Những điểm mới của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo bộ luật dân sự năm 2015

Về bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản, đây là hai biện pháp “mới” được quy định trong Mục Các biện pháp bảo đảm, thực tế các biện pháp này đã được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nhưng ở trong các phần khác. Bảo lưu quyền sở hữu được ghi nhận dưới hình thức là mua trả chậm, trả dần tại khoản 1 Điều 461 Bộ luật Dân sự 2005. Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán được tiếp cận với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Cách tiếp cận mới này của Bộ luật Dân sự năm 2015 phù hợp với bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. Nó cho thấy sự tiệm cận gần hơn với thông lệ quốc tế về biện pháp bảo đảm của Bộ luật Dân sự năm 2015. Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký15. Còn đối với “cầm giữ tài sản” được quy định tại Điều 416 tại Mục 7 chương XVII phần thứ ba của Bộ luật Dân sự năm 2005. Đây là một loại hợp đồng song vụ, bản chất của biện pháp này là để bảo đảm quyền của bên cầm giữ được phép chiếm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ nhằm buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2015 tiếp thu toàn bộ nội dung của Bộ luật Dân sự năm 2015 về bản chất cầm giữ tài sản, chỉ “chuyển” biện pháp này đến Mục Các biện pháp bảo đảm, còn quy định vẫn giữ nguyên. Đồng thời quy định hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba phát sinh “kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 161 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những điểm mới của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo bộ luật dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 61 Tham khảo pháp luật một số quốc gia trên thế giới, thì khái niệm giao dịch bảo đảm (secured transactions) chỉ được áp dụng đối với các quan hệ nhận bảo đảm bằng động sản. Tuy nhiên, khái niệm này lại có tính khái quát cao bởi chỉ xét trên một tiêu chí duy nhất, đó là mục đích xác lập giao dịch. Theo đó, mọi giao dịch, không kể tên gọi, hình thức thể hiện là gì, quyền phát sinh từ giao dịch đó là như thế nào, nhưng nếu nhằm mục đích xác lập một lợi ích bảo đảm (secured interest) đối với động sản thì được gọi là giao dịch bảo đảm. “Tất cả các biện pháp bảo đảm đều được điều chỉnh bởi một hệ thống đơn nhất và thống nhất. Giao dịch bảo đảm là tất cả các giao dịch, bất kể dưới hình thức nào, xác lập một quyền lợi bảo đảm trên tài sản thông qua hợp đồng”2. Với phương thức xác định như vậy, khái niệm giao dịch bảo đảm bao quát cả các biện pháp bảo đảm đối vật truyền thống theo hệ thống luật thành văn như cầm cố, thế chấp và các giao dịch có tính chất tương tự như thỏa thuận bán hàng có bảo lưu quyền sở hữu, cho thuê động sản dài hạn, quyền ưu tiên theo luật định hoặc theo phán quyết của Toà án Nói cách khác, mọi giao dịch liên quan đến động sản đều có thể được thừa nhận là giao dịch bảo đảm và áp dụng quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm để điều chỉnh, nếu giao dịch đó hướng tới việc xác lập “lợi ích bảo đảm”3. Điều này cũng đồng nghĩa, các loại hình giao dịch bảo đảm với tư cách là đối tượng của hoạt động đăng ký theo quy định của pháp luật các nước này không bị “bó hẹp” trong khái niệm giao dịch bảo đảm như ở nước ta. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 Huỳnh Nữ Khuê Các1 1 Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản tại Tp. Hồ Chí Minh 2 Xuan Thao Nguyen (2016), Kinh nghiệm quốc tế trong việc soạn thảo hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm, Tài liệu Hội thảo Soạn thảo hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm, Bộ Tư pháp- IFC, tr.14 3 Hồ Quang Huy (2010), Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, đề tài nghiên cứu cấp cơ sở của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, tr.41 Tóm tắt: Bài viết đề cập những nội dung mới mang tính đột phá về các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự (Mục 3 Chương XV, phần thứ 3 của Bộ luật Dân sự năm 2015). Các quy định này, nhìn một cách tổng thể , đã có sự thay đổi theo hướng gần sát hơn với thông lệ quốc tế. Nội dung tác giả đề cập đến các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự dưới góc độ là đối tượng của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm. Từ khóa: Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự; Giao dịch bảo đảm; Đăng ký giao dịch bảo đảm. Nhận bài: 28/10/2016; Hoàn thành biên tập:25/11/2016; Duyệt đăng: 20/12/2016 The new location of the measures to ensure the implementation of its obligations under the Civil Code 2015 Abstract: The article mentions the new content breakthrough on Measures to ensure the civil obligations (Section 3, Chapter XV, section 3 of the Civil Code 2015). These regulations, looked a whole, there was a change in the direction of much closer to the international rules. Content authors mention of measures to ensure the implementation of civil obligations in view of the subject of the registration of security transactions. Keywords: Measures to Ensure the Civil Obligations; Security Transactions; Registration of Security Transactions. Received: Oct 28th, 2016; Editingcompleted: Nov 25th, 2016; Accepted for publication: Dec 20 th, 2016. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 62 Để khắc phục điều này, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không đề cập khái niệm của giao dịch bảo đảm theo hướng liệt kê các biện pháp bảo đảm như Bộ luật Dân sự năm 2005 nữa mà tiếp cận chúng dưới góc độ là đối tượng của hoạt động “đăng ký biện pháp bảo đảm”4, đó là: Cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp, cầm giữ tài sản5. Ngoài bảy biện pháp như Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 có bổ sung thêm hai biện pháp bảo đảm đó là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản, các biện pháp bảo đảm này mà thực tế đã tồn tại nhưng chưa được Bộ luật Dân sự năm 2005 xem như là các biện pháp bảo đảm, đồng thời có một số thay đổi cơ bản về bản chất của các biện pháp bảo đảm như thế chấp bằng tài sản của người thứ ba6, cầm cố tài sản hay bảo lãnh tài sản. Trong nội dung phần các biện pháp bảo đảm theo Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có thêm một thuật ngữ “mới” xét theo hình thức thể hiện, đó là thuật ngữ “hiệu lực đối kháng với người thứ ba”. Thuật ngữ này xét về bản chất là không mới, đây là sự thể hiện khác đi của thuật ngữ “giá trị pháp lý đối với người thứ ba” đã được quy định tại khoản 3 Điều 323 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Việc sử dụng cụm từ “hiệu lực đối kháng” thay cho “giá trị pháp lý” giúp cho quy định này chính xác hơn và khoa học hơn. Bởi lẽ, mọi giao kết, thỏa thuận dân sự, bao gồm cả thỏa thuận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự hợp pháp đều có giá trị pháp lý đối với người thứ ba và phải được tất cả các chủ thể khác tôn trọng7, không phụ thuộc vào việc cam kết, thỏa thuận đó được hay không được đăng ký. Việc đăng ký trong trường hợp này chỉ có ý nghĩa là phương thức pháp lý công bố công khai quyền được bảo đảm bằng tài sản của bên nhận bảo đảm, để đối kháng với người thứ ba trong trường hợp có nhiều lợi ích được thiết lập lên một tài sản. Nghĩa là, khi biện pháp bảo đảm được đăng ký thì người thứ ba có lợi ích đối kháng với bên nhận bảo đảm trong biện pháp bảo đảm được đăng ký phải tôn trọng quyền được bảo đảm bằng tài sản của bên nhận bảo đảm, trong đó có hai quyền năng quan trọng là quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền được thanh toán trước (khoản 2 Điều 297 Bộ luật Dân sự năm 2015). Theo đó, trường hợp có nhiều chủ thể cùng có lợi ích “đối kháng” nhau trên cùng một tài sản bảo đảm thì đăng ký chính là căn cứ xác định lợi ích của chủ thể nào được ưu tiên bảo vệ trước dựa trên các nguyên tắc quy định tại Điều 308 Bộ luật Dân sự năm 2015. Nghĩa là, việc đăng ký chỉ có ý nghĩa trong việc phân định thứ tự ưu tiên bảo vệ lợi ích được bảo đảm trong trường hợp có sự đối kháng về lợi ích, hay nói cách khác có nhiều lợi ích đối kháng cùng xác lập lên một tài sản bảo đảm, chứ không phải là điều kiện để giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ ba8. Quy định về thời điểm phát sinh hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba trong Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có nhiều điểm khác biệt. Trước đây, hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba (giá trị pháp lý đối với người thứ ba) chỉ phát sinh khi có đăng ký giao dịch bảo đảm và được tính từ thời điểm đăng ký (khoản 3 điều 323 Bộ luật Dân sự năm 2005). Đến Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba phát sinh trong hai trường hợp, một là “các biện pháp bảo đảm được đăng ký” hoặc là “bên bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản”, tùy theo quy định của từng biện pháp bảo đảm mà hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba sẽ được áp dụng khác nhau ở thời điểm cụ thể. Việc Bộ luật Dân sự năm 2015 4 Khoản 1 Điều 297 Bộ luật Dân sự năm 2015. 5 Phần thứ 3, Chương XV, Mục 3, tiểu mục 1. 6 Luật không quy định biện pháp này nhưng thực tế các tổ chức tín dụng vẫn ký hợp đồng thế chấp bằng tài sản của người thứ ba đối với trường hợp người thứ ba bảo lãnh cho bên vay bằng tài sản của mình. 7 Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015. 8 Nguyễn Quang Hương Trà (2016), Một số điểm mới của chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật dân sự 2015. Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 63 quy định hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba theo hướng rộng hơn, không gói gọn trong biện pháp đăng ký giao dịch bảo đảm như Bộ luật Dân sự năm 2005 đã tiệm cận tốt hơn với các quy định của Ủy ban Luật Thương mại quốc tế của Liên Hiệp quốc (UNCITRAL). Theo hướng dẫn lập pháp về giao dịch bảo đảm của UNCITRAL năm 2007 thì hiệu lực đối kháng đối với bên thứ ba có thể xác định bằng nhiều cách như: Đăng ký giao dịch bảo đảm, chiếm hữu đối với một số loại tài sản (hàng hóa, chứng từ về quyền sở hữu); kiểm soát đối với một số loại tài sản (như cổ phiếu, trái phiếu) hay bằng phương thức tự động (không cần làm gì) đối với một số loại giao dịch bảo đảm đặc thù trên một số loại tài sản nhất định (bán trả chậm, trả dần có bảo lưu quyền sở hữu)9. Về biện pháp cầm cố tài sản: Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định khái niệm biện pháp cầm cố tại Điều 309 không khác nhiều về câu chữ so với quy định tại Điều 326 Bộ luật dân sự 2005. Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005 thì “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Còn Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”. Việc bỏ đi cụm từ “dân sự” có ý nghĩa rằng, việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng biện pháp cầm cố không giới hạn trong nghĩa vụ dân sự mà có thể mở rộng ra các nghĩa vụ khác của các bên tham gia giao dịch như kinh tế, thương mại Về hiệu lực của hợp đồng cầm cố: tại khoản 1 Điều 310 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng cầm cố tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết”, quy định này hoàn toàn khác với so quy định về hiệu lực của cầm cố trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định đối với hợp đồng cầm cố tài sản, thì “Cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố”10. Trước đây, một trong những điểm để phân biệt sự khác nhau giữa hợp đồng cầm cố và hợp đồng thế chấp đó là thời điểm chuyển giao tài sản, tuy nhiên đến thời điểm có hiệu lực của Bộ luật Dân sự 2015 thì sự phân biệt đó không còn nữa, hiệu lực hợp đồng cầm cố cũng giống với hiệu lực của hợp đồng thế chấp, đều phát sinh từ thời điểm giao kết hợp đồng. Về hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba đối với biện pháp bảo đảm cầm cố tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 đã có sự thay đổi, theo đó “cầm cố tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố”11. Quy định này hoàn toàn khác so với quy định tại Bộ luật Dân sự 2005, trước đây, để phát sinh hiệu lực đối kháng, các bên phải đi đăng ký giao dịch bảo đảm. Đến ngày 01/01/2017 thì đối với các trường hợp cầm cố tài sản, bên nhận cầm cố không cần phải đi đăng ký mà đương nhiên phát sinh hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba kể từ thời điểm người nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố. Trong Bộ luật Dân sự 2015 lần đầu tiên cũng đề cập đến thuật ngữ “cầm cố bất động sản”. Trước đây, đối với tài sản là bất động sản, trong các quy định của pháp luật chỉ dùng biện pháp thế chấp, bởi vì bản chất của biện pháp cầm cố là cầm giữ, chiếm giữ tài sản, phải có sự chuyển giao tài sản trên thực tế cho bên nhận bảo đảm. Các bất động sản cụ thể là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, quyền sở hữu công trình trên đất thì chỉ có thể chuyển giao về mặt giấy tờ chứng minh quyền 9 Xuân Thảo Nguyễn (2015), Bình luận của IFC về dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi: chế định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tài liệu hội thảo lấy ý kiến về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật dân sự sửa đổi, tr.3 10 Xem: Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2005. 11 Khoản 2 Điều 310 Bộ luật Dân sự 2015. 64 sở hữu của tài sản, không phải chuyển giao về mặt vật lý của tài sản, nên hiếm khi có trường hợp cầm cố tài sản là bất động sản. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tiếp cận việc bảo đảm tài sản là bất động sản bằng biện pháp cầm cố cũng là một cách tiếp cận mới. Và để quy định này đi vào thực tế cần có nhiều văn bản của luật chuyên ngành, văn bản dưới luật điều chỉnh, quy định cụ thể hơn để phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự . Đối với trường hợp cầm cố tài sản là bất động sản, thì hiệu lực đối kháng với người thứ ba không giống như các trường hợp cầm cố tài sản thông thường, là đương nhiên có hiệu lực kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản, mà để có hiệu lực đối kháng với người thứ ba, cầm cố bất động sản phải được đăng ký giao dịch bảo đảm12. Về biện pháp thế chấp tài sản: Theo quy định từ điều 317 đến điều 334 Bộ luật Dân dự 2015, thì biện pháp thế chấp tài sản nhìn dưới góc độ là đối tượng của hoạt động đăng ký không khác nhiều so với Bộ luật Dân sự 2005. Theo quy định tại Điều 342 Bộ luật dân sự năm 2005 thì “thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp”. Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có cách tiếp cận tương tự, chỉ đảo cụm từ “không chuyển giao tài sản” lên trước cụm từ “bên kia (bên nhận thế chấp)” và bỏ từ “dân sự” sau cụm từ “thực hiện nghĩa vụ”, đó là “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)”. Về hiệu lực của hợp đồng thế chấp và hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba trong trường hợp thế chấp tài sản vẫn giữ nguyên các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có một quy định mới đó là khi xử lý tài sản là quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất hoặc ngược lại. Trước đây, Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa đề cập đến trường hợp này, và thực tế đã xảy ra rất nhiều trường hợp bên thế chấp tài sản chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất hoặc ngược lại. Vì đặc tính tự nhiên vốn có của tài sản nên trên thực tế đất và tài sản gắn liền với đất thường là một thể thống nhất về hiện trạng và tình trạng pháp lý. Trên cơ sở kế thừa các quy định tại khoản 19 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm đối với trường hợp xử lý tài sản như trên, khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác” và “Trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác” (khoản 1 Điều 326 Bộ luật dân sự 2015). Quy định này đã giúp tháo gỡ những vướng mắc trong xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất không có tài sản gắn liền với đất và ngược lại, bởi vì phải có cơ chế xử lý đồng thời trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất hoặc chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất giúp giải quyết triệt để tình trạng khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là vấn đề chuyển quyền sở hữu tài sản thế chấp cho bên mua. Về trường hợp bên nhận tài sản bảo đảm ký hợp đồng “thế chấp bằng tài sản của người thứ ba”, theo quy định của pháp luật hiện hành, 12 Đoạn thứ 2 khoản 2 Điều 310 Bộ luật Dân sự năm 2015. 13 Bộ Tư pháp (2010), Cần nhìn nhận đúng bản chất của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm nghĩa vụ của người thứ ba. HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 65 không có biện pháp bảo đảm nào là thế chấp bằng tài sản của người thứ ba mà chỉ có biện pháp thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh. Vì vậy, khi các bên ký hợp đồng dưới hình thức là hợp đồng thế chấp bằng tài sản của người thứ ba thì bị Tòa án tuyên vô hiệu13. Xét về hình thức, bảo lãnh là biện pháp bảo đảm mang tính “đối nhân”, nghĩa là bên nhận bảo lãnh cam kết thực hiện một nghĩa vụ nào đó thay cho bên được bảo lãnh, đó là việc “người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.14”, nhưng tại quy định điều 369 Bộ luật Dân sự năm 2005 lại quy định “Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”. Vậy xét cho cùng, bản chất của biện pháp bão lãnh luôn luôn là bằng tài sản. Bởi lẽ, để bảo đảm cho một nghĩa vụ tài sản, thì đương nhiên phải dùng một biện pháp bảo đảm có giá trị bằng tài sản. Khi một bên chấp nhận biện pháp bảo lãnh của bên thứ ba để bảo đảm cho nghĩa vụ là họ đã nhìn vào tài sản của bên nhận bảo lãnh với ước lượng chắc chắn về khả năng bên bảo lãnh sẽ phải dùng một phần tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi có phát sinh. Để tránh những quan điểm chưa đồng nhất trong thời gian qua về việc dùng tài sản của người thứ ba để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sẽ được thể hiện dưới hình thức là biện pháp bảo đảm nào, bảo lãnh hay thế chấp bằng tài sản của người thứ ba. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định cụ thể về trường hợp này tại khoản 3 Điều 336 : “Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”. Như vậy, biện pháp bảo lãnh theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 không còn đơn thuần là biện pháp mang tính đối nhân mà tùy vào từng trường hợp cụ thể, sẽ có bảo lãnh mang tính chất “đối nhân” và bảo lãnh mang tính chất “đối vật”. Về bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản, đây là hai biện pháp “mới” được quy định trong Mục Các biện pháp bảo đảm, thực tế các biện pháp này đã được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nhưng ở trong các phần khác. Bảo lưu quyền sở hữu được ghi nhận dưới hình thức là mua trả chậm, trả dần tại khoản 1 Điều 461 Bộ luật Dân sự 2005. Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán được tiếp cận với tư cách là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Cách tiếp cận mới này của Bộ luật Dân sự năm 2015 phù hợp với bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu. Nó cho thấy sự tiệm cận gần hơn với thông lệ quốc tế về biện pháp bảo đảm của Bộ luật Dân sự năm 2015. Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký15. Còn đối với “cầm giữ tài sản” được quy định tại Điều 416 tại Mục 7 chương XVII phần thứ ba của Bộ luật Dân sự năm 2005. Đây là một loại hợp đồng song vụ, bản chất của biện pháp này là để bảo đảm quyền của bên cầm giữ được phép chiếm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ nhằm buộc bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2015 tiếp thu toàn bộ nội dung của Bộ luật Dân sự năm 2015 về bản chất cầm giữ tài sản, chỉ “chuyển” biện pháp này đến Mục Các biện pháp bảo đảm, còn quy định vẫn giữ nguyên. Đồng thời quy định hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba phát sinh “kể từ thời điểm bên cầm giữ chiếm giữ tài sản16”. (Xem tiếp trang 70) 14 Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005. 15 Khoản 2 điều 331 Bộ luật Dân sự năm 2015. 16 Khoản 2 Điều 347 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_diem_moi_cua_cac_bien_phap_bao_dam_thuc_hien_nghia_vu.pdf
Tài liệu liên quan