Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn

Để đảm bảo tính bền vững, sự can thiệp vào nguồn cung nên là những hỗ trợ tăng năng lực cho các tổ chức tài chính chính thức thay vì trợ cấp chi phí hoạt động (bao gồm cả lãi suất). Các đơn vị và doanh nghiệp tư nhân có liên quan nhất định phải nắm rõ sự thay đổi trong năng lực của khách hàng ở nông thôn nhờ sự can thiệp vào nguồn cầu, và hiểu cách hoàn thiện hồ sơ đánh giá rủi ro khách hàng từ dữ liệu và kiến thức rút ra từ các chương trình can thiệp vào nguồn cầu. Điểm mấu chốt là phải có sự phối hợp giữa hai loại chương trình – chương trình tập trung vào nguồn cung và chương trình tập trung vào nguồn cầu. Ngoài ra, các khung pháp lý về nông nghiệp và tài chính cần xem xét một số rủi ro có nguy cơ làm giảm cả cung và cầu. Ví dụ, cần nỗ lực sửa đổi khung pháp lý tài chính để chấp nhận các hình thức thế chấp thay thế có liên quan như hợp đồng mua bán, tài sản lưu động, vật nuôi và hàng tồn kho nông nghiệp, như một cách để giảm thiểu rủi ro về dư nợ cho vay. Ngoài ra, nếu các tổ chức tài chính chính thức phải tăng vốn dự trữ bắt buộc trong khi đang thiếu tài sản thế chấp truyền thống, do đó bỏ qua các hình thức thế chấp thay thế, thì danh mục đầu tư tài chính ở nông thôn sẽ bị thu hẹp lại. Việc đảm bảo khuôn khổ rõ ràng cho việc thành lập và phát triển các trung tâm thông tin tín dụng là một cách quan trọng khác để thúc đẩy thị trường tài chính nông thôn, vì việc các tổ chức tài chính chính thức thâm nhập vào khu vực nông thôn có thể dẫn đến việc ở một số địa phương, khách hàng tích lũy quá nhiều khoản vay rồi thế chấp cùng một tài sản cho nhiều người cho vay khác nhau. Tương tự như trên, khung pháp lý cho thương mại và trợ cấp nông nghiệp cần phải ổn định theo thời gian để thúc đẩy khả năng dự đoán giữa các chủ thể kinh tế nông thôn và các tổ chức tài chính. Nên tránh những thay đổi đột ngột trong các quy định về xuất nhập khẩu, tránh việc định giá quá cao đồng nội tệ vì nó có thể gây tổn hại cho xuất khẩu nông sản, và lấn át thị trường hàng hóa và dịch vụ với các biện pháp can thiệp bằng trợ cấp không bền vững. Việc trợ cấp sẽ có hiệu quả hơn khi tập trung vào việc thay đổi năng lực của các tác nhân ở nông thôn, có thời hạn và mục tiêu rõ ràng hướng đến những người thụ hưởng (ODI, 2008; Baltzer, 2011). Sự ổn định trong khung pháp lý về thương mại nông nghiệp và trợ cấp làm cho đầu tư vào nông thôn và nông nghiệp trở nên khả thi, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính chính thức cung cấp dịch vụ cho các hộ nông dân và sản xuất nhỏ.

pdf150 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức để giải quyết các vấn đề này. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các bên cho vay cần phát minh ra các công cụ và dịch vụ này từ con số không bởi vì hiện nay đã có sẵn các dịch vụ được cung cấp bởi các chuỗi giá trị tư nhân hay các cơ quan chính phủ. Các bên cho vay cần phải hiểu các lực lượng này và thương thảo các hợp đồng liên kết kinh doanh để từ đó các dịch vụ tài chính được cung cấp có thể mang lại lợi ích cho người đi vay và cho tất cả các tác nhân khác có liên quan trong chuỗi giá trị. Các dấu hiệu cho thấy tác động của sự phát triển Chương trình cho vay nông nghiệp của ASKI và PMPC đã mang lại nhiều lợi ích cho nông dân, hộ gia đình và cộng đồng của họ. Một số lợi ích gồm: Sản xuất gạo năng suất cao. Gói dịch vụ toàn diện này giúp tăng năng suất sản xuất của người nông dân, nhờ sự kết hợp của các yếu tố gồm: sử dụng hạt giống lai hoặc hạt giống được chứng nhận, sử dụng hệ thống tưới tiêu trong sản xuất, áp dụng đúng lúc các loại phân bón và thuốc trừ sâu, và phương thức canh tác tốt. Tất cả các lợi ích này đạt được bằng việc sử dụng tín dụng. Ví dụ, năng suất sản xuất lúa trung bình trong một mùa ở Nueva Ecija (nơi ASKI hoạt động) hiện ở mức 6,37 tấn/ha. Con số này cao hơn nhiều so với năng suất trung bình quốc gia là 4 tấn/ha. Phản hồi trực tiếp từ những người nông dân đi vay – theo chương trình của PMPC là họ nhận ra rằng các vụ thu hoạch cho kết quả tốt hơn hẳn. Người nông dân đi vay đánh giá cao lời giới thiệu của các kỹ thuật viên và những cơ hội được tiếp cận với các sản phẩm nông nghiệp đầu vào có chất lượng cao, các khoản trợ cấp, mối liên kết với người mua có uy tín, và các dịch vụ tư vấn và đào tạo kỹ thuật. Thu nhập cao hơn. Sản lượng cao mang lại nguồn thu nhập cao hơn cho người nông dân đi vay. Nông dân sử dụng nguồn thu nhập tăng thêm để sửa sang nhà ở, cho con đi học, mua dụng cụ và thiết bị nông trại và tăng cường gửi tiền tiết kiệm. Nông dân ở Nueva Ecija (nơi ASKI hoạt động) thường kiếm được thu nhập ròng từ 70.000 đến 120.000 peso (1.600 USD đến 2.000 USD) mỗi mùa lúa, nếu không có thiệt hại nghiêm trọng do bão hoặc sâu bệnh. Nông dân công nhận rằng họ có thu nhập khá cao trong vài năm qua nhờ các chương trình cho vay nông nghiệp sáng tạo của ASKI và PMPC. Thông qua các hợp đồng marketing được PMPC và ASKI tạo điều kiện, người nông dân bán được nông sản với mức giá tốt hơn và điều này tạo ra tác động to lớn đến các cộng đồng nông nghiệp. Ví dụ, trong chương trình FEP của JFC, khi JFC mua hành của các hợp tác xã nông dân, các số liệu cho thấy nông dân có thể kiếm được nhiều gấp năm lần so với việc chỉ bán trên thị trường địa phương. Theo các phản hồi trực tiếp, người nông dân báo cáo rằng thu nhập tăng do thu 113Chương 6 – Hai trường hợp thực tế của các chương trình cho vay nông nghiệp [...] hoạch được nhiều hơn và bán được ở mức giá tốt hơn. Hầu hết những người nông dân đi vay đánh giá cao mức lãi suất tương đối thấp của các khoản vay do ASKI và PMPC cung cấp (khi so sánh với các bên cho vay không chính thức). Những người nông dân cũng đánh giá cao công tác quản lý khoản vay nhanh chóng, trung thực và sự phản hồi nhanh chóng của hai tổ chức này. Những người nông dân đi vay đánh giá cao việc tư vấn liên tục và hệ thống phản hồi trực tiếp. Kỹ năng kinh doanh tốt hơn. JFC đang tổ chức một chương trình độc đáo gọi là “Chương trình Doanh nhân Nông dân” (FEP) thông qua Quỹ Jollibee, hợp tác với nhiều tác nhân chủ chốt khác. Chương trình FEP là một chương trình hợp tác liên kết giữa Jollibee, Dịch vụ Cứu trợ Công giáo (CRS) và Tập đoàn Phát triển Sinh kế Quốc gia (NLDC). Được khởi tạo vào năm 2008, chương trình FEP nhắm đến việc giúp tăng thu nhập của hộ gia đình nông dân nhỏ bằng cách liên kết họ với các tổ chức như JFC, chuỗi thực phẩm lớn và chuỗi siêu thị ở các khu vực đô thị lớn. Kể từ khi ra mắt, chương trình đã hỗ trợ hơn 900 nông dân từ khắp đất nước. FEP hợp tác với LGU và một số đối tác kinh doanh. Một phần quan trọng của FEP là Chuỗi Đào tạo Lãnh đạo Nông dân, mỗi năm chọn 50 nông dân từ các nhóm nông dân khác nhau, mời họ tham gia đào tạo về cách thức hoạt động của các nhóm doanh nghiệp nông nghiệp và các yếu tố lãnh đạo để tăng cường kỹ năng quản lý tổ chức. Họ được đào tạo về quản lý doanh nghiệp nông nghiệp và cách lập một kế hoạch sản xuất phù hợp để đảm bảo rằng họ có thể đáp ứng đầy đủ các đơn hàng. Người nông dân được học cách kinh doanh đúng đắn. Khóa đào tạo trang bị cho người nông dân thái độ và bí quyết phù hợp để đương đầu với các khó khăn mà họ phải đối mặt. Họ đang học cách trồng và nuôi dưỡng các loại cây trồng đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, có thể bán cho các tổ chức, công ty lớn. Việc làm ở các trang trại địa phương nhiều hơn. Theo phản hồi thu được từ các cộng đồng khác nhau, việc làm ở các trang trại địa phương có dấu hiệu tăng lên. Toàn bộ cộng đồng được hưởng lợi từ chương trình cho vay nông nghiệp này bởi vì những người nông dân đi vay cần thuê số lượng lớn lao động thời vụ. Các cán bộ của LGU xác nhận rằng nhiều việc làm thời vụ được tạo ra cho các hộ gia đình, đặc biệt là cho những người nông dân không có đất. Hơn nữa, thu nhập của người nông dân đi vay tăng lên dẫn đến sức mua của hộ gia đình tăng lên, lan tỏa đến cả cộng đồng do nhu cầu về thực phẩm, dịch vụ, vật liệu xây dựng, tăng. Các nhân tố thúc đẩy và hạn chế trong các chiến lược quản trị rủi ro kể trên Quy mô của chương trình còn hạn chế do những giới hạn về tài chính mà ASKI và PMPC phải đối mặt. Hai tổ chức tài chính vi mô này không có nhiều nguồn tài chính để mở rộng các chương trình cho vay nông nghiệp. Họ sẽ cần các khoản tài trợ và vốn vay để mở rộng ra nhiều thị trấn và tỉnh thành hơn và tiếp cận với nhiều nông hộ nhỏ hơn nữa. PMPC sẽ cần vốn vay dài hạn hơn để tài trợ cho chương trình hợp tác trồng cacao, chương trình cung cấp khoản vay trong 3 hoặc 4 năm và thời gian ân hạn là 2 năm đối với tiền gốc. PMPC hiện đang thương lượng với LBP về khoản vốn vay dài hạn như vậy. Các vấn đề của PCIC. Các quy tắc và chính sách của PCIC rất phức tạp và khó hiểu. Cả hai tổ chức tài chính vi mô đều gặp vấn đề là yêu cầu bồi thường của nông dân bị PCIC từ chối vì thông tin không chính xác do giấy tờ pháp lý chưa hoàn chỉnh và người nông dân không hiểu rõ các quy tắc phức tạp của PCIC. Hai tổ chức này đã khắc phục vấn đề bằng cách hợp tác chặt chẽ với PCIC để hiểu đầy đủ các quy tắc 114 Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn phức tạp đó và sau đó hỗ trợ người nông dân đi vay chuẩn bị giấy tờ phù hợp. Hiện tại, nhìn chung trong lĩnh vực trang trại, người nông dân vẫn có một số điểm không hài lòng về tốc độ xử lý yêu cầu bồi thường của PCIC. Vấn đề của AGFP. Điều khoản thế quyền của AGFP gây khó khăn và phiền phức cho ASKI nếu họ tiếp tục tham gia vào chương trình bảo lãnh; do đó, ASKI đã dừng tham gia chương trình. Có thể AGFP sẽ phải xem lại điều khoản này. Tiếp cận các cơ sở phục vụ những hoạt động sau thu hoạch. Cả hai tổ chức tín dụng vi mô đều cần được nhận hỗ trợ nhiều hơn từ các cơ sở như nhà máy xay lúa, nhà kho, máy sấy và các máy móc thiết bị khác. PMPC đã có được cơ sở FLGC của mình thông qua Bộ Nông nghiệp và hiện đang đàm phán để sử dụng một máy kéo. Bộ Nông nghiệp đang cung cấp các khoản tài trợ và trợ cấp cho các hợp tác xã nông dân, kể cả cho phép sử dụng các cơ sở phục vụ những hoạt động sau thu hoạch. PMPC sẽ cần nhiều cơ sở như thế này hơn để mở rộng sang các địa phương khác. ASKI cũng cần phải có các cơ sở phục vụ cho mặt hàng lúa gạo để mua trực tiếp lúa gạo từ những người nông dân đi vay. Để tăng quy mô, cả hai tổ chức sẽ cần hợp tác với các doanh nghiệp nông nghiệp có năng lực lớn hơn. Chứng nhận Tổ chức Tài chính Nông thôn (RFI). Luật Agri-Agra cho phép các ngân hàng có thể cho vay thông qua các Tổ chức Tài chính Nông thôn (RFI) mà vẫn được coi là tuân thủ đúng quy định của pháp luật. RFI là các ngân hàng, hợp tác xã hoặc tổ chức phi chính phủ đang cho vay trực tiếp đến nông hộ sản xuất nhỏ và ARB, và được phép nhận những gói cho vay quy mô lớn hoặc vốn đầu tư từ các ngân hàng thương mại lớn. Nhưng trong thực tế, các hướng dẫn về việc công nhận các RFI phi ngân hàng, chẳng hạn như hợp tác xã và tổ chức tín dụng vi mô, đã không được phê duyệt bởi ACPC, cơ quan hoạch định chính sách tín dụng nông thôn của Bộ Nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp phải xử lý vấn đề này hoặc chuyển giao nhiệm vụ cho Ngân hàng Trung ương Philippines, cơ quan có nghiệp vụ tốt hơn trong việc đánh giá các tổ chức tài chính. Các tổ chức tài chính vi mô, như ASKI và PMPC, có thể đăng ký làm các RFI được chứng nhận và do đó có quyền tiếp cận với các gói cho vay quy mô lớn hoặc vốn đầu tư từ các ngân hàng lớn. Cung cấp các dịch vụ khuyến nông. Bộ Nông nghiệp, thông qua mạng lưới các nhà nông học cộng đồng, đang cung cấp dịch vụ khuyến nông cho hộ nông dân sản xuất nhỏ. Tuy nhiên, các dịch vụ được cung cấp không đồng đều nhau, một số khu vực không có dịch vụ như thế. Có nhiều nơi mà các tổ chức tài chính vi mô này không thể tìm thấy bất kỳ dịch vụ khuyến nông nào ở cấp địa phương. Có một số ít trường hợp cho thấy LGU chủ động cải thiện vấn đề này, chẳng hạn như LGU của San Jose City cung cấp hỗ trợ cho những người trồng hành và hợp tác xã là khách hàng của ASKI. Thuế đối với các khoản cho nông dân vay. Cục Doanh thu Nội bộ (BIR) gần đây đã đưa ra quy định yêu cầu tất cả các tổ chức phi chính phủ về tài chính vi mô bắt đầu tính 12% thuế giá trị gia tăng đối với các khoản vay mà họ cung cấp cho các hộ nghèo, kể cả nông dân sản xuất nhỏ. Quy định này áp dụng là bất kể NGO đó là một tổ chức không có cổ phần và phi lợi nhuận. Các NGO như vậy cũng bị yêu cầu phải trả 30% thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên thu nhập ròng của họ. Điều này chưa từng xảy ra trong quá khứ; do đó tất cả các NGO tài chính vi mô, trong đó có ASKI, đang gặp khó khăn với vấn đề này. Quy định này sẽ làm tăng chi phí vay đối với các hộ nông dân nhỏ. 115 Chương 7 Kết luận chung – chính sách công để thúc đẩy thị trường tài chính và nông nghiệp ở nông thôn trở nên toàn diện hơn Emilio Hernández Các vấn đề về tài chính trong nông nghiệp và ở nông thôn tại khu vực châu Á được đề cập và phân tích trong các chương trước có nhiều gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách trong việc khích lệ sự phát triển toàn diện tại nông thôn và trong nông nghiệp nói chung, và sự phát triển của hệ thống tài chính ở nông thôn nói riêng. Trong chương này, một số điểm đặc biệt đáng lưu ý để xây dựng các chính sách công hiệu quả hơn sẽ được thảo luận thêm. 7.1 KHUYẾN KHÍCH SỰ HỢP TÁC GIỮA CÁC TÁC NHÂN CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ Ở NÔNG THÔN MỘT CÁCH KHẢ THI VÀ TOÀN DIỆN Tương tự như kết quả phân tích và đánh giá các tình huống thực tế tại từng quốc gia được trình bày trong các chương trước, thị trường tài chính trong nông nghiệp và nông thôn ở khu vực châu Á nói chung cũng có khuynh hướng cho thấy cán cân cung – cầu của thị trường này phần nhiều ở dưới mức tối ưu. Các thành viên tham gia thị trường này chủ yếu là các hộ nghèo ở nông thôn với những việc kinh doanh nông nghiệp vừa và nhỏ. Trong hoàn cảnh này, chỉ có một phần nhu cầu tài chính được đáp ứng và còn lại là hoàn toàn không được đáp ứng. Như vậy phân khúc khách hàng này chưa được khai thác và vẫn còn nhiều cơ hội kinh doanh. Các bên cung cấp dịch vụ tài chính chính thức và không chính thức ở nông thôn khá đa dạng và phụ thuộc vào hai yếu tố chính: đầu tiên, trong vai trò môi giới tài chính, họ phải có đủ vốn, với số lượng và điều kiện thích hợp, để triển khai thành nhiều sản phẩm tài chính khác nhau (sản phẩm thông thường và chuyên biệt); sau đó, họ cần có đủ thông tin về nhu cầu tài chính của khách hàng, bản chất của các hoạt động kinh tế đa dạng mà khách hàng và gia đình của họ tiến hành, cùng với các động lực và rủi ro trong các mối quan hệ thương mại giữa khách hàng và các tác nhân khác trong nền kinh tế nông thôn. Hai yếu tố này quyết định mức độ mà các dịch vụ tài chính có thể đáp ứng phân khúc khách hàng này – phần đông là những hộ nông dân nghèo ở nông thôn, sống phụ thuộc vào nông nghiệp, đối tượng thường ít khi hoặc hoàn toàn không được tiếp cận các dịch vụ tài chính. Tại các nước đang phát triển, cán cân cung – cầu trong thị trường tài chính ở dưới mức tối ưu là do không có bất kỳ một nhà cung cấp dịch vụ tài chính chính thức và 116 Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn không chính thức nào đáp ứng được cả hai yếu tố trên. Dịch vụ tài chính chính thức rất ít được cung cấp ở nông thôn và trong nông nghiệp, trong khi nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia. Các tổ chức tài chính chính thức có lợi thế về việc tiếp cận nguồn vốn và có khả năng cung ứng nhiều loại sản phẩm tài chính mà khách hàng cần, nhưng thường thiếu thông tin về nhu cầu tài chính, bản chất của hoạt động kinh doanh và các động lực và rủi ro trong các mối quan hệ kinh doanh của khách hàng tiềm năng. Các tổ chức tài chính không chính thức thì ngược lại: họ có sẵn thông tin do ở gần khách hàng và có lịch sử giao dịch lâu dài với khách hàng. Các trường hợp được phân tích và trình bày trong các chương trước cho thấy các tổ chức tài chính chính thức đã biết cách hợp tác và học hỏi từ các tác nhân không chính thức ở nông thôn để phát triển danh mục khách hàng nông thôn hiệu quả. Qua đó, chúng ta cũng thấy được tầm quan trọng của chính sách công trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai bên để hợp nhất cả năng lực và kiến thức cần thiết đối với việc cung cấp các dịch vụ tài chính khả thi hơn và rủi ro thấp hơn cho ngành nông nghiệp và nông thôn. Trong các tình huống thực tế đã được phân tích và trình bày, các tác nhân trong chuỗi giá trị nông nghiệp đã hợp tác với các tổ chức tín dụng chính thức để cung cấp dịch vụ tín dụng được điều chỉnh cho phù hợp với khách hàng ở nông thôn. Ví dụ như tại Trung Quốc, các tác nhân tư nhân như tập đoàn Alibaba đã hợp tác với một mạng lưới bao gồm cả các đại lý tư nhân lẫn công cộng tại từng làng (đối tác Taobao) để cung cấp gói cho vay vi mô Ant Micro. Với cách tiếp cận này, Alibaba đã lấp đầy lỗ hổng thông tin do mức độ hiện diện thấp của họ ở vùng nông thôn. Bằng cách tổng hợp thông tin trực tuyến và ngoại tuyến về các hoạt động của hộ gia đình nông thôn, Alibaba có thể đánh giá mức độ đáng tin cậy về tín dụng của khách hàng mà không cần yêu cầu tài sản thế chấp. Việc dung hợp năng lực và kiến thức tương tự như vậy là một gợi ý hay cho Việt Nam, Philippines và Ấn Độ. Nhìn chung, chính sách công có thể góp phần thúc đẩy thị trường tài chính nông thôn phát triển toàn diện hơn thông qua việc phổ biến rộng rãi hơn phương thức kết hợp giữa năng lực và kiến thức một cách có hệ thống từ các chủ thể khác nhau. Các tác nhân này có thể cùng nhau cung cấp sản phẩm phù hợp nhu cầu của khách hàng, đồng thời quản lý một cách hiệu quả các khía cạnh tài chính, khí hậu, sản xuất, thương mại và xử lý các rủi ro vốn có trong ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn. Các tổ chức tài chính chính thức và không chính thức thường xa rời nhau và phân chia riêng rẽ năng lực và kiến thức của mỗi bên, do đó khả năng tiếp cận thị trường nông nghiệp và nông thôn của các tổ chức tài chính chính thức còn ở mức thấp. Phần tiếp theo sẽ đưa ra một số khuyến nghị về định hướng cho chính sách công. 7.2 MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CỤ THỂ RÚT RA TỪ VIỆC PHÂN TÍCH Để đạt được sự hợp nhất giữa kiến thức và năng lực giữa các tổ chức tài chính và tác nhân kinh tế tại nông thôn, các chương trình của chính phủ và tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và tài chính nông thôn cần phối hợp tận dụng mọi nguồn lực để giảm những hạn chế về cung – cầu trong thị trường tài chính nông thôn. Ví dụ như các chương trình công giúp tăng cường tổ chức sản xuất, năng suất 117Chương 7 – Kết luận chung – chính sách công để thúc đẩy thị trường tài chính [...] và liên kết thị trường toàn diện hơn nên phối hợp với những chương trình hỗ trợ phát triển nguồn cung cấp, tăng cường năng lực, sản phẩm và quy trình trong thị trường tài chính phục vụ vùng nông thôn. Các cơ quan chính phủ quản lý nông nghiệp và tài chính chủ chốt cũng cần phối hợp với nhau để tạo điều kiện thuận lợi cho những đổi mới trong tài chính nông nghiệp và nông thôn. Ví dụ như khi cơ quan chính phủ xác lập khung pháp lý cho kinh doanh và trợ cấp nông nghiệp, họ cần phải tìm hiểu rõ tác động khó lường và sai lệch của chính sách lên khả năng phục vụ ngành nông nghiệp của các tổ chức tài chính, đặc biệt là khi nó ảnh hưởng đến sinh kế và các thương vụ về nông nghiệp. Tương tự như vậy, khi xác lập khung pháp lý cho ngành tài chính, đặc biệt là về những loại hình tài sản thế chấp được chấp nhận, tiêu chuẩn đánh giá rủi ro danh mục đầu tư và việc thành lập các trung tâm thông tin tín dụng, các cơ quan nhà nước cần có khả năng xác định rõ tác động của những việc trên đối với năng lực của các tổ chức tín dụng về việc đánh giá rủi ro và nhu cầu của khách hàng ở nông thôn và danh mục đầu tư nông nghiệp và nông thôn dựa trên sự hiểu biết tường tận về các nguồn lực trong kinh doanh nông nghiệp. Khi chính sách công hoàn thành được các mục tiêu trên thì ba nguyên tắc khuyến khích đổi mới trong chính sách công về tài chính sẽ được kích hoạt. Đó là: Cho phép các tổ chức tài chính tự quyết định điểm vào tốt nhất để phục vụ khách hàng ở nông thôn. Do nhu cầu tài chính trong ngành nông nghiệp nông thôn còn rất hạn chế nên các tổ chức tài chính có nhiều lựa chọn khi tiếp cận thị trường này. Tuỳ thuộc vào lợi thế so sánh riêng, mỗi tổ chức có thể cung cấp một loại sản phẩm tài chính chung cho mọi mục đích hoặc riêng cho nông nghiệp. Như vậy, mỗi tổ chức cần định hình chiến lược thị trường để xác định nhóm khách hàng và dịch vụ cho phù hợp, và có chiến lược hợp tác với các tác nhân ở nông thôn. Đa dạng hoá các dịch vụ tài chính. Khi bắt đầu phục vụ nhóm khách hàng mới tại nông thôn, tổ chức tài chính cũng bắt đầu một quá trình học tập mới để tìm thêm những nhu cầu và năng lực khác của khách hàng, cùng với cơ hội để phát triển thêm các loại dịch vụ mới. Điều này đòi hỏi tổ chức tài chính phải có chiến lược quản lý kiến thức rõ ràng, chi tiết. Quá trình học tập này cũng bao gồm việc xác định các tác nhân tại địa phương để hợp tác và những phương thức giúp cung cấp nhiều loại dịch vụ hơn, rẻ hơn và tốt hơn. Các tổ chức tài chính không chính thức có rất nhiều kinh nghiệm trong việc này vì đó là cách mà họ đa dạng hoá các loại dịch vụ tại nông thôn theo thời gian (Miller và Jones, 2010). Mỗi dịch vụ tài chính mới cung cấp cho khách hàng nông thôn đều giúp làm tăng giá trị của các dịch vụ khác đã có. Định hướng đa dạng hoá các loại dịch vụ tài chính cho khách hàng tại nông thôn có nhiều ý nghĩa trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng, đồng thời đảm bảo lợi nhuận và tính bền vững. Từ khía cạnh người cung cấp dịch vụ, do mật độ dân cư nông thôn thưa thớt, vị trí xa xôi hẻo lánh và phương tiện thông tin liên lạc hạn hẹp nên các danh mục dịch vụ tài chính ở nông thôn cần khai thác tối đa tính kinh tế theo phạm vi. Mỗi dịch vụ mới được thêm vào sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho danh mục dịch vụ tài chính ở nông thôn. 118 Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn Đa dạng hoá cơ sở khách hàng nông thôn. Các tổ chức tài chính cũng cần xác định loại khách hàng mà họ cần tiếp cận để đạt đủ quy mô và quản lý rủi ro bằng cách mở rộng cơ sở khách hàng trong bối cảnh dân cư thưa thớt. Như vậy, họ cần mang dịch vụ đến càng nhiều phân khúc trong chuỗi giá trị thì càng tốt, trong cả nền kinh tế nông nghiệp và phi nông nghiệp tại nông thôn. Đa dạng hoá khách hàng không chỉ giúp tổ chức tài chính mở rộng danh mục đầu tư mà còn giúp họ dự đoán được tình hình kinh tế ở nông thôn sắp tăng trưởng hay suy thoái để quản lý những rủi ro liên quan. Kinh tế nông thôn là nơi mà cơ hội kinh doanh thường đi liền với chu kỳ kinh doanh. Những bài học kinh nghiệm quốc tế càng ngày càng cho thấy những tổ chức tài chính chính thức tuân thủ các nguyên tắc này và tận dụng lợi thế so sánh của riêng họ đã và đang xây dựng được những danh mục đầu tư quy mô lớn và có lợi nhuận. 7.3 TẠO MÔI TRƯỜNG THUẬN LỢI THÔNG QUA CÁC CHÍNH SÁCH ĐƯỢC ĐỀ XUẤT Dựa trên các nguyên tắc rút ra từ các tình huống thực tế tại những quốc gia đã được trình bày, chính sách được khuyến nghị ở trên sẽ tạo nên một môi trường thuận lợi giúp phát triển toàn diện thị trường tài chính nông nghiệp và nông thôn. Môi trường này được xây dựng từ việc kết hợp các chương trình chính phủ nhằm nới lỏng các ràng buộc về nguồn cung với mức cầu của thị trường tài chính nông thôn, như minh họa trong Biểu đồ 26. BIỂU ĐỒ 26 Minh hoạ phương thức hợp tác giữa các chương trình chính phủ với doanh nghiệp tư nhân nhằm giảm bớt các hạn chế mà tổ chức tài chính chính thức và các tác nhân ở nông thôn gặp phải, từ đó giúp tài chính nông thôn được toàn diện hơn Kinh tế nông thôn Nông nghiệp Chính phủ và các cơ quan hỗ trợ Hỗ trợ từ chính phủ cho những cải tiến trong tài chính nông thôn (các phương tiện hỗ trợ kỹ thuật trợ cấp “thông minh”, đánh giá thị trường, tập trung vào rủi ro) Chiến lược tìm nguồn bán buôn/xuất khẩu Tổ chức tài chính: ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, hiệp hội Dịch vụ thanh toán Chuyển tiền Cho vay vốn lưu động Cho vay tiêu dùng Cho vay đầu tư Tiết kiệm Tín dụng hàng tồn kho Cho thuê Bao thanh toán Bảo hiểm nhân thọ, nông nghiệp Chiến lược tìm thương lái Chiến lược tìm người chế biến Chiến lược của nhóm sản xuất Tài sản công cơ sở hạ tầng, hệ thống khuyến nông, các chính sách ưu đãi Sự phù hợp giữa khung pháp lý tài chính và nông nghiệp Hìn h thức hợp tác công - tư Nguồn: tác giả tổng hợp. 119Chương 7 – Kết luận chung – chính sách công để thúc đẩy thị trường tài chính [...] Sự can thiệp của các chương trình công được thực hiện dưới hình thức hợp tác với các doanh nghiệp tư nhân để đảm bảo chương trình hiểu rõ nhu cầu và hạn chế của họ, cũng như tận dụng năng lực của họ trong việc cung cấp dịch vụ tín dụng cho khách hàng tại nông thôn. Mặt khác, sự can thiệp nhằm giảm bớt những hạn chế đối với mức cầu của thị trường tài chính nông thôn cũng giúp tăng cường tổ chức sản xuất, năng suất, năng lực quản lý rủi ro, và liên kết thị trường toàn diện hơn thông qua các hình thức như hệ thống khuyến nông, các chính sách ưu đãi, chương trình thanh toán tiền mặt hoặc các chương trình an sinh xã hội khác, và cơ sở hạ tầng công cộng. Từ góc độ của thị trường tài chính, những sự can thiệp này làm tăng nhu cầu đối với các dịch vụ tín dụng chính thức vì khách hàng có thêm cơ hội sử dụng và trả phí dịch vụ. Dịch vụ tài chính chính thức có thể thay thế hoặc bổ sung cho dịch vụ không chính thức đang được khách hàng nông thôn sử dụng. Mặt khác, những can thiệp nhằm giảm bớt hạn chế về nguồn cung trong thị trường tài chính nông thôn sẽ tập trung vào phát triển năng lực của các tổ chức tài chính chính thức, giúp họ có khả năng đổi mới, phát triển danh mục sản phẩm đa dạng và dịch vụ phù hợp cho khách hàng nông thôn, những người có nhu cầu về tài chính khá đặc thù nhưng chưa được hiểu rõ. Khách hàng nông thôn có nhu cầu về nhiều loại dịch vụ khác nhau như tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, dịch vụ thanh toán và chuyển tiền. Những cải tiến này cũng làm thay đổi quy trình nội bộ của các tổ chức tài chính chính thức, giúp các quy trình có hiệu quả hơn và củng cố kỹ năng phân tích để quản lý rủi ro đối với danh mục đầu tư ở nông thôn. Để đảm bảo tính bền vững, sự can thiệp vào nguồn cung nên là những hỗ trợ tăng năng lực cho các tổ chức tài chính chính thức thay vì trợ cấp chi phí hoạt động (bao gồm cả lãi suất). Các đơn vị và doanh nghiệp tư nhân có liên quan nhất định phải nắm rõ sự thay đổi trong năng lực của khách hàng ở nông thôn nhờ sự can thiệp vào nguồn cầu, và hiểu cách hoàn thiện hồ sơ đánh giá rủi ro khách hàng từ dữ liệu và kiến thức rút ra từ các chương trình can thiệp vào nguồn cầu. Điểm mấu chốt là phải có sự phối hợp giữa hai loại chương trình – chương trình tập trung vào nguồn cung và chương trình tập trung vào nguồn cầu. Ngoài ra, các khung pháp lý về nông nghiệp và tài chính cần xem xét một số rủi ro có nguy cơ làm giảm cả cung và cầu. Ví dụ, cần nỗ lực sửa đổi khung pháp lý tài chính để chấp nhận các hình thức thế chấp thay thế có liên quan như hợp đồng mua bán, tài sản lưu động, vật nuôi và hàng tồn kho nông nghiệp, như một cách để giảm thiểu rủi ro về dư nợ cho vay. Ngoài ra, nếu các tổ chức tài chính chính thức phải tăng vốn dự trữ bắt buộc trong khi đang thiếu tài sản thế chấp truyền thống, do đó bỏ qua các hình thức thế chấp thay thế, thì danh mục đầu tư tài chính ở nông thôn sẽ bị thu hẹp lại. Việc đảm bảo khuôn khổ rõ ràng cho việc thành lập và phát triển các trung tâm thông tin tín dụng là một cách quan trọng khác để thúc đẩy thị trường tài chính nông thôn, vì việc các tổ chức tài chính chính thức thâm nhập vào khu vực nông thôn có thể dẫn đến việc ở một số địa phương, khách hàng tích lũy quá nhiều khoản vay rồi thế chấp cùng một tài sản cho nhiều người cho vay khác nhau. Tương tự như trên, khung pháp lý cho thương mại và trợ cấp nông nghiệp cần phải ổn định theo thời gian để thúc đẩy khả năng dự đoán giữa các chủ thể kinh tế nông thôn và các tổ chức tài chính. Nên tránh những thay đổi đột ngột trong các quy định về xuất nhập khẩu, tránh việc định giá quá cao đồng nội tệ vì nó có 120 Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn thể gây tổn hại cho xuất khẩu nông sản, và lấn át thị trường hàng hóa và dịch vụ với các biện pháp can thiệp bằng trợ cấp không bền vững. Việc trợ cấp sẽ có hiệu quả hơn khi tập trung vào việc thay đổi năng lực của các tác nhân ở nông thôn, có thời hạn và mục tiêu rõ ràng hướng đến những người thụ hưởng (ODI, 2008; Baltzer, 2011). Sự ổn định trong khung pháp lý về thương mại nông nghiệp và trợ cấp làm cho đầu tư vào nông thôn và nông nghiệp trở nên khả thi, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính chính thức cung cấp dịch vụ cho các hộ nông dân và sản xuất nhỏ. 121 Tài liệu tham khảo 3PAD (Pro-poor Partnership in Agricultural Development). 2014. Project progress report for the IFAD supervision mission in August 2014. 3PAD Project Management Unit Bac Kan, Viet Nam. ADB (Asian Development Bank). 2010. Microfinance Assessment of ADB TA-7499- VIE: Developing Microfinance Sector in Viet Nam. Manila, Philippines. Adams, D.W. 1995. From Agricultural Credit to Rural Finance. Quarterly Journal of International Agriculture, 34(2): 109–120. Adams, D.W. & Fitchett, D.A. (eds.) 1992. Informal Finance in Low-Income Countries. Boulder, Colorado: Westview Press. Adams, D.W. & Nehman, G.I. 1979. Borrowing Costs and the Demand for Rural Credit. Journal of Development Studies, 15: 165–176. Adams, D.W., González-Vega, C. & Von Pischke J.D. 1987. Crédito Agrícola y Desarrollo Rural. La Nueva Visión. San José, Costa Rica, The Ohio State University and Academia de Centroamérica. Adams, D.W., Graham, D.H. & Von Pischke, J.D. (eds.) 1984. Undermining Rural Development with Cheap Credit. Westview Press, Colorado, USA. Alderman, H. & Paxson, C. 1992. Do the Poor Insure? A Synthesis of the Literature on Risk and Consumption in Developing Countries. World Bank Policy Research Working Paper 1008. Washington, D.C., USA. Alpizar, C.A. 2007. Risk Coping Strategies and Rural Household Production Efficiency: Quasi-experimental Evidence from El Salvador. Ph.D. Dissertation. Department of Agricultural, Environmental, and Development Economics, Ohio State University. Anh, D.T. & Son, N.V. 2013. Viet Nam Agricultural Value Chain in the FTA of Asian Region. Available at: (Accessed on 2 January 2015). Bacusmo, J. 2000. Status and Potential of the Philippines Cassava Industry. CGIAR. Baland, J.M. & Kotwal, A. 1998. The political economy of underinvestment in agriculture. Journal of development economics, 5: 233–247. Baltzer, K. 2011. Agricultural input subsidies in Sub-Saharan Africa: Evaluation study. DANIDA, Copenhagen. Banerjee, A., Duflo E., Glennerster, R. & Kinnan, C. 2009. The Miracle of Microfinance? Evidence from a Randomized Evaluation. Abdul Jameel Latif Poverty Action Lab, Cambridge, MA, USA. Beck, T., Levine, R. & Demirguc-Kunt, A. 2007. Finance, inequality and the poor. Journal of Economic Growth, 12(1): 27-49. Besley, T. 1994. How Do Market Failures Justify Interventions in Rural Credit Markets? The World Bank Research Observer, 9(1): 27–48. Bester, H. 1985. Screening versus Rationing in Credit Markets with Imperfect Information. The American Economic Review, 75(4): 850–855. Binswanger, H.P. & Deininger, K. 1995. Towards a Political Economy of Agriculture and Agrarian Relations. Unpublished paper, The World Bank, Washington, D.C., USA. Bravo-Ureta, B.E. & Pinheiro, A. 1993. Efficiency Analysis of Developing Country Agriculture: A Review of the Frontier Function Literature. Agricultural and Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn 122 Resource Economics Review, 22(1): 88–101. Camacho, H.E. & Brescia, A. 2009. The Australian ginger industry: Overview of market trends and opportunities. Department of Employment, Economic Development and Innovation, The State of Queensland, Australia. Carroll T., Stern A., Zook, D., Funes, R., Rastegar, A. & Lien, Y. 2012. Catalyzing Smallholder Agricultural Finance. Dalberg Global Development Advisors. Cao, L. 2001. Reflections on Market Reform in Post-War, Post-Embargo Viet Nam. Faculty Publications, Paper 145, College of William & Mary Law School, Virginia, USA. Chavas, J., Petrie, R., & Roth, M. 2005. Farm Household Production Efficiency: Evidence from Gambia. American Journal of Agricultural Economics, 87(1): 160– 179. Christiaensen, L., Demery, L. & Khul, J. 2011. The (evolving) role of agriculture in poverty reduction – an empirical perspective. Journal of Development Economics, 96(2): 239–254. CIAT (International Center for Tropical Agriculture). 2014. Sustainable Soil and Crop Management of Cassava in Asia – A Reference Manual. CIAT, Hanoi, Viet Nam. Collins, D., Morduch, J., Rutherford, S. & Ruthven, O. 2009. Portfolios of the poor. Oxford University Press. Oxford. Coxhead, I., Kim N.B.N., Thao, V.T. & Hoa, N.T.P. 2010. A Robust Harvest: Strategic Choices for Agricultural and Rural Development in Viet Nam. The Asia Foundation, Hanoi, Viet Nam. Croppenstedt, A., Demeke, M.N. & Meschi, M. 2003. Technology Adoption in the Presence of Constraints: the Case of Fertilizer Demand in Ethiopia. Review of Development Economics, 7(1): 58–70. Cuong, N., Bigman, D., Berg, M.V.D. & Vu, T. 2007. Impact of Micro-credit on Poverty and Inequality: The Case of the Viet Nam Bank for Social Policies. Munich Personal RePEc Archive Paper No. 54154, Munich, Germany. Davis, B., Winters, P., Carletto, G., Covarrubias, K., Quinones, E., Zezza, A., Stamoulis, K., Azzarri, C. & Di Giuseppe, S. 2010. A cross-country comparison of rural income generating activities. World Development, 38(1): 48–63. DBRP (Developing Business with Rural Poor). 2014. Project progress report for the IFAD supervision mission in March 2014. DBRP Project Management Unit, Cao Bang, Viet Nam. Deaton, A.S. 1990. Saving in Developing Countries: Theory and Review. pp. 61–96. In: Proceedings of the World Bank Annual Conference on Development Economics 1989, Publ. as Supplement to the World Bank Economic Review. Deaton, A.S. 1992. Household Saving in LDCs: Credit Markets, Insurance and Welfare. The Scandinavian Journal of Economics, 94(2): 253–273. Dercon, S. 2002. Income risk, coping strategies and safety nets. The World Bank Research Observer, 17(2): 141–166. Dercon, S. & Christiaensen, L. 2011. Consumption Risk, Technology Adoption and Poverty Traps: Evidence from Ethiopia. Journal of Development Economics, 96: 159–173. DONRE (Department of Natural Resource and Environment). 2013. Annual report on the Situations of Natural Resource and Environment Management in Cao Bang Province. DONRE, Cao Bang, Viet Nam. Ellis, F. 2000. Rural livelihoods and diversity in developing countries. Oxford University Press. UK. Tài liệu tham khảo 123 EUSME 2015. The ICT market in China. EUSME, Beijing. Available at: in_china_update_-_july_2015.pdf Fahim M. 2015. Agricultural productivity in India: trends during five year plans. The Business & Management Review, 5(4) Fafchamps, M. & Pender, J. 1997. Precautionary Saving, Credit Constraints, and Irreversible Investment: Theory and Evidence fron Semi-Arid India. Journal of Business and Economic Statistics, 15(2): 180–194. Fafchamps, M., Udry, C., & Czukas, K. 1998. Drought and Savings in West Africa: Are Livestock a Buffer Stock? Journal of Development Economics. 55(2): 273–305. Fafchamps, M. 2007. The formation of risk sharing networks. Journal of Development Economics, 83(2): 326–350. Fafchamps, M., & Schündeln, M. 2012. Local financial development and firm performance: Evidence from Morocco. Journal of Development Economics, 103(1): 15–28. FAO. 2012. The state of food and agriculture 2012: Investing in agriculture for a better future. FAO, Rome. FICCI (Federation of Indian Chambers of Commerce and Industry). 2015. Priority Sector Lending and Inclusive Growth. FICCI’s Financial Foresights, Q3 FY 13-14, Vol. 4(3): 23-28. FOMIN (Fondo Multilateral de Inverciones). 2014. Financing Agricultural Value Chains in Latin America: Barriers and Opportunities in Mexico, Peru and Honduras. Washington D.C., USA. Fuglie, K.O. 2012. Productivity growth and technology capital in the global agricultural economy. 30 pp. (Ch 16) In: K.O. Fuglie, S.L. Wang and V.E. Ball (eds). Productivity growth in agriculture: An international perspective. CAB International, Wallingford, Oxfordshire, UK. Giné, X. & Dean, Y. 2009. Insurance, Credit, and Technology Adoption: Field Experimental Evidence from Malawi. Journal of Development Economics, 89(1): 1–11. Gittinger, J.P. 1982. Economic Analysis of Agricultural Projects. The Economic Development Institute of the World Bank. The Johns Hopkins University Press, Baltimore and London, UK. Gonzalez-Vega, C. 1976. On the Iron Law of Interest Rate Restrictions: Agricultural Credit Policies in Costa Rica and in other Less Developed Countries. PhD Dissertation, Department of Economics, Stanford University. USA. Gonzalez-Vega, C. 1998. Do Financial Institutions Have a Role in Assisting the Poor? In M.S. Kimenyi, R.C. Wieland and J.D. Von Pischke (eds.). Strategic Issues in Microfinance. Ashgate, Aldershot, England. UK. González-Vega, C., Rodríguez-Meza, J., Southgate, D. & Maldonado, J.H. 2004. Poverty, Structural Transformation, and Land Use in El Salvador: Learning from Household Panel Data. American Journal of Agricultural Economics, 86(5–Proceedings issue): 1367–1374. Gonzalez-Vega, C., Chalmers, G., Quirós, R. & Rodriguez-Meza, J. 2006. Hortifruti in Central America: A case study about the influence of supermarkets on the development and evolution of creditworthiness among small and medium agricultural producers. Micro report 57. USAID, Washington DC., USA. Gonzalez-Vega, C. 2012. Profundización financiera rural: Políticas públicas, tecnologías de microfinanzas y organizaciones robustas. Microfinanzas y Banca Social, 1(1): 7–52. Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn 124 Gonzalez-Vega, C. & Villafani-Ibarnegaray, M. 2011. Microfinance in Bolivia: Foundation of the Growth, Outreach and Stability of the Financial System. In: B. Armendariz and M. Labie (eds.), The Handbook of Microfinance. World Scientific Publishing Ltd., London, UK. Government of India – Ministry of Agriculture. 2014. Agricultural Statistics at a Glance 2014. Department of Agriculture & Cooperation, Directorate of Economics and Statistics, Ministry of Agriculture, Government of India. Oxford University Press, Oxford. Government of India – Ministry of Agriculture. 2015. Annual Report 2014- 2015. Department of Agriculture & Cooperation, Directorate of Economics and Statistics, Ministry of Agriculture, Government of India. New Delhi, India. Guízar, I., Gonzalez-Vega, C. & Miranda, M. 2015. Uneven Influence of Credit and Savings Deposits on the Dynamics of Technology Decisions and Poverty Traps. PhD Dissertation, Department of Agricultural Economics. The Ohio State University. USA. Hakkala, K. Kang, H-K, O. & Kokko, A. 2001. Step by Step: Economic Reform and Renovation in Viet Nam Before the 9th Party Congress. Working Paper No. 114, The European Institute of Japanese Studies. Hystra. 2014. The Broadband Effect: Enhancing Market-based Solutions for the Base of the Pyramid. Inter-American Development Bank. Washington D.C. Hoda, A. & Terway, P. 2015. Credit Policy for Agriculture in India – An Evaluation. Working Paper 302, Indian Council For Research On International Economic Relations (ICRIER). IFAD (International Fund for Agricultural Development). 2011. In: Financing Smallholder Farmers and Rural Entrepreneurs in the Near East and North Africa. Proceedings of the conference on New Directions for smallholder agriculture, 24–25 Nov. 2011, IFAD, Rome, Italy. IFAD. 2014. Lessons learned, Commodity value chain development projects. IFAD, Rome, Italy. Indian Banks’ Association. 2012. Flow of Credit to the Agriculture Sector. Department of Social Banking, Indian Banks’ Association .Mumbai, India. ITC (International Trade Centre). 2015. Trademap. Available at: Jaffee, D. &. Stiglitz. J.E. 1990. Credit Rationing. Vol. 2, pp.  838–888, In: B.M. Friedman and F.H. Hahn (eds.). Handbook of Monetary Economics. Elsevier, Amsterdam, The Netherlands. Jalan, J. & Ravallion, M. 2001. Behavioral Responses to Risk in Rural China. Journal of Development Economics, 66(1): 23–49. Karlan, D. & Zinman, J. 2010. Expanding microenterprise credit access: Using randomized supply decisions to estimate the impacts in Manila. Abdul Jameel Latif Poverty Action Lab, Cambridge, USA. Kazianga, H. & Udry, C. 2006. Consumption Smoothing? Livestock, Insurance and Drought in Rural Bukina Faso. Journal of Development Economics, 79(2): 413–446. Keeton, W. 1979. Equilibrium Credit Rationing. Garland Press, New York, USA. Kochar, A. 1999. Smoothing Consumption by Smoothing Income: Hours-of-work Responses to Idiosyncratic Agricultural Shocks in Rural India. The Review of Economic and Statistics, 81(1): 50–61. Kompas, T., Hoa, T.M.N. & Quang, H.N. 2009. Productivity, Net Returns and Efficiency: Land and Market Reform in Vietnamese Rice Production. Crawford Tài liệu tham khảo 125 School of Economics and Government, Crawford Building, Australian National University, Canberra, Australia. Levine, R. 2005. Finance and Growth: Theory and Evidence, In: P. Aghion and S. Durlauf (eds.), Handbook of Economic Growth, edition 1, volume 1, chapter 12, pages 865-934, Elsevier. Ligon, E. & Sadoulet, E. 2007. Estimating the effects of aggregate agricultural growth on the distribution of expenditures. Background paper for the World Development Report 2008. Manila Bulletin. 2013. Wider Plantation for Cacao Readied. Manila Bulletin, 03/07/2013. Milder, B. 2008. Closing the gap: Reaching the missing middle and rural poor through value chain finance. Enterprise development and microfinance, 19(4), 301–316. Miller, C. & Jones, L. 2010. Agricultural value chain finance: tools and lessons. FAO and Practical Action, Warwickshire, UK. Miller, C. 2011. Agricultural Value Chain Finance, Strategy and Design. Technical Note. FAO , Rome, Italy. Miller, C. 2013. Agricultural finance. In: J. Ledgerwood, J. Earne and C. Nelson (eds.). The new microfinance handbook: a financial market system perspective. World Bank, Washington D.C., USA. Miranda, M. & Gonzalez-Vega, C. 2011. Systemic Risk, Index Insurance, and the Optimal Management of Aicultural Loan Portfolios in Developing Countries. American Journal of Agricultural Economics, 93(2): 399–406. Miranda, M. & Farrin, K. 2012. Index-insurance for developing countries. Applied Economics Perspectives and Policies, 34(3): 391–427. Morduch, J. 1995. Income Smoothing and Consumption Smoothing. Journal of Economic Perspectives 9(3): 103–114. Moser, C.M. & Barrett, C.B. 2006. The Complex Dynamics of Smallholder Technology Adoption: The Case of SRI in Madagascar. Agricultural Economics, 8(2): 166–173. NABARD (National Bank for Agriculture and Rural Development). 2015. NABARD Annual Report 2014-2015. NABARD. Mumbai, India. Nathan Associates Inc. 2013. Re-Prioritizing Priority Sector Lending in India. Impact of Priority Sector Lending on India’s Commercial Banks. Economic Impact Analysis. Neubart, A. & Roeckel, K. 2008. The Vietnamese Market Economy – What Remains of its Socialist Orientation?. Pacific News, 29: 8–10. ODI. 2008. Towards ‘smart’ subsidies in agriculture? Lessons from recent experience in Malawi. Natural resource perspectives 116. London. Ouma, J.O., Murithi, F.M., Mwangi, W., Verkuijl, H., Gethi, M. & de Groote, H. 2002. Adoption of Maize Seed and Fertilizer Technologies in Embu District, Kenya. CIMMYT, Mexico, D.F. and Kenya Agricultural Research Institute. Parker, S.C. 2000. Saving to Overcome Borrowing Constraints: Implications for Small Business Entry and Exit. Small Business Economics, 15: 223–232. Partlow, J.F. 2011. Cassava Planting Gains Ground. Visayan Daily Star, 29/03/2011. PCAARD (Philippine Council for Agriculture, Aquatic and Natural Resources Research and Development). 2003. Cassava Industry Status. Available at: ask=view&id=560&Itemid=434 Phi, T.T., Duong, N.V., Quang, N.N. & Vang P.L. [Morrison, E. & Vermeulen, S. (eds)]. 2004. Making the most of market chains: challenges for small-scale farmers Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn 126 and traders in upland Viet Nam. Small and Medium Forest Enterprises Series No. 2. International Institute for Environment and Development (IIED), London, UK. Rajani, B. 2014. Adequate flow of credit in changing agricultural scenario through kisan credit card scheme in India. Abhinav International Monthly Refereed Journal of Research in Management & Technology, 3(9): no pages online ISSN-2320-0073. Reardon, T., Chen, K., Minten, B., & Adriano, L. 2012. The quiet revolution in staple food value chains: Enter the dragon, the elephant and the tiger. Asian Development Bank, Mandaluyong City, Philippines. Reuters. 2013. UPDATE 3-U.S. to get coveted Alibaba IPO after Hong Kong talks founder. Funds News. Available at: idUSL4N0HL10H20130925 Reuters. 2014. Alibaba in funding talks with Snapdeal. Technology News. Available at: http:// www.reuters.com/article/us-india-snapdeal-alibaba-idUSKBN0M70Q020150311 Rudengren, J. Huong, N.T.L. & Wachenfelt, A.V. 2012. Policies in Viet Nam Transitioning from Central Planning to a Market Economy. Stockholm Paper, Institute for Security and Development Policy. Stockholm, Sweden. Ruotsi, J. 2014. Pro-Poor Partnerships for Agro-Forestry Development in Bac Kan - Report on Rural Finance Support Mission. IFAD Viet Nam, unpublished. Rutherford, S. 1999. The poor and their money. United Kingdom’s Department for International Development. London. Salasya, B.D.S., Mwangi, W., Verkuijl, H., Odeondo, M.A. & Odenya, J.O. 1998. Adoption of Seed and Fertilizer Packages and the Role of Credit in Smallholder Maize Production in Kamakega and Vihiga Districs, Kenya. Mexico, D.F.: CIMMYT and Kenya Agricultural Research Institute. Satish G.A. 2014. APMC and E-trading for Financial Inclusiveness in Karnataka IBMRDs. Journal of Management and Research, Volume-3, Issue-2. Schreiner, M. 1998. Aspects of Outreach: A Framework for the Discussion of the Social Benefits of Microfinance. Journal of International Development, 14: 1–13. Shalendra, D. 2013. Impact Assessment of e-tendering of Agricultural Commodities in Karnataka, Research Report (2012-13) CCS National Institute of Agricultural Marketing (NIAM), Jaipur, Rajasthan. Sherlund, S.M., Barrett, C.B. & Adesina, A.A. 2002. Smallholder Technical Efficiency Controlling for Environmental Production Conditions. Journal of Development Economics, 69(1): 85–101. Sogo-Temi, J. & Olubiyo, S. 2004. The role of agricultural credit in the development of the agricultural sector: the Nigerian case. African Review of Money Finance and Banking, 101–116. Son, D.K. 2009. Report Outline: Vision for Viet Nam’s Rural Developments Strategy to 2020. Institute of Policy and Strategy for Agriculture and Rural Development. Hanoi, Viet Nam. Stark, O. & Levhari, D. 1982. On Migration and risk in LDCs. Economic Development and Cultural Change, 31(1): 191–196. Stiglitz, J.E. & Weiss, A. 1981. Credit Rationing in Markets with Imperfect Information. The American Economic Review, 71(3): 393–410. Sunderlin, W. & Ba, H. 2005. Poverty alleviation and forests in Viet Nam. Centre for International Forest Research. Jakarta. Syed, S. & Miyazako, M. 2013. Promoting Investment in Agriculture for Increased Production and Productivity. FAO. Rome, Italy. Available at: a-az725e.pdf (accessed 28 November 2016). Tài liệu tham khảo 127 Tam, L.T. 2011. Viet Nam rural financial market – Fact diagnostics and the policy implications for rural development of Viet Nam. Journal of Economics and Development, 13(1): 57–73. Teves, G.B. 2014. Improving credit access for the food and agriculture sector through enhanced implementation of existing policies and new strategies. School of Economics, Univ. of the Philippines, Quezon. Thanh, V.T. 2005. Viet Nam’s trade liberalization and international economic integration: Evolution, Problems and Challenges. Available at: publications/reports/200504/t20050416_111302.htm (accessed 2 January 2015). Thapa, G. & Gaiha, R. 2014. Smallholder farming in Asia and the Pacific: challenges and opportunities. In: P. Hazell and A. Rahman (eds). New Directions for Smallholder Agriculture. IFAD, Rome, Italy. The Economist. 2013a. E-commerce in China: The Alibaba phenomenon. The Economist. The Economist. 2013b. Alibaba: The world’s greatest bazaar. The Economist. Tuan, N.D.A. 2011. Viet Nam’s Agrarian Reform, Rural Livelihood and Policy Issues. Available at: Do_Anh_Tuan.pdf (accessed 3 January 2015). USAID. 2011. Rural and agricultural finance: taking stock of five years of innovations. Micro report 181. USAID, Washington D.C., USA. Valenzuela, H. 2011. Farm and Forestry Production and Marketing Profile for Ginger, In: Elevitch, C.R. (ed.). Specialty crops for Pacific Island Agroforestry, Permanent Agriculture Resources (PAR), Holualoa, Hawaii, USA. Vodafone Group. 2015. Connected Farming in India: How Mobile Xan Help Support Farmers’ Livelihoods. Vodafone Group, Berkshire, UK. Von Pischke, J.D., Adams W.D. & Donald, G. (eds). 1983. Rural Financial Markets in Developing Countries. Their Use and Abuse. The Johns Hopkins University Press, Baltimore, USA. Vu, T.H., Duc, T.P. & Waibei, H. 2012. Farm size and Productivity: Empirical Evidence from Rural Viet Nam. Proceeding of the Conference on International Research on Food Security, Natural Resource Management and Rural Development, organised by Georg-August Universität Göttingen and University of Kassel-Witzenhausen. Tropentag 2012, Göttingen, Germany. Weber, R. & Musshoff, O. 2012. Microfinance for agricultural firms - What can we learn from bank data? Independent Evaluation Unit, KfW Development Bank, Frankfurt, Germany. World Bank. 2008. World Development Report 2008: Agriculture for Development. World Bank Group, Washington, D.C., USA. World Bank. 2009. Viet Nam enterprise survey for 2009. Available at: World Bank. 2014a. Well Begun but not Yet Done – Progress and Emerging Challenges for Viet Nam. Edited by Valerie Kozel, World Bank Group, Washington D.C., USA. World Bank. 2014b. Financial Sector Assessment Viet Nam. World Bank Group, Washington, D.C., USA. Yaron, J., McDonald, P.B. & Charitonenko, S. 1998. Promoting Efficient Rural Financial Intermediation. The World Bank Research Observer, 13(2): 147–170. Zimmerman, F.J. & Carter, M.R. 2003. Asset Smoothing, Consumption Smoothing and the Reproduction of Inequality under Risk and Subsistence Constraints. Journal of Development Economics, 71: 233–260. Chịu trách nhiệm xuất bản: Giám đốc – Tổng biên tập: TS. LÊ LÂN Biên tập – sửa bản in : Nguyễn Thanh Vinh Nguyễn Khánh Hà NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP 167/6 - Phương Mai - Đống Đa - Hà Nội ĐT: (024) 38523887 – 38521940 Fax: (024) 35760748. E-mail: nxbnn@yahoo.com.vn Website: nxbnongnghiep.com.vn CHI NHÁNH NXB NÔNG NGHIỆP 58 Nguyễn Bỉnh Khiêm Q.1, TP. Hồ Chí Minh ĐT: (028) 38299521 – 39111603 Fax: (028) 39101036 E-mail: cnnxbnn@yahoo.com.vn In 500 bản, khổ 17 x 25 cm tại NXB. Nông Nghiệp – 167/6 Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội; Chi Nhánh – 58 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quận I, TP.HCM. XNĐKXB số 4902-2019/CXBIPH/2-357/NN ngày 28/11/2019. QĐXB số: 054/QĐ CNNXBNN ngày 9/12/2019. ISBN: 978-604-60-3115-4. In xong và nộp lưu chiểu quý IV/2019 Những chiến lược sáng tạo về quản lý rủi ro trong tài chính nông nghiệp và nông thôn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_chien_luoc_sang_tao_ve_quan_ly_rui_ro_trong_tai_chinh.pdf
Tài liệu liên quan