TĐKT nhà nước cũng đồng thời thúc đẩy các thành phần kinh tế khác hoạt động hiệu quả hơn. Nhà nước để tạo điều kiện cho các TĐKT phát triển sẽ tích cực hơn trong việc tạo dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi, hình thành đồng bộ các hệ thống thị trường….
Tuy nhiên, như bất kỳ một mô hình kinh tế nào, TĐKT nhà nước của Trung Quốc cũng có những nhược điểm. Quá trình hình thành và phát triển còn chịu nhiều ảnh hưởng các lực lượng phi thị trường. Các TĐKT nhà nước ở Trung Quốc thường là độc quyền hoặc nửa độc quyền dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng. Nhiều địa phương chạy theo số lượng vội vã khi ra quyết định thành lập các TĐKT không quan tâm đến lợi ích thực tế của các doanh nghiệp được sáp nhập. Có trường hợp doanh nghiệp tự nguyện liên kết, hợp tác với nhau nhưng không tìm hiểu kỹ cũng dẫn tới hiệu qủa kinh doanh kém.
Để các TĐKT nhà nước phát triển hơn nữa Trung Quốc cần tiến hành cải cách sâu rộng hơn, thực hiện triệt để các chính sách pháp luật liên quan. Bên cạnh phát triển các TĐKT nhà nước cũng cần tạo điều kiện để các TĐKT thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển, tạo môi trường cạnh tranh, cùng phát triển.
Chương 3
Những bài học kinh nghiệm đối với việt naM trong quá trình hình thành và phát triển
tập đoàn kinh tế Nhà nước
3.1. Quan điểm của Đảng và Chính phủ Việt Nam về vấn đề hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế.
Sau gần 15 năm đổi mới, trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, với nhiều thành phần kinh tế, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta sẽ chính thức gia nhập AFTA và tương lai không xa là WTO… nền kinh tế nước ra cần có sự tăng trưởng và tích luỹ để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, vấn đề cấp bách là phải có những bước tiến mới trong đổi mới và phát triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Đây là quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước bằng cách phân loại doanh nghiệp để củng cố, sáp nhập, hợp nhất, cổ phần hóa các hình thức sở hữu, giải thể hoặc phá sản. Việc sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng như vậy sẽ tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, mở ra con đường thúc đẩy ra đời của tập đoàn kinh tế.
Mặt khác, thực hiện chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền kinh tế thị trường là chấp nhận sự cạnh trang gay gắt trên toàn cầu, đặc biệt là cạnh tranh với các nước trong khu vực, trong khi xuất phát điểm của nước ta còn thấp và việc giành được chỗ đứng trên thị trường thế giới còn khó khăn. Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần phải có những doanh nghiệp có quy mỗ rất lớn, với trình độ kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến, có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Đảm nhận vai trò quan trọng đó phải là các tập đoàn kinh tế của Việt Nam.
Sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường só sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, bối cảnh mới của thế giới và khu vực, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài mà tìm ra phương hướng và giải pháp để hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế của Việt Nam trên cơ sở thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế. Vì vậy, ngày 7/3/1994, theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 90, 91/TTg về “Thí điểm thành lập các tập đoàn kinh doanh” để làm tiền đề nhằm phát triển thành các TĐKT sau này. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu mốc trong việc sắp xếp lại các Tổng công ty và thí điểm thành lập các tập đoàn kinh doanh ở nước ta. Đây cũng là biện pháp hết sức đúng đắn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta nhằm đưa đất nước vào “guồng máy” của sự phát triển.
Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đến tháng 2/2001 cả nước có 17 Tổng công ty 91 dó Chính phủ quản lý và 76 Tổng công ty 90 do các bộ quản lý với 1.392 đơn vị thành viên hạch toán độc lập, chiếm 24% tổng số doanh nghiệp cả nước, nắm giữ 66% về vốn, 61% về lao động (riêng 17 Tổng công ty 91 có 532 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 9% số lượng doanh nghiệp Nhà nước, 56% tổng vốn kinh doanh, 35% lao động). Đa số các Tổng công ty được tổ chức lại từ các liên hiệp xí nghiệp đã được thành lập theo mô hình cũ.
Bảng 4
Một số chỉ tiêu về các Tổng công ty 90 và 91
Tổng số
So sánh (a)
Tổng công ty 91
So sánh (a)
Tổng công ty 91
So sánh (a)
Số Tổng công ty
93
-
17
-
76
-
Số doanh nghiệp thành viên
1.392
24%
542
10%
860
14%
Số lao động (nghìn người)
1.037
61%
603
35,7%
434
25,3%
Số lượng vốn từ ngân sách (tỷ đồng)
76.812
66%
51.208
44%
25.604
22%
Vốn bình quân một Tổng công ty (tỷ đồng)
-
-
3.882
-
280
-
* Nguồn: Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp.
(a) So với các chỉ tiêu tương ứng trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đến cuối tháng 2/2001.
Thực tế hoạt động của các Tổng công ty thời gian qua đã mang lại một số kế quả như:
- Phần lớn, các Tổng công ty đã chủ động xây dựng kế hoạch phát triển Tổng công ty đến năm 2010, chủ yếu hướng vào phát triển nội lực là chính. Nhiều Công ty đã xây dựng được chiến lược phát triển kỹ thuật – công nghệ nhằm tăng năng lực cạnh tranh, hạn chế đầu tư dàn trải.
- Việc thành lập các Tổng công ty tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn và thực hiện điều phối các nguồn lực hợp lý, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng vị thế doanh nghiệp trên trường quốc tế.
- Có sự hỗ trợ về vốn, công nghệ, thị trường trong và ngoài nước, tăng khả năng đấu thầu cho các doanh nghiệp thành viên.
- Sự hoạt động của các Tổng công ty đã nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh góp phần mở rộng thị phần xuất nhập khẩu.
- Đảm bảo cân đối nền kinh tế: Hầu hết các Tổng công ty đảm nhận vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu cung cấp các sản phẩm chủ yếu, điều hòa giá cả, phân phối hàng hóa, góp phần ổn định kinh tế –xã hội .
Bên cạnh những thành công mà các Tổng công ty đem lại cho nền kinh tế trong thời gian qua, chúng vẫn còn tồn tại một số yếu kém như:
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế xã hội, cụ thể tình trạng thiếu vốn ở các Tổng công ty và doanh nghiệp là phổ biến, năng xuất lao động còn thấp, chi phí sản xuất lớn làm cho giá thành cao, hàng hóa chưa có sức cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới.
- Nội dung sở hữu về vốn chưa được xác định rõ ràng giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên. Tổng công ty chưa điều tiết được vốn giữa các đơn vị thành viên theo mục tiêu đầu tư phát triển chung của toàn Tổng công ty. Do đó bộ máy Tổng công ty còn mang nặng tính chất hành chính trung gian, chưa thực sự làm được vai trò của bộ máy quản lý và điều hành hoạt động của Tổng công ty. Kết quả là nhiều Tổng công ty được hình thành bằng “Phép cộng số học” đơn thuần các doanh nghiệp thành viên lại với nhau, nên chúng không có quan hệ mật thiết trong sản xuất kinh doanh hoặc về công nghệ tài chính. Nhiều Tổng công ty biến thành cơ quan quản lý hành chính cấp trên mà không có tác dụng gì đối với các doanh nghiệp thành viên. Quan hệ Tổng công ty với các thành viên mới chỉ là hình thức, chưa có nội dung. Trong hoạt động chưa tạo ra mối quan hệ dính kết giữa Tổng công ty và các đơn vị thành viên.
- Về địa vị pháp lý và thành phần Hội đồng quản trị quy định chưa phù hợp, chưa rõ ràng, khó phân biệt quyền hạn và trách nhiệm giữa Hội đồng quản trị với Tổng Giám đốc, do đó có sự tranh chấp quyền lực giữa Hội đồng quản trị với Tổng Giám đốc.
- Trong mối quan hệ kinh tế với các tập đoàn kinh doanh nước ngoài còn nhiều hạn chế cả về năng lực và nhận thức.
- Cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, chồng chéo, nhất là cơ chế tài chính chưa tạo điều kiện huy động đa dạng các nguồn vốn. Do đó chậm đổi mới quy trình công nghệ, sản phẩm kém cạnh tranh, khả năng mở rộng sản xuất bị hạn chế. Chính vì vậy mà hoạt động của các Tổng công ty đạt hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu trong sự nghiệp đối mới nền kinh tế.
Như vậy, chúng ta chưa có các tập đoàn kinh tế theo đúng nghĩa của nó và việc hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh vẫn là yêu cầu bức thiết đặt ra cho nền kinh tế nước ta. Hơn nữa nền kinh tế Việt Nam về cơ bản cũng đã hội tụ được một số yếu tố cho phép thành lập và phát triển các TĐKT lớn như:
- Trình độ tích tụ, tập trung và liên kết kinh tế ở một số ngành đã đạt mức nhất định. Những ngành này đều giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đảm bảo những yêu cầu cần thiết cho thị trường và có triển vọng phát triển. Chính sự ra đời của các TĐKT lớn sẽ thúc đẩy hơn nữa trình độ tích tụ, tập trung hoá sản xuất.
Tại thời điểm năm 2001, vốn nhà nước tại các Tổng công ty 91 là 116.138 tỷ đồng (gấp 2 lần so với năm 1996), chiếm 66,8% vốn nhà nước tại các DNNN; tổng giá trị tài sản đạt 164.076 tỷ đồng, chiếm 31,7% tổng giá trị tài sản của khu vực DNNN. Ngoài vốn Nhà nước, vốn tư bổ sung thêm của 17 Tổng công ty 91 là 18.038 tỷ đồng, chiếm 22,5% tỏng số vốn. Một số Tổng công ty đã chiếm tỷ trọng khá lớn trong một số ngành, như Tổng công ty Điện lực chiếm 37,46% tổng giá trị vốn của ngành điện lực và gas; Tổng công ty Cao su chiếm 35,41% tổng giá trị vốn của ngành cao su và nhựa; Tổng công ty Than chiếm 37,76% tổng giá trị vốn của ngành than; Tổng công ty Dầu khí chiếm 35,97 tổng giá trị vốn của ngành dầu khí; Tổng công ty Thuốc lá chiếm 27,9% tổng giá trị vốn của ngành thuốc lá…
Về sản xuất kinh doanh, Tổng công ty 91 nói chung chiếm khoảng 42% tổng doanh thu của khu vực DNNN; 90% lợi nhuận; 80% nộp ngân sách… Bằng nhiều biện pháp, quy mô tổ chức của Tổng công ty 91 ngày càng được mở rộng. Đến nay, bình quân mỗi Tổng công ty 91 có 34 đơn vị thành viên (theo quy định phải có tối thiểu 7 đơn vị), trong đó một số Tổng công ty 91 có số lượng thành viên rất lớn như Bưu chính viễn thông có 96 đơn vị thành viên với đa dạng các hình thức sở hữu gồm các đơn vị hạch toán phụ thuộc, các đơn vị hạch toán độc lập, công ty cổ phần; Tổng công ty Điện lực có 53 đơn vị gồm 20 đơn vị hạch toán phụ thuộc, 14 đơn vị hạch toán độc lập, 6 đơn vị sự nghiệp và 13 ban quản lý dự án. Tại một số Tổng công ty, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp thành viên đã và đang được thực hiện. Đây là một điều kiện tiềm năng để phát triển thành lập TĐKT với số lượng lớn đông đảo doanh nghiệp thành viên.
Thị phần nội địa của các Tổng công ty 91 nhìn chung chiếm tỷ trọng lớn và đang có xu hướng nâng cao nhờ lợi thế quy mô, năng lực bản thân cũng như sự hỗ trợ của nhà nước. Tổng công ty Điện lực cung cấp cho nền kinh tế quốc dân 94% sản lượng điện, Tổng công ty Than cung cấp 97% sản lượng than, Tổng công ty Thuốc lá cung cấp 63% sản lượng thuốc lá, Tổng công ty Xi măng cung cấp 59% sản lượng xi măng, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam chi phối phần lớn lĩnh vực khai thác và cung cấp dầu thô của cả nước, Tổng công ty Bưu chính viễn thông chiếm tỷ trọng lớn trong việc cung cấp dịch vụ bưu chính viễn thông trên thị trường cả nước…
- Đội ngũ các chủ doanh nghiệp và các nhà quản lý điều hành đã được nâng cao về trình độ trí thức, chuyên môn, vững vàng bản lĩnh chính trị, đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và thế giới. Tiềm lực khoa học - công nghệ đã được nâng lên đáng kể: từ năm 1997 đến nay, nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ của cả nước đã tăng gấp 1,5 lần. Cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ đại học đạt xấp xỉ 1,3 triệu và hàng năm bổ sung thêm khoảng 180.000 người. Cán bộ có trình độ tiến sĩ đã tăng lên hơn 15.000 người vào năm 2000. Trình độ, năng lực cán bộ trong một số ngành và trình độ đội ngũ cán bộ nghiên cứu cơ bản đã được nâng cao. Nhìn chung đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ đã có khả năng làm chủ và thích nghi với công nghệ tiên tiến của các nước trên thế giới, ở một số lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
- Nước ta đã mở rộng quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, quan hệ thương mại với hơn 150 nước trên thế giới. Do thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1987 và đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần qua các giai đoạn cho phù hợp….nên đã thu hút được khá nhiều các TĐKT nước ngoài vào hoạt động, mở rộng các mối quan hệ kinh tế. Vì vậy các Tổng công ty và các doanh nghiệp của nước ta đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm, nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình cả trên thị trường trong nước và nước ngoài, đủ sức mạnh vươn lên trên con đường hội nhập thế giới.
- Sự phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam đã góp phần làm cho nền kinh tế phát triển sống động hơn. Đến tháng 7 – 2001 cả nước đã có 68 khu công nghiệp tập trung, trên diện tích khoảng hơn 11.000 ha (không kể 14.000 ha của khu công nghiệp Dung Quất thuộc loại đặc biệt), phân bố trên 28 tỉnh, thành phố; trong đó miền Bắc có 14 khu, miền Nam có 41 khu và miền Trung có 13 khu. Sự phát triển của chúng không chỉ góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước mà còn tạo tiền đề tạo ra các yếu tố để liên kết các doanh nghiệp nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước tại Việt Nam, nâng cao kim ngạch xuất khẩu của đất nước; là trung tâm tạo công ăn việc làm, thu hút hơn 210.000 lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp và hàng chục nghìn lao động trong các công đoạn phụ trợ cho sản xuất chính; góp phần đào tạo, nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội, tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng mới…
- Về môi trường kinh doanh: chúng ta đã có hệ thống pháp luật và các văn bản pháp quy tương đối chặt chẽ, cụ thể và ngày càng được hoàn thiện cho phù hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế.
Trên cơ sở những điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi như vây, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa IX đã chỉ rõ: “Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc doanh, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh”.
Để các TĐKT phát triển bền vững, đạt được những mục tiêu đề ra, chúng ta cần phải khắc phục được những khuyết điểm đã mắc phải khi xây dựng các Tổng công ty trước đây đồng thời học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của các nước khác, tiêu biểu là Trung Quốc – một nước đã đi trước chúng ta trong việc hình thành và phát triển các TĐKT của nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
3.2. Những nét tương đồng của Việt Nam và Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc đều là những nước đang phát triển có trình độ phát triển kinh tế – xã hội chênh lệch nhau không nhiều, có những nét đặc trưng văn hoá truyền thống gần gũi và mối quan hệ giao lưu từ rất lâu đời. Đặc biệt, cơ sở vật chất để xây dựng CNXH và tiến hành đổi mới ở cả hai nước đều nghèo nàn và lạc hậu. Trung Quốc phải chịu hậu quả rất lớn do cuộc “Đại cách mạng văn hoá” do bè lũ bốn tên gây ra còn Việt Nam phải chịu hậu qủa nặng nề của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Hai nước đều mắc phải những sai lầm của cơ chế kế hoạch hoá, tập trung hoá một cách hành chính cứng nhắc, Trung Quốc qúa coi trọng sở hữu quốc doanh, tập thể, hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Thực hiện phân phối theo kiểu bình quan chủ nghĩa, không đề cao vai trò của năng suất lao động…
Việt Nam và Trung Quốc đều do Đảng cộng sản lãnh đạo duy nhất, đều có định hướng phát triển nền kinh tế thị trường XHCH có sự điều tiết của nhà nước. Quá trình cải cách nền kinh tế đều tập trung chú trọng vào khu vực kinh tế nhà nước như cái cách doanh nghiệp nhà nước, hình thành và phát triển các TĐKT nhà nước. Về phương pháp cái cách, cả hai nước đều áp dụng phương pháp “cải cách từng bước”, dựa vào thực tiễn của đất nước mình, tham khảo có chọn lọc các cơ sở lý luận của thế giới.
Trong thực tiễn của quá trình cải cách, Việt Nam và Trung Quốc đều không tránh khỏi những sai lầm, thất bại. Việt Nam với lợi thế là một nước đi sau, chính vì vậy kinh nghiệm cải cách doanh nghiệp nhà nước nói chung và xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước nói riêng ở Trung Quốc có thể được coi là những bài học bổ ích cho chúng ta vận dụng.
Những bài học của Trung Quốc về hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước.
3.3.1.Về vai trò của nhà nước.
Cũng như Trung Quốc, việc hình thành các TĐKT ở Việt Nam chịu sự tác động có tính quyết định của Nhà nước. Lý do là:
- Sự hình thành TĐKT ở nước ta tuy trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, song sở hữu Nhà nước vẫn phải giữ vai trò nòng cốt. Vì vậy, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc lựa chọn lĩnh vực, phương hướng hình thành TĐKT.
- Việc phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi Nhà nước phải vạch ra chiến lược lâu dài về phát triển kinh doanh của các TĐKT, bảo đảm cho các TĐKT đó phục vụ định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
- Nhà nước có chính sách đầu tư phát triển TĐKT theo định hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư của đất nước phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.
Theo kinh nghiệm của Trung Quốc Việt Nam cần thực hiện một số biện pháp sau:
Một là, tiếp tục bổ sung hoàn thiện hệ thống luật kinh tế như các luật thương mại, luật về chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước, luật kiểm soát độc quyền.
Để xây dựng được môi trường kinh doanh an toàn, ổn định, thuận lợi và bình đẳng trước hết phải tạo được khuôn khổ pháp lý phù hợp với cơ chế thị trường. Đối với hoạt động của doanh nghiệp thì các luật kinh tế được coi là quan trọng nhất như luật thương mại, luật về chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước.
Để TĐKT ra đời và hoạt động có hiệu quả cần sửa đổi, bổ sung luật DNNN theo hướng tăng cường quyền quyết định của hội đồng quản trị đối với việc bổ nhiệm và bãi miễn giám đốc, tăng trách nhiệm cá nhân các thành viên hội đồng quản trị, bổ sung loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần sở hữu nhà nước vào luật doanh nghiệp nhà nước hay Luật công ty sửa đổi.
Liên quan đến hình thành và phát triển các TĐKT trong đó quan trọng nhất phải kể đến Luật công ty. Công ty, đặc biệt là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là cơ sở để hình thành và phát triển đồng thời là bộ phận cấu thành của TĐKT. Vì vậy, Luật công ty là cơ sở pháp lý cơ bản cho sự hình thành và phát triển các loại hình công ty, cũng là các TĐKT. Để thúc đẩy sự hình thành và phát triển của TĐKT ở nước ta, Luật công ty hiện hành cần phải sửa đổi một số điều sau:
* Xây dựng hoàn chỉnh luật công ty.
- Xóa bỏ sự khác biệt về mặt pháp lý và xây dựng một Luật công ty thống nhất áp dụng chung sẽ có nhiều ưu điểm.
- Tạo ra được khuôn khổ pháp lý rõ ràng, đơn giản và hiệu quả cho các nhà đầu tư cũng như nâng cao tính hiệu quả và đơn giản cho công tác quản lý Nhà nước.
- Tạo ra tâm lý tin tưởng, ổn định cho các nhà đầu tư, vì xóa bỏ sự phân biệt về mặt pháp lý cũng có nghĩa là xóa bỏ hoặc giảm dần sự phân biệt đối xử với các công ty có sở hữu khác nhau.
- áp dụng cùng một luật làm cho người đầu tư nước ngoài được quyền thành lập công ty như mua cổ phiếu của các công ty nhà nước, ngược lại các nhà đầu tư trong nước cũng có thể mua cổ phiếu của các công ty nước ngoài và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Tạo ra cơ sở cho sự hình thành một thị trường vốn thống nhất và đồng nhất. Giá của hàng hóa trên thị trường được đánh giá đồng nhất và trung thực. Điều đó buộc các nhà quản trị kinh doanh phải luôn nỗ lực để nâng cao hiệu quả và sẽ không còn khả năng vận động tìm sự hỗ trợ và bảo trợ từ nhà nước. Đó cũng là yếu tố góp phần tạo ra sự công khai, rõ ràng cho các nhà đầu tư trong việc quyết định về luân chuyển vốn.
Tất cả những điều trên sẽ góp phần thúc đẩy những nhà đầu tư dài hạn, quy mô lớn, khuyến khích sự xâm nhập đan xen và kết hợp lẫn nhau giữa các nhà đầu tư. Đó cũng là nền tảng cho sự phát triển và mở rộng không ngừng của các công ty, tiến tới thành lập các TĐKT.
* Cho phép thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu.
Trong thực tế, đời sống kinh tế ở Việt Nam đã xuất hiện ngày càng nhiều đơn vị kinh tế có nhu cầu được hoạt động theo loại hình doanh nghiệp một chủ chịu trách nhiệm hữu hạn trước hết đó là DNNN, doanh nghiệp của các cơn quan đoàn thể chính trị – xã hội, doanh nghiệp của người nước ngoài, doanh nghiệp của Việt Nam. Việc chỉ cho phép thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều chủ sẽ làm hạn chế lớn đến sự linh hoạt của người đầu tư việc tìm kiếm một cơ cấu đầu tư với mức rủi ro thấp nhất. Do đó khi mở rộng kinh doanh, đặc biệt là trong những lúc không muốn có sự xâm nhập của người khác, công ty chỉ có cách thành lập chi nhánh. Công ty với một chủ sở hữu là điều kiện cần thiết để các công ty không phân biệt thành phần kinh tế có thể áp dụng chung cùng một luật. Đó cũng là cơ sở pháp lý để thực hiện công ty hóa DNNN, thúc đẩy phát triển thị trường vốn - thị trường quan trọng cho sự ra đời và phát triển TĐKT.
Hai là, xây dựng và bảo đảm môi trường kinh doanh thuận lợi để DN tự do kinh doanh và được cạnh tranh bình đẳng lành mạnh.
Sự bình đẳng đối với các doanh nghiệp trong đó có TĐKT không phải là “cào bằng” mà là xác định đúng mức vai trò, vị trí của mỗi loại hình doanh nghiệp và mỗi loại hình TĐKT. Tập đoàn kinh tế là loại hình doanh nghiệp lớn, nó có những ưu thế hơn so với doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng nó cũng có những khó khăn mà doanh nghiệp vừa và nhỏ không có. Hơn thế nữa, nó là mô hình mới mẻ ở nước ta, có vai trò quan trọng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vì vậy nhà nước cần phải có những trợ giúp, ưu đãi đúng mức cho nó về thuế, vốn vay về hỗ trợ pháp lý… Chẳng hạn, vấn đề về thuế đối với các tập đoàn mới thành lập, nhà nước nên giảm, miễn thuế trong những năm đầu để khuyến khích phát triển, miễn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tái đầu tư để mở rộng sản xuất.
Nhà nước có thể áp dụng chính sách hỗ trợ lãi đối với các tập đoàn mới thành lập, giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Tức là nhà nước giúp các TĐKT này hoạt động bằng cách ưu tiên dùng ngân sách để trả giúp một phần lãi suất. Các ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh có mục đích lợi nhuận, tỷ lệ lãi suất của ngân hàng theo điều kiện thị trường, nên nhà nước có chính sách trợ giúp sẽ tạo điều kiện để tập đoàn vay ngân hàng và trả hộ một phần lãi suất ngân hàng.
Nhà nước cũng nên xem xét lại chế độ thế chấp đối với DNNN kinh doanh có hiệu quả, nâng mức cho vay so với tài sản thế chấp, bỏ chế độ thế chấp đối với các doanh nghiệp này. Mở rộng quy chế bảo lãnh để tập đoàn huy động thêm vốn đầu tư, tạo cơ chế để các ngân hàng thương mại tham gia với tư cách nhà đầu tư vào các TĐKT.
Nghiên cứu xóa bỏ chế độ thu tiền sử dụng vốn ngân sách đối với các DNNN nói chung và các TĐKT nói riêng để cho họ có thêm nguồn lực tài chính.
Ba là, sớm hình thành đồng bộ hệ thống thị trường thống nhất, thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường lao động… mà trọng tâm là thị trường chứng khoán, hoàn thiện hế thống ngân hàng.
Thị trường chứng khoán có nhiều tác động tích cực đẩy sự phát triển của các công ty và các tập đoàn kinh tế. Nó là cộng sự hữu hiệu để huy động vốn của các công ty, là nơi bỏ vào hoặc rút vốn ra một cách nhanh chóng của các nhà đầu tư. Mặt khác, đó là nơi phản ánh đúng đắn giá trị của công ty cũng như cổ phần của nó. Do đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán một hay toàn bộ công ty, thúc đẩy sự xâm nhập, thôn tính lẫn nhau giữa các công ty tạo thành những công ty có quy mô lớn hơn hoặc chùm các công ty gắn bó với nhau qua góp vốn.
Như vậy, thị trường chứng khoán là môi trường góp phần thúc đẩy và tạo điều kiện thực hiện cả ba con đường hình thành nên các TĐKT (mua bán, thôn tính, sáp nhập). Việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán trong những năm tới là một đòi hỏi khách quan và cấp bách, nhằm tạo môi trường thuận lợi cho giao lưu thông suốt các nguồn vốn trong nền kinh tế, tăng mức huy động vốn dài hạn cả ở trong nước và ở ngoài nước cho đầu tư phát triển TĐKT.
Để tạo điều kiện cho tập đoàn kinh tế, thị trường vốn được vận hành một cách có hệ thống, ăn khớp với nhau và có hiệu quả thì việc hoàn thiện hệ thống ngân hàng, mở rộng quy mô, nâng cao năng lực kinh doanh của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác là một đòi hỏi tất yếu để có thể đảm bảo di chuyển vốn một cách dễ dàng giữa các tổ chức kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng được coi như là nhà cung cấp tài chính quan trọng trong các doanh nghiệp trong việc huy động vốn, tập trung vốn. Muốn vậy, cần đẩy mạnh quá trình thị trường hóa cơ chế hóa lãi suất và vốn tín dụng đảm bảo vốn được chuyển tới các khu vực các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, giảm chi phí giao dịch của ngân hàng, nghiên cứu sửa đổi chính sách thuế đối với hoạt động ngân hàng.
Bốn là, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ doanh nghiệp đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng được yêu cầu quản lý phức tạp của quy mô tập đoàn.
Tập đoàn kinh tế là loại hình doanh nghiệp tương đối mới mẻ ở nước ta. Việc quản lý, tổ chức, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn chắc chắn sẽ khó khăn phức tạp hơn nhiều, đòi hỏi phải có đội ngũ quản lý, điều hành thực sự có năng lực, có phong cách lãnh đạo và phẩm chất đạo đức tốt. Đặc biệt đội ngũ giám đốc, hội đồng quản trị phải được tăng cường tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về quản trị doanh nghiệp, quản lý tổ chức, kiến thức về pháp luật.
Việc bổ nhiệm và tuyển chọn cán bộ phải theo các tiêu chuẩn về năng lực, đạo đức nên thực hiện chế độ tuyển chọn giám đốc theo hướng công khai hóa quá trình tuyển chọn.
Bên cạnh đó cũng phải có những giải pháp tạo động lực khuyến khích đội ngũ cán bộ quản lý tốt doanh nghiệp và bảo đảm quyền của chủ sở hữu. Hoàn thành chế độ trách nhiệm và kỷ luật đối với hội đồng quản trị, giám đốc tập đoàn theo hướng gắn kết với kết quả kinh doanh, mức tăng lợi nhuận trong tập đoàn.
3.3.2. Về bước đi và con đường hình thành.
Việc hình thành các tập đoàn kinh doanh xuất phát từ tất yếu phát triển kinh kế đến một mức độ nhất định, do vậy, Nhà nước cần tôn trọng sự tự nguyện tham gia của các đơn vị thành viên. Phát triển các tập đoàn kinh tế là yêu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường, là sự phản ánh lực lượng sản xuất của xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định. Bài học thất bại của Trung Quốc trong thiết lập TĐKT là nếu chính phủ, các bộ, ngành có liên quan cố gắng tổ chức lại các công ty bằng mệnh lệnh hành chính, sáp nhập công ty kinh doanh hiệu quả với công ty thua lỗ sẽ không thu được kết quả. Chỉ khi các công ty và các DNNN sẵn sàng kết hợp với nhau để thiết lập các TĐKT, việc quản lý của các tập đoàn này mới có thể thu được hiệu quả, điều này được chứng tỏ bằng nhiều trường hợp của Trung Quốc
Do vậy, mặc dù nhận thức được sự cần thiết hình thành tập đoàn kinh tế ở nước ta, song chúng ta không nên lập nên các TĐKT bằng các lệnh hành chính. Thực tế cho thấy việc thành lập các Tổng công ty bằng các mệnh lệnh hành chính không đem lại hiệu quả và sức mạnh thống nhất của tập đoàn theo cấp số nhân như chúng ta mong muốn, mà đó vẫn chỉ là con số cộng thuần tuý của các kết quả hoạt động có tính tách rời của các doanh nghiệp thành viên. Vì vậy, để tập đoàn kinh tế có thể ra đời, nhà nước cần tạo ra những điều kiện cần thiết và tác động bằng những biện pháp gián tiếp để tạo thành một tất yếu tích tụ và tập trung sản xuất, dẫn đến việc liên kết tự nguyện của các doanh nghiệp thành viên vào TĐKT. Trong điều kiện về cải cách DNNN ở nước ta hiện nay, việc chuyển đổi các Tổng công ty sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ công ty con, chuyển đổi các DNNN thành các công ty cổ phần hoạt động theo luật doanh nghiệp là giải pháp phù hợp, tạo khả năng liên kết các doanh nghiệp với nhau một cách tự nhiên thông qua sự thâm nhập, chi phối nhau bằng vốn đầu tư.
3.3.3. Về cơ cấu tổ chức của các TĐKT.
Trung Quốc thực hiện tổ chức tập đoàn theo mô hình công ty mẹ – công ty con lấy mối quan hệ chủ yếu là vốn và tài sản, khai thông mối quan hệ trong tập đoàn.
Các TĐKT đều thành lập một hoặc một vài công ty khống cổ. Nhiệm vụ của công ty khống cổ là quản lý vốn và tài sản nhà nước của tập đoàn đầu tư vào công ty con và bán cổ phiếu thu hút vốn cổ phần ngoài xã hội để đầu tư vào công ty cổ phần (công ty con). Qua công ty khống cổ, tập đoàn bước đầu xác lập mối quan hệ chủ yếu về vốn và tài sản của tập đoàn (công ty mẹ) với công ty con (loại 100% vốn nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh) và xác định mối quan hệ chi phối của công ty mẹ về đầu tư, điều hoà vốn, kinh tế và mậu dịch đối ngoại,…để công ty mẹ đóng vai trò quyết định về phát triển chiến lược, điều chỉnh cơ cấu, điều hoà lợi ích trong tập đoàn, hạ phóng quyền quản lý kinh doanh cho công ty con.
Như vậy để TĐKT sớm ra đời Việt Nam cần chuyển hướng liên kết theo kiểu hành chính, thu gom đầu mối của Tổng công ty nhà nước sang liên kết bằng tài chính phù hợp với mối quan hệ công ty mẹ – công ty con. Để thực hiện được điều này cần ban hành nghị định về tổ chức, chuyển đổi Tổng công ty, DNNN theo mô hình công ty mẹ – công ty con để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ sở pháp lý hoạt động theo mô hình trên. Trong đó công ty mẹ là một DNNN (nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối), có thể được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Công ty mẹ có thể trực tiếp hoặc không trực tiếp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh mà chỉ thực hiện hoạt động quản lý và kinh doanh vốn đầu tư ở các công ty khác. Đồng thời, tuỳ theo tính đa dạng về ngành nghề hoạt động cùng số lượng và loại hình doanh nghiệp thành viên tập đoàn, công ty mẹ có thể trực tiếp chi phối các công ty con hoặc chi phối thông qua công ty đầu tư tài chính của tập đoàn.
Xây dựng cơ cấu quản lý của TĐKT bao gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Bộ máy điều hành, giám đốc các đơn vị thành viên.
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý của TĐKT, gồm các chủ sở hữu hoặc đại diện chủ sở hữu (đối với DNNN) chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở hữu về sử dụng bảo toàn và phát triển vốn, về sự phát triển của tập đoàn vàa các nhiệm vụ được giao. Hội đồng quản trị sẽ quyết định các vấn đề lớn và quan trọng như: chiến lược phát triển, phương án sản xuất kinh doanh, điều hoà và quản lý vốn, lựa chọn và quyết định tổng giám đốc, giám đốc các đơn vị thành viên. Thành viên Hội đồng quản trị có thể được cử làm chủ tịch Hội đồng quản trị công ty cổ phần – con (hoặc cháu).
Ban kiểm soát có thể nằm trong hoặc ở ngoài Hội đồng quản trị, có nhiệm vụ kiểm tra giám sát hoạt động của tập đoàn và sự điều hành của bộ máy điều hành trong việc chấp hành pháp luật, nghị quyết của Hội đồng quản trị.
Bộ máy điều hành gồm Tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc và bộ máy giúp việc.Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của TĐKT, là người xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh , là người điều hành. Các Phó tổng giám đốc do Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị bổ nhiệm. Bộ máy giúp việc do Tổng giám đốc lựa chọn và quyết định sau khi được sự chấp thận của Hội đồng quản trị.
3.3.4. Về quản lý các TĐKT.
Việc quản lý TĐKT phải đi cùng với quá trình mở rộng quy mô.
Như chúng ta đều biết, khó có thể đảm bảo được sự phát triển lành mạnh của tập đoàn nếu như chúng ta không làm cho việc quản lý theo kịp với quá trình mở rộng tập đoàn vì kết quả sẽ rất tai hại một khi chúng ta mất khả năng kiểm soát quản lý và mở rộng quá mức quy mô của tập đoàn.
Sự lựa chọn phù hợp hơn đối với việc mở rộng tập đoàn là xác định rõ mục tiêu phát triển của toàn bộ tập đoàn để điều phối các mối quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên và phân bổ tốt các nguồn lực có thể kiểm soát được nhằm thực hiện chiến lược phát triển của toàn bộ tập đoàn.
Xử lý tốt mối quan hệ giữa cạnh tranh và độc quyền.
Cách tốt nhất để khai thác khả năng của doanh nghiệp là để doanh nghiệp tự cạnh tranh trên thị trường. Và cạnh tranh là con đường duy nhất để tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Mặc dù vậy, chúng ta không thể bỏ qua tình trạng hiện nay là các TĐKT phát triển thành công hơn đều thuộc những ngành có khả năng sinh lời cao và có một số lợi thế về độc quyền tự nhiên. Đặc biệt khi chúng ta phát triển các TĐKT thuộc sở hữu nhà nước, như trường hợp của Trung Quốc do chưa có Luật chống độc quyền, nên các TĐKT nhà nước thường là độc quyền hoặc nửa độc quyền. Sự độc quyền này ngăn cản sự cạnh tranh bình đẳng của các doanh nghiệp nói chung và giữa các TĐKT nói riêng. Như vậy, nhà nước thể hiện là chủ sở hữu những doanh nghiệp đầu đàn nắm giữ một số ngành then chốt quan trọng, thuộc độc quyền nhà nước, nhưng tuyệt đối không được biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp, gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh và làm thiệt hại đến lợi ích kinh tế của người tiêu dùng.
Kết luận
Có thể khẳng định việc hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế của nhà nước là một thành tựu to lớn của Trung Quốc trong công cuộc cải cách nền kinh tế nói chung và cải cách doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Các tập đoàn kinh tế này đã khắc phục được những hạn chế của những doanh nghiệp nhà nước riêng lẻ trước đây như hạn chế về vốn, về quy mô, về công nghệ, về thị trường v.v… để không ngừng lớn mạnh và khẳng định được vị trí trụ cột của mình trong nền kinh tế quốc dân. Các tập đoàn kinh tế này hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như dầu khí, hàng không, điện lực, quốc phòng…làm tăng khả năng cạnh tranh của Trung Quốc trên trường quốc tế đồng thời là trung gian quan trọng đối với chính phủ để quản lý các doanh nghiệp nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, mô hình tập đoàn này vẫn tồn tại những vấn đề cần khắc phục đặc biệt là tình trạng độc quyền, hay một số lượng không nhỏ các tập đoàn kinh tế của nhà nước còn kinh doanh kém hiệu quả…
Trong phạm vi của khoá luận này tôi đã tập trung nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Trung Quốc, các giải pháp, chính sách có liên quan, cũng như những thành tựu đã đạt được, những hạn chế còn tồn tại của mô hình tập đoàn này nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi chúng ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành các tập đoàn kinh tế. Hi vọng rằng những kinh nghiệm thực tiễn của Trung Quốc sẽ góp phần giúp chúng ta nhanh chóng thiết lập được các tập đoàn kinh tế mạnh đưa đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới.
Tài liệu tham khảo.
Minh An – Nhiều bài học quý - Báo Đầu tư – số 177, trang 2 (29/92003).
Nguyễn Kim Bảo – Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có đặc sắc Trung Quốc – NXB Khoa học – xã hội, 2002
Trương Văn Bân – Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước – NXB Chính trị Quốc gia, 1996.
Trần Tiến Cường – Không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp - Báo Diễn đàn doanh nghiệp – số 66, trang 3 (15/8/2003).
Thanh Hà - Điều gì quyết định sự phát triển bền vững của các tập đoàn kinh tế - Báo Thương mại – số 104, trang 6 (30/9/2003).
Hoa Hữu Lân – Hàn Quốc câu chuyện kinh tế về một con rồng - NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
Hoàng Thị Bích Loan – Công ty xuyên quốc gia của các nền kinh tế công nghiệp mới Châu á - NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
Vũ Huy Từ – Mô hình tập đoàn kinh tế trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá - NXB Chính trị Quốc gia, 2002.
Phan Minh Tuấn - Mô hình tập đoàn kinh tế Trung Quốc tiến trình và triển vọng -Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương – số 3, trang 74 - 80 (6/2003).
Đề án hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế trên cơ sở Tổng công ty nhà nước – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, năm 2002.
Các Tập đoàn kinh tế của Trung Quốc - quá khứ, hiện tại và tương lai phát triển - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, năm 2003
Mục lục
Trang
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0224.doc