Những điểm mới của hện thống quy phạm xung đột trong bộ luật dân sự năm 2015

Khắc phục những hạn chế của BLDS năm 2005, Điều 683 BLDS năm 2015 đã mở rộng phạm vi các vấn đề trong quan hệ hợp đồng mà các bên được thỏa thuận chọn luật áp dụng. Cụ thể: Theo quy định tại khoản 1 Điều 683: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lưạ chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng”. Như vậy, phạm vi thỏa thuận luật áp dụng là toàn bộ các vấn đề có liên quan đến quan hệ hợp đồng trừ hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Điều này có nghĩa là nếu luật áp dụng cho hợp đồng là luật do các bên thỏa thuận thì luật này cũng sẽ được sử dụng để xác định tính hợp pháp của hợp đồng. Nói gọn lại, Điều 683 BLDS năm 2015 đã được xây dựng theo hướng mở rộng tối đa phạm vi các bên chủ thể của hợp đồng được thỏa thuận chọn luật áp dụng và điều này phù hợp với pháp luật quốc tế. Công ước Rome ngày 19/6/1980 về Luật áp dụng đối với những nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng cũng như trong Điều 3 Nghị định Rome I (Regulation (EC) No 593/2008 of the European Parliament and of the Council of 17 June 2008 on the law applicable to contractual obligations), Nghị định điều chỉnh về nghĩa vụ hợp đồng tại Liên minh châu Âu thay thế Công ước Rome 1980 quy định:“Hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật do các bên thỏa thuận lựa chọn. Sự lựa chọn phải được thể hiện rõ ràng hoặc được chứng minh rõ ràng bởi các điều khoản trong hợp đồng hoặc tùy theo từng trường hợp cụ thể”. Tương tự, các công ước quốc tế đa phương được ban hành trong khuôn khổ của Hội nghị La Haye về TPQT như: Công ước La Haye ngày 15/6/1955 về Luật áp dụng đối với mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước La Haye ngày 14/3/1978 về Luật áp dụng cho chi nhánh, văn phòng đại diện, Công ước La Haye ngày 22/12/1986 về Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng quy định tương tự. Điều 2 Công ước La Haye ngày 15/6/1955 quy định: “Hợp đồng mua bán chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật của nước được chỉ định bởi các bên giao kết”7. Luật hợp đồng của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1999 cũng thừa nhận nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng trong các hợp đồng quốc tế mà không giới hạn phạm vi thỏa thuận lựa chọn8.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những điểm mới của hện thống quy phạm xung đột trong bộ luật dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÛÄNG ÀIÏÍM MÚÁI CUÃA HÏÅ THÖËNG QUY PHAÅM XUNG ÀÖÅT TRONG BÖÅ LUÊÅT DÊN SÛÅ NÙM 2015 BàNh QuốC TuấN* * TS. Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 1 Xem thêm: Đoàn Năng, Một số vấn đề lý luận cơ bản về Tư pháp quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 72 - 74. 45 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 18(322) T9/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 1. Các loại quy phạm xung đột được xây dựng trong Bộ luật Dân sự năm 2015 Về mặt lý luận, căn cứ vào kỹ thuật xây dựng có hai loại QPXĐ: QPXĐ một bên (một chiều) và QPXĐ hai bên (hai chiều). QPXĐ một bên là loại quy phạm chỉ ra loại quan hệ dân sự chỉ áp dụng pháp luật của một nước cụ thể. QPXĐ hai bên là quy phạm đề ra nguyên tắc chung để các cơ quan tư pháp có thẩm quyền lựa chọn luật của một nước nào đó sẽ được áp dụng để điều chỉnh đối với quan hệ tương ứng. Phần lớn các QPXĐ trong TPQT là QPXĐ hai bên, bởi lẽ, mặc dù việc xây dựng QPXĐ trong luật quốc gia là ý chí đơn phương của quốc gia nhưng phải tính đến lợi ích của các quốc gia khác. Nói cách khác, việc đưa ra nguyên tắc lựa chọn pháp luật trong QPXĐ phải dựa trên các chuẩn mực pháp lý đã được lý luận về TPQT thừa nhận. Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu TPQT Việt Nam, căn cứ vào tính chất của QPXĐ có thể chia thành QPXĐ mệnh lệnh (imperative) và QPXĐ tùy nghi (dispositive)1. QPXĐ có tính chất mệnh lệnh là QPXĐ quy định các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải dứt khoát tuân theo, không có quyền thỏa thuận chọn luật để áp dụng. QPXĐ mang tính chất tùy nghi là QPXĐ cho phép các bên đương sự thỏa thuận chọn pháp luật để áp dụng điều chỉnh các quan hệ dân sự của mình. Căn cứ vào tiêu chí phân loại QPXĐ trên có thể thấy, trong Phần thứ bảy BLDS năm 2005 đã xuất hiện cả hai loại QPXĐ nhưng số lượng QPXĐ một bên ngang bằng với số lượng QPXĐ hai bên. Điều này thể hiện rằng, xu thế của các nhà lập pháp khi xây dựng Phần thứ bảy muốn hướng đến việc áp dụng pháp luật Việt Nam càng nhiều càng tốt trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có YTNN. Tuy nhiên, cũng chính việc xây dựng nhiều QPXĐ một bên nhằm hướng đến áp dụng pháp luật Việt Nam có thể sẽ làm cho mức độ khái quát của điều luật không cao. Nói cách khác, phạm vi điều chỉnh của điều luật sẽ không thể bao quát hết được các trường hợp quan hệ dân sự có YTNN xảy ra trên thực tế, bởi vì các quy Việc ban hành Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 là một bước tiến bộ lớn của pháp luật dân sự Việt Nam. Trong đó, với việc xây dựng Phần thứ năm thay cho Phần thứ bảy của BLDS năm 2005, hệ thống quy phạm xung đột (QPXĐ) của tư pháp quốc tế (TPQT) Việt Nam đã có nhiều tiến bộ quan trọng trong việc chọn luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (YTNN). 46 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 18(322) T9/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT phạm này chỉ tính đến các trường hợp có liên quan trực tiếp đến Việt Nam mà đa phần là quan hệ đó phải xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam mà không tính đến trường hợp quan hệ đó liên quan đến Việt Nam nhưng xảy ra ở nước còn lại trong quan hệ hoặc nước thứ ba hoặc đó là quan hệ giữa các chủ thể Việt Nam nhưng xảy ra ở nước ngoài. Bên cạnh đó, tính khả thi của việc áp dụng các quy phạm này cũng không cao vì như nhận định ở trên, chỉ khi nào cơ quan có thẩm quyền chọn luật áp dụng là cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thì các quy phạm này mới có cơ hội áp dụng trong thực tế. Ngoài ra, việc xây dựng nhiều QPXĐ một bên nhằm hướng đến việc áp dụng pháp luật Việt Nam càng nhiều càng tốt tỏ ra không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của TPQT, bao gồm bốn nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chế độ sở hữu khác nhau; nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa công dân nước sở tại với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau trên lãnh thổ nước sở tại; nguyên tắc công nhận quyền miễn trừ của quốc gia; nguyên tắc có đi có lại2, trong đó quan trọng nhất là nguyên tắc có đi có lại. Nói cách khác, nếu áp dụng các QPXĐ của Phần thứ bảy BLDS năm 2005, rõ ràng pháp luật nước có liên quan đến quan hệ ít có cơ hội áp dụng hơn luật Việt Nam. Điều này chưa hẳn là tốt bởi vì trong Phần thứ bảy rất ít xuất hiện trường hợp các bên trong quan hệ được thỏa thuận chọn luật áp dụng nên chắc chắn rằng, các bên tham gia quan hệ ngay từ đầu sẽ không chọn luật áp dụng là luật Việt Nam và hạn chế đến mức tối đa việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến quan hệ đó trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế trong giai đoạn sắp tới, sự tuân thủ các chuẩn mực pháp lý quốc tế cơ bản sẽ là yêu cầu xuyên suốt trong việc xây dựng các QPXĐ, Phần thứ năm BLDS năm 2015 đã tăng cường các QPXĐ hai bên và giảm số lượng các QPXĐ một bên. Cụ thể: Trong 25 điều luật của Phần thứ năm (từ Điều 663 - Điều 687) ngoài 9 điều luật liên quan đến các nguyên tắc chung (Điều 663 - Điều 671), 16 điều luật còn lại là các QPXĐ dùng để chọn luật áp dụng, trong đó chỉ có 6 khoản là QPXĐ một bên, ấn định luật áp dụng là luật Việt Nam, đối với các quan hệ pháp luật liên quan trực tiếp đến Việt Nam. Cụ thể: đoạn 2 khoản 2 Điều 672, khoản 2 Điều 673, khoản 3 Điều 674, khoản 2 Điều 675, khoản 3 Điều 676, khoản 5 Điều 683. Như vậy, so với Phần thứ bảy của BLDS năm 2005 thì số lượng QPXĐ một bên đã giảm đi rất nhiều. Điều này thể hiện sự thay đổi trong nhận thức của nhà làm luật, đưa các QPXĐ của Việt Nam phù hợp hơn với các chuẩn mực pháp lý quốc tế, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của TPQT. Mặt khác, quan trọng hơn, làm cho pháp luật Việt Nam có nhiều cơ hội được áp dụng hơn trong thực tiễn bởi lẽ pháp luật Việt Nam do QPXĐ một bên dẫn chiếu đến chỉ có cơ hội áp dụng khi QPXĐ được sử dụng chọn luật là QPXĐ của Việt Nam. Trong khi đó, những QPXĐ một bên trong BLDS năm 2005 chỉ là QPXĐ của TPQT Việt Nam, chỉ có cơ hội áp dụng khi quan hệ dân sự có YTNN diễn ra tại Việt Nam hoặc tranh chấp liên quan đến quan hệ đó thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án Việt Nam3. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các QPXĐ của BLDS năm 2005 chưa có nhiều cơ hội áp dụng trong suốt mười năm tồn tại của mình4. 2 Xem thêm: Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2013, tr. 38 - 41. 3 Xem thêm: Bành Quốc Tuấn, Pháp luật áp dụng cho quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo BLDS năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14 (222), tháng 7/2012, tr. 17 - 22. 4 Xem thêm: Hoa Hữu Long, Tổng quan pháp luật Việt Nam và thực tiễn thi hành pháp luật liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, Tham luận tham gia Tọa đàm “Về thực trạng Tư pháp quốc tế Việt Nam và kinh nghiệm Nhật Bản”, Bộ Tư pháp tổ chức ngày 05/12/2013 tại Hà Nội. 47 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 18(322) T9/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT Như vậy, với việc giảm QPXĐ một bên và tăng cường số lượng các QPXĐ hai bên, BLDS năm 2015 đã khắc phục hạn chế của BLDS năm 2005 về mặt kỹ thuật lập pháp, đồng thời tạo cơ hội cho pháp luật nội dung của Việt Nam được lựa chọn áp dụng. Điều này cũng góp phần làm cho TPQT Việt Nam phù hợp hơn với các chuẩn mực pháp lý quốc tế. 2. Phạm vi điều chỉnh của quy phạm xung đột trong Bộ luật Dân sự năm 2015 Theo mô hình TPQT Việt Nam hiện nay, hệ thống các QPXĐ được xây dựng theo hướng không cần có một đạo luật riêng điều chỉnh về TPQT mà các QPXĐ sẽ được quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau, từ BLDS là luật chung đến các luật chuyên ngành như Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Thương mại, Luật Trọng tài thương mại... Chính vì vậy, phạm vi điều chỉnh của các QPXĐ sẽ khác nhau phụ thuộc vào văn bản pháp luật mà nó được chứa đựng trong đó. Với tư cách là văn bản pháp luật chung của TPQT Việt Nam, các QPXĐ chứa đựng trong BLDS năm 2015 cũng có phạm vi điều chỉnh riêng, phù hợp với phạm vi điều chỉnh của BLDS năm 2015. Theo đó, phạm vi điều chỉnh của các QPXĐ trong BLDS năm 2015 được xác định gồm hai nhóm chính là QPXĐ xác định pháp luật áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân và QPXĐ xác định luật áp dụng đối với quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân. Về cơ bản, BLDS năm 2015 đã xây dựng được một số lượng các QPXĐ đáng kể, khái quát được phần lớn các quan hệ dân sự có YTNN cơ bản nhất bởi những quan hệ đặc thù, cụ thể khác đã được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Phạm vi điều chỉnh của các QPXĐ tại Phần thứ năm đã bao trùm được phần lớn các quan hệ dân sự cơ bản được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật nội dung trong các phần trước của BLDS năm 2015. Mô hình của BLDS năm 2015 về cơ bản cũng tương đồng với giải pháp được lựa chọn ở nhiều quốc gia trên thế giới không ban hành đạo luật TPQT riêng như Pháp, Liên bang Nga So với BLDS năm 2005, phạm vi điều chỉnh của các QPXĐ tại Phần thứ năm của BLDS năm 2015 đã được mở rộng để đảm bảo sự tương đồng với các quy phạm pháp luật nội dung và đây cũng là một trong những điểm tiến bộ của BLDS năm 2015. Trong tương quan so sánh với những nội dung quy định dành cho các quan hệ dân sự trong nước, có thể thấy rằng, phạm vi điều chỉnh của các QPXĐ trong BLDS năm 2005 hẹp, không đủ cơ sở pháp lý để điều chỉnh các tình huống quan hệ dân sự có YTNN trong thực tế. Nhiều vấn đề được BLDS điều chỉnh đối với quan hệ trong nước nhưng chưa có QPXĐ điều chỉnh như thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi không có căn cứ pháp luật hoặc đã có văn bản pháp luật chuyên ngành điều chỉnh nhưng chưa được BLDS quy định các nguyên tắc chung trong chọn luật áp dụng như quan hệ hợp đồng lao động có YTNN, quan hệ thương mại, quan hệ trọng tài Cụ thể: Thực hiện công việc không có ủy quyền là một trong những nội dung được BLDS năm 2005 điều chỉnh (từ Điều 594 - Điều 598) với tư cách là một giao dịch dân sự làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ. Trên thực tế quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền có YTNN (đặc biệt là yếu tố chủ thể nước ngoài) là hoàn toàn có thể xảy ra nhưng BLDS năm 2005 còn thiếu QPXĐ điều chỉnh quan hệ thực hiện công việc không có sự ủy quyền của người khác; tương tự, hưởng lợi không có căn cứ pháp luật được điều chỉnh tại Điều 247 BLDS năm 2005 nhưng không có QPXĐ chọn luật áp dụng trong trường hợp quan hệ này có YTNN. Khắc phục hạn chế này, BLDS năm 2015 đã bổ sung Điều 686 về chọn luật điều chỉnh quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền. Tương tự như thế là Điều 685 về chọn luật điều chỉnh nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. 48 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 18(322) T9/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 3. Nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng Nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng luôn là một trong những nguyên tắc cơ bản của TPQT để chọn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ dân sự có YTNN. Nguyên tắc này lần đầu tiên được quy định trong TPQT Việt Nam tại Điều 769 BLDS năm 2005 với nhiều điểm hạn chế cần khắc phục5. Nhằm tiếp tục ghi nhận và mở rộng việc áp dụng nguyên tắc chọn luật áp dụng, góp phần hoàn thiện hệ thống QPXĐ của TPQT Việt Nam, BLDS năm 2015 đã có nhiều tiến bộ quan trọng trong việc ghi nhận nguyên tắc này. Cụ thể: - Về phạm vi các quan hệ được thỏa thuận chọn luật áp dụng: BLDS năm 2005 chỉ quy định quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng đối với quan hệ hợp đồng có YTNN (Điều 769) và nguyên tắc này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 683 BLDS năm 2015. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng nguyên tắc thỏa thuận chọn luật đối với quan hệ thực hiện công việc không có uỷ quyền (Điều 686) và quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Điều 687). Việc mở rộng phạm vi áp dụng của nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng là phù hợp với xu thế phát triển của TPQT Việt Nam trong giai đoạn sắp tới, bởi lẽ nguyên tắc này đã được ghi nhận rất rộng rãi trong pháp luật ở nhiều nước, đặc biệt là những nước đã ban hành đạo luật riêng về TPQT6. So với TPQT các nước, phạm vi áp dụng nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng của BLDS năm 2015 vẫn còn hẹp bởi lẽ các bên chủ thể của nhiều quan hệ dân sự có YTNN khác đều có quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng như quan hệ thừa kế theo di chúc, quan hệ lao động, Những quan hệ này, BLDS năm 2015 hoặc chưa quy định quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng hoặc không xây dựng QPXĐ chọn luật áp dụng và đây cũng là một trong những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện hệ thống QPXĐ của TPQT Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. - Về phạm vi những vấn đề được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng trong trường hợp được chọn luật áp dụng: Đối với quy định duy nhất về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng được quy định tại Điều 769 BLDS năm 2005 cho thấy, đây là quy định có rất nhiều hạn chế và trên thực tế quy định này chưa được áp dụng để chọn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng tại Việt Nam mà một trong những nguyên nhân quan trọng chính là phạm vi các bên chủ thể hợp đồng được phép thỏa thuận chọn luật. Cụ thể: Khoản 1 Điều 769 chỉ cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng đối với quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng; còn đối với vấn đề hình thức hợp đồng thì các bên không được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng mà phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng (Điều 770) hoặc vấn đề xác định nơi giao kết hợp đồng trong trường hợp giao kết hợp đồng vắng mặt thì phải tuân theo pháp luật của nước nơi cư trú của cá nhân hoặc nơi có trụ sở chính của pháp nhân là bên đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 771). Bên cạnh đó, quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên còn bị hạn chế hay nói cách khác, bị “tước bỏ”, ngay cả trong những vấn đề luật cho phép lựa chọn luật áp dụng. Cụ thể: đoạn 2 khoản 1 Điều 769 BLDS năm 2005 quy định nếu hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng của các bên cũng sẽ vô hiệu do điều khoản về bảo lưu trật tự công cộng như quy định tại Điều 759 5 Xem thêm: Bành Quốc Tuấn, Hoàn thiện quy định về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 1 +2 (210 + 211), tháng 01/2012, tr. 73 – tr. 77. 6 Xem thêm: Đỗ Văn Đại, Quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (2+3), tháng 3/2013, tr. 46 – 55. 49 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 18(322) T9/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT BLDS năm 2005: “nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa XHCN Việt Nam” và một số văn bản pháp luật khác với cụm từ tương tự. Các quy định này cho thấy dường như nhà làm luật có khuynh hướng giới hạn đến mức có thể phạm vi những vấn đề của hợp đồng dân sự có YTNN mà các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng và điều này trái với xu thế của TPQT thế giới, đặc biệt là Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế vốn là một Công ước mang tính phổ cập toàn cầu. Khắc phục những hạn chế của BLDS năm 2005, Điều 683 BLDS năm 2015 đã mở rộng phạm vi các vấn đề trong quan hệ hợp đồng mà các bên được thỏa thuận chọn luật áp dụng. Cụ thể: Theo quy định tại khoản 1 Điều 683: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng”. Như vậy, phạm vi thỏa thuận luật áp dụng là toàn bộ các vấn đề có liên quan đến quan hệ hợp đồng trừ hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Điều này có nghĩa là nếu luật áp dụng cho hợp đồng là luật do các bên thỏa thuận thì luật này cũng sẽ được sử dụng để xác định tính hợp pháp của hợp đồng. Nói gọn lại, Điều 683 BLDS năm 2015 đã được xây dựng theo hướng mở rộng tối đa phạm vi các bên chủ thể của hợp đồng được thỏa thuận chọn luật áp dụng và điều này phù hợp với pháp luật quốc tế. Công ước Rome ngày 19/6/1980 về Luật áp dụng đối với những nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng cũng như trong Điều 3 Nghị định Rome I (Regulation (EC) No 593/2008 of the European Parliament and of the Council of 17 June 2008 on the law applicable to con- tractual obligations), Nghị định điều chỉnh về nghĩa vụ hợp đồng tại Liên minh châu Âu thay thế Công ước Rome 1980 quy định:“Hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật do các bên thỏa thuận lựa chọn. Sự lựa chọn phải được thể hiện rõ ràng hoặc được chứng minh rõ ràng bởi các điều khoản trong hợp đồng hoặc tùy theo từng trường hợp cụ thể”. Tương tự, các công ước quốc tế đa phương được ban hành trong khuôn khổ của Hội nghị La Haye về TPQT như: Công ước La Haye ngày 15/6/1955 về Luật áp dụng đối với mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước La Haye ngày 14/3/1978 về Luật áp dụng cho chi nhánh, văn phòng đại diện, Công ước La Haye ngày 22/12/1986 về Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng quy định tương tự. Điều 2 Công ước La Haye ngày 15/6/1955 quy định: “Hợp đồng mua bán chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật của nước được chỉ định bởi các bên giao kết”7. Luật hợp đồng của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1999 cũng thừa nhận nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng trong các hợp đồng quốc tế mà không giới hạn phạm vi thỏa thuận lựa chọn8. Tóm lại, do điều kiện khách quan, ngay từ đầu TPQT Việt Nam đã theo đuổi mô hình không ban hành đạo luật TPQT riêng mà quy định các QPXĐ trong nhiều văn bản pháp luật, với vị trí trung tâm là BLDS. Các dấu hiệu lập pháp gần đây cho thấy mô hình này sẽ tiếp tục được duy trì trong giai đoạn sắp tới khi các điều kiện để ban hành đạo luật TPQT vẫn chưa xuất hiện đầy đủ. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống QPXĐ của BLDS năm 2015 là một nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động lập pháp Việt Nam nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho quá trình hội nhập quốc tế trong giai đoạn sắp tới n 7 Xem thêm: Roy Goode, Herbert Kronke, Ewan McKendrick, Jeffrey Wool (2007) - Transnational Commercial Law -Oxford University Press, (tiểu mục 2.30), p. 72. 8 V. contract law of the People’s Republic of China, Adopted and Promulgated by the Second Session of the Ninth National People’s Congress on March 15, 1999, Translated & Compiled by John JIANG & Henry LIU, art.126.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_diem_moi_cua_hen_thong_quy_pham_xung_dot_trong_bo_luat.pdf
Tài liệu liên quan