Thứ hai, trong quá trình xét xử người
phạm tội ma túy, cần lưu ý một số quy
định của BLHS khác nhưng có liên quan
tới người phạm tội về ma túy như sau:
- BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định
không áp dụng hình phạt tử hình đối với
người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội
hoặc khi xét xử và không thi hành án tử
hình đối với những người này, bởi việc áp
dụng hình phạt tử hình đối với người phạm
tội từ đủ 75 tuổi trở lên là không nhân đạo
và làm giảm ý nghĩa giáo dục. Do vậy, để
góp phần thể hiện sâu sắc tính nhân đạo và
chính sách khoan hồng của pháp luật hình
sự nước ta, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy
định mới: không áp dụng hình phạt tử hình đối
với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc
khi xét xử và không thi hành án tử hình đối với
họ (các khoản 2, 3 Điều 40 về hình phạt tử
hình). Vì vậy, đối với các bị cáo trên 75 tuổi
(không phụ thuộc thời điểm thực hiện tội
phạm về ma túy họ bao nhiêu tuổi), Tòa án
cần hết sức chú ý để đảm bảo quyền lợi cho
đối tượng này.
- Trường hợp người bị kết án về các tội
phạm ma túy được hưởng án treo. Trong
quá trình thi hành án nếu đang trong thời
gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật Thi hành án hình
sự từ 02 lần trở lên (quy định tại Điều 64
luật thi hành án hình sự năm 2010) thì Tòa
án có thể buộc chấp hành hình phạt tù của
bản án về tội phạm ma túy đã cho hưởng
án treo.(1) Đây là trường hợp cần hết sức
lưu ý bởi các đối tượng phạm tội về ma
túy thực tế thường có nhiều biểu hiện vi
phạm trong quá trình thi hành án treo
như rời khỏi địa phương không khai báo
tạm vắng, không có mặt theo yêu cầu của
chính quyền sở tại, tiếp tục có hành vi vi
phạm đặc biệt khi người người thi hành
án treo nghiện ma túy .
Bên cạnh đó, các cơ quan bảo vệ pháp
luật Trung ương tăng cường hơn nữa
công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật
và phát triển án lệ. Thường xuyên mở
các cuộc hội thảo khoa học, tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu cho cán bộ
làm công tác chuyên trách phòng, chống
ma túy của các ngành Hải quan, Cảnh sát
biển, Bộ đội biên phòng, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án có điều kiện tốt nhất
trau dồi kinh nghiệm, nâng cao khả năng
công tác đáp ứng tinh thần Nghị quyết 49
của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp./.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những điểm mới của nhóm tội phạm về ma túy trong bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và việc tổ chức thực hiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
I. Những điểm mới của nhóm tội
phạm về ma túy trong Bộ luật hình sự
năm 2015
Ngày 20/6/2017, Quốc hội đã thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS năm 2015. Đây là hoạt động nhằm
chỉnh sửa những sai sót về mặt kỹ thuật
trong BLHS đã được thông qua trước đó
(năm 2015), cũng như sửa đổi, bổ sung
nhiều quy định để phù hợp với đòi hỏi của
thực tiễn. Trong đó, nhóm tội phạm về ma
túy cũng được sửa đổi với nhiều nội dung
quan trọng nhằm giải quyết những bất
cập và vướng mắc trong thực tiễn. Những
điểm mới này được thể hiện thông qua
một số nội dung quan trọng sau:
1. Về cơ cấu điều luật và tên điều luật:
Các tội phạm về ma túy được quy
định tại Chương XVIII BLHS năm 1999
* Thạc sĩ, Khoa Tội phạm học & Điều tra tội phạm,
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA NHÓM TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2017)
VÀ VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN
TRẦN ĐÌNH HẢI *
Quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) về các tội phạm ma túy được xây dựng
dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn, kế thừa, phát triển các quy định phù hợp
của BLHS năm 1999, bổ sung những quy định mới để giải quyết những
vướng mắc, bất cập đang đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, đồng thời hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự nhằm nâng cao tính
minh bạch, khả thi và tính dự báo của BLHS. Bài viết tập trung vào những
thay đổi cơ bản và giải pháp tổ chức thực hiện là cơ sở tạo điều kiện giải
quyết những bất cập và vướng mắc trong thực tiễn đối với nhóm tội phạm
về ma túy so với BLHS năm 1999.
Từ khóa: Bộ luật hình sự năm 2015, tội phạm ma túy, quy định mới về
tội phạm ma túy, tổ chức thực hiện, ma túy, tiền chất.
Regulations in the Penal Code of 2015 (amended, supplemented in 2017)
on the drug-related offences have been developed on the basis of practical
summary, inheritance, and development of the 1999 one’s regulations.
Moreover, it helps to supplement with new regulations so as to address the
shortcomings in the process of preventing and combating against the crimes,
together with, improve the criminal legislative technique to enhance the
transparency, feasibility, and predictability of the Penal Code. The author
focuses on the fundamental changes and solutions to the implementation,
which are to facilitate the overcoming of shortcomings in the practice of
drug-related offences when compared to the Penal Code of 1999.
Keywords: The Penal Code of 2015, drug-related offences, new
regulations on drug-related offences, the implementation, drug, prodrug.
TRẦN ĐÌNH HẢI
23Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) gồm có 10
điều (từ Điều 192 đến Điều 201). Trong khi
đó, các tội phạm về ma túy trong BLHS
năm 2015 được quy định tại Chương XX
gồm 13 điều luật, tăng thêm 3 điều luật so
với BLHS năm 1999 (từ Điều 247 đến Điều
259), do tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
tại Điều 194 BLHS năm 1999 được tách
thành 04 tội độc lập và tội cưỡng bức, lôi
kéo người khác sử dụng trái phép chất ma
túy được tách thành hai điều luật độc lập
(Điều 257, Điều 258). Bên cạnh đó, ở Điều
192 BLHS năm 1999 quy định Tội trồng
cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có
chứa chất ma tuý thì Điều 247 BLHS năm
2015 đã sửa đổi thành Tội trồng cây thuốc
phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại
cây khác có chứa chất ma túy. Tội vi phạm
quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây
nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều
201 BLHS năm 1999) được sửa đổi thành
tội vi phạm quy định về quản lý chất ma
túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc
hướng thần (Điều 259) để cập nhật tình
hình thực tế.
Trong đó, đặc biệt đáng chú ý là các
hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
trong BLHS năm 1999 được gộp chung
lại thành một điều (Điều 194) như đã nói.
Nay BLHS năm 2015 đã tách Điều 194 nói
trên thành 4 tội riêng biệt đó là tội “Tàng
trữ trái phép chất ma túy” được quy định
tại Điều 249; tội “Vận chuyển trái phép
chất ma túy” được quy định tại Điều 250;
tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được
quy định tại Điều 251; và tội “Chiếm đoạt
chất ma túy” được quy định tại Điều 252.
Nội dung sửa đổi quan trọng này chính
là việc cụ thể hóa phương thức giải quyết
những điểm bất cập lớn nhất khi giải quyết
các vụ án ở chỗ, các tội danh có tính chất,
mức độ khác nhau cần phải được áp dụng
với những chính sách xử lý khác nhau.
Quy định mới này sẽ giảm thiểu khó khăn
cho các cơ quan tố tụng trong việc định tội
danh và quyết định hình phạt cũng như
xác định các tình tiết tái phạm, tái phạm
nguy hiểm, đặc biệt sẽ là cơ sở để Tòa án
áp dụng mức hình phạt một cách công
bằng phù hợp giữa các hành vi phạm tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
Mặt khác, với kết cấu mới này BLHS năm
2015 cũng khắc phục được những hạn chế
mang tính liệt kê theo cách quy định về tội
phạm ghép như BLHS năm 1999.
2. Bổ sung, cập nhật các chất ma túy
mới và cụ thể hóa việc định lượng
So với BLHS năm 2009, BLHS năm
2015 đã có sự thay đổi về đơn vị tính, xuất
phát từ thực tiễn các vụ án ma túy đã xử
lý, khi thu giữ được vật chứng đều được
xác định bằng gam, kilogam Đây là đơn
vị tính khối lượng chứ không phải trọng
lượng. Vì vậy, Luật đã thay đổi đơn vị tính
từ “trọng lượng” thành “khối lượng” để
đảm bảo tính chính xác của đơn vị tính.
Về định lượng các chất ma túy BLHS năm
2015 đã quy định cụ thể, rõ ràng mức tối
thiểu đến mức tối đa định lượng các chất
ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự
trong từng điều luật, đó là các Điều 249,
Điều 250, Điều 252; quy định cụ thể về
định lượng, xác định mức tối thiểu đến
mức tối đa các chất ma túy để cấu thành
tội phạm Trong khi đó, tại khoản 1 Điều
194 BLHS năm 1999 không quy định cụ
thể định lượng của các chất ma túy để xác
định cấu thành tội phạm mà khi giả quyết
các cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ mục
3.6 Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-
BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA NHÓM TỘI PHẠM VỀ MA TÚY...
24 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
24/12/2007 của Bộ công an, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao
và Bộ tư pháp để xác định mức tối thiểu
cấu thành tội phạm cho các hành vi tàng
trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy
hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Ngoài ra,
luật còn quy định cụ thể việc định lượng
các tiền chất, các phương tiện, dụng cụ
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma
túy tại các Điều 253 và Điều 254 để thuận
lợi hơn trong thực tiễn áp dụng.
Một trong những nội dung mới quan
trọng khác được quy định trong BLHS
năm 2015 là việc bổ sung quy định xử
lý hình sự đối với hành vi mua bán, vận
chuyển trái phép các chất ma túy mới như
chất XLR-11 (được tẩm ướp trong cỏ Mỹ)
vào cấu thành một số tội như tội sản xuất
trái phép chất ma túy (Điều 248), tội tàng
trữ trái phép chất ma túy (Điều 249)... Đây
là các chất có mức độ nguy hại nghiêm
trọng đến sức khỏe của con người, đòi
hỏi các hành vi vi phạm phải bị xử lý hình
sự. Tuy nhiên, các loại cây này chưa được
quy định trong BLHS năm 1999 cũng
như BLHS năm 2015, do đó chưa có cơ sở
pháp lý để xử lý hình sự đối với người
thực hiện hành vi thỏa mãn cấu thành các
tội phạm. Đồng thời, trong một số điều
luật, BLHS đã bổ sung các tình tiết định
khung “các chất ma túy khác ở thể lỏng”,
“các chất ma túy khác ở thể rắn” hay “bộ
phận của cây khác có chứa chất ma túy do
Chính phủ quy định” để đảm bảo tính dự
báo. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với
các cơ quan thực tiễn để có thể xử lý kịp
thời các vấn đề mới phát sinh bằng việc
chỉ cần đối chiếu tình tiết vụ án với Danh
mục chất ma túy ban hành kèm theo các
Nghị định của Chính phủ mà sẽ không
cần tiến hành sửa đổi luật như Nghị định
82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính
phủ, Nghị định số 126/2015/NĐ-CP về
sửa đổi, bổ sung Danh mục các chất ma
túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị
định số 82/2013/NĐ-CP nêu trên. Với cách
quy định như trên, đến nay về cơ bản luật
vẫn phù hợp với văn bản mới thay thế là
Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng
5 năm 2018 của Chính phủ quy định các
danh Mục chất ma túy và tiền chất. Trong
đó, đáng chú ý là Nghị định 73/2018/NĐ-
CP đã bổ sung nhiều chất ma túy để làm
căn cứ xử lý. Hiện tại, Nghị định quy định
có 515 chất ma tuý được xếp vào 3 Danh
mục và 44 tiền chất chia làm 2 nhóm (so
với trước đây là 250 chất ma tuý và 43 loại
tiền chất). Đặc biệt, trong danh mục III
“Các chất ma tuý được dùng trong phân
tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học,
điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế,
thú y theo quy định của cơ quan có thẩm
quyền” có 71 chất ma tuý, trong đó bổ
sung 2 chất là Zolazepam và Tiletamine có
trong thuốc thú y. Việc quản lý và sử dụng
thuốc thú y mặc dù trước đó đã có những
quy định nhưng còn nhiều kẽ hở, để các
đối tượng lợi dụng sản xuất ma túy tổng
hợp bằng cách hiết xuất từ thuốc thú y. Vì
vậy, đây là sự bổ sung hết sức kịp thời để
các cơ quan chức năng có thể giải quyết
triệt để, khắc phục tình trạng không có
căn cứ xử lý hình sự trong các tình huống
thực tiễn đặt ra đối với thủ đoạn liên quan
đến ma túy nói trên.
3. Sửa đổi mức hình phạt các nội dung
tình tiết tăng nặng định khung
Về mức hình phạt:
Nhìn chung, để đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, các
hình phạt được quy định trong BLHS năm
2015 đối với người phạm tội là rất nghiêm
khắc, đặc biệt Luật vẫn duy trì hình phạt tử
hình trong một số tội như tội sản xuất trái
TRẦN ĐÌNH HẢI
25Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
phép chất ma túy (Điều 248), tội vận chuyển
trái phép chất ma túy (Điều 250) và tội mua
bán trái phép chất ma túy (Điều 251). Tuy
nhiên, nhằm thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng về giảm hình phạt tử hình
được thể hiện trong Nghị Quyết số 08/NQ-
TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới và Nghị Quyết số 49/
NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
đồng thời nhằm đáp ứng yêu cầu về bảo vệ
quyền con người nói chung và quyền sống
nói riêng của công dân được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013, với việc tách Điều 194
BLHS năm 1999 thành các tội phạm độc lập,
BLHS năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình
đối với hai tội là “Tàng trữ trái phép chất
ma túy”- Điều 249 và tội “Chiếm đoạt chất
ma túy” - Điều 252 BLHS khi chỉ áp dụng
mức hình phạt cao nhất đối với hai tội này
là chung thân.
Đồng thời, để thể hiện sâu sắc hơn
nguyên tắc nhân đạo và đường lối xử lý
hướng thiện, Điều 249, 252 BLHS năm 2015
có khung hình phạt nhẹ hơn so với Điều 194
BLHS năm 1999 (khoản 1 phạt từ 01 năm
đến 05 năm; khoản 2 phạt tù từ 05 năm đến
10 năm; khoản 3 từ 10 năm đến 15 năm;
khoản 4 từ 15 năm đến 20 hoặc chung thân).
Về tình tiết định khung tăng nặng
hình phạt
BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm
tình tiết “Qua biên giới” trong các tội vận
chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250) và
tội Mua bán trái phép chất ma túy (Điều
251), tình tiết “vận chuyển, mua bán qua
biên giới” đối với tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển hoặc mua bán phương tiện,
dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử
dụng trái phép chất ma túy. Đây là sự bổ
sung kịp thời và cần thiết để đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn khi thời gian qua, hành
vi này rất phổ biến trong các tội phạm về
ma túy. Việc vận chuyển, mua bán qua
biên giới thể hiện tính chất, mức độ nguy
hiểm hơn rất nhiều so với các trường hợp
thông thường. Thủ đoạn phạm tội về ma
túy qua biên giới rất tinh vi, xảo quyệt
bằng các hình thức như trà trộn, lén lút
qua đường chính ngạch, lắt léo, âm thầm
theo con đường tiểu ngạch dẫn đến rất
khó phát hiện, xử lý. Mặt khác, hành vi vận
chuyển, mua bán các chất ma túy qua biên
giới tiềm ẩn nhiều nguy cơ các loại ma túy
tổng hợp mới có thể xuất hiện trong nước
gây khó khăn cho công tác quản lý và đặc
biệt gây thêm nhiều tác hại cho người sử
dụng, góp phần tăng thêm tình trạng mất
trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, Điều
luật không quy định nhằm qua biên giới
nên tình tiết này không phải là tình tiết
thuộc về chủ quan của người phạm tội, do
đó chỉ áp dụng tình tiết định khung tăng
nặng này khi người phạm tội đã thực hiện
hành vi qua biên giới một cách trót lọt.
II. Những vấn đề đặt ra trong việc
tổ chức thực hiện quy định của Bộ luật
hình sự liên quan đến nhóm tội phạm về
ma túy
Để thực hiện hiệu quả cao nhất trong
quá trình áp dụng, cũng như đáp ứng yêu
cầu của tiến trình cải cách tư pháp, đảm bảo
mục tiêu không làm oan người vô tội, không
bỏ lọt tội phạm, trong thời gian tới, việc tổ
chức thi hành BLHS năm 2015 cần phải tiếp
tục tăng cường các biện pháp sau đây:
1. Thống nhất nhận thức và quán triệt
nội dung liên quan đến vấn đề xác định
khối lượng các chất ma túy trong thực tiễn.
Có thể nói, vấn đề xác định khối lượng
hay hàm lượng các chất ma túy khi giải
quyết các vụ án về ma túy chính là điểm
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA NHÓM TỘI PHẠM VỀ MA TÚY...
26 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
mấu chốt dẫn đến những khó khăn, ách
tắc, tồn đọng của loại án này trong suốt
thời gian dài khi BLHS năm 1999 đang còn
hiệu lực. Bởi lẽ trước đây, các cơ quan tiến
hành tố tụng vận dụng Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-
BTP ngày 24/12/2007, của Bộ Công an, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp, hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại Chương XVIII “các tội
phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 (viết
tắt Thông tư liên tịch 17/2007/TTLT). Theo
đó, tại tiểu mục 1.4 Mục 1 Phần I của Thông
tư liên tịch 17/2007/TTLT có hướng dẫn như
sau: “Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được
các chất nghi là ma túy hoặc tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều
phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm
lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất.”
Để khắc phục bất cập của Thông tư
liên tịch 17/2007/TTLT, ngày 14/11/2015
Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp đã ban hành Thông tư liên
tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-
TANDTC-BTP sửa đổi, bổ sung một số
điểm của Thông tư liên tịch số 17 nói
trên (viết tắt Thông tư liên tịch 08/2015/
TTLT), nội dung Thông tư có quy định
từ ngày 30/12/2015, khi thu giữ được các
chất nghi ma túy hoặc tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
chỉ cần trưng cầu giám định để xác định
loại và trọng lượng chất ma túy, tiền chất
thu được. Việc trưng cầu “giám định hàm
lượng” để xác định trọng lượng các chất
ma túy chỉ bắt buộc trong một số trường
hợp như: chất ma túy, tiền chất dùng vào
việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được
hòa thành dung dịch; chất ma túy, tiền
chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy
ở thể lỏng đã được pha loãng; xái thuốc
phiện; thuốc gây nghiện, thuốc hướng
thần. Do đó, để tổ chức thực hiện hiệu
quả quy định của BLHS cũng như các
văn bản hướng dẫn thi hành, việc giám
định ma túy cần tuân thủ triệt để các nội
dung sau:
- Về phía cơ quan trưng cầu giám định:
những trường hợp không bắt buộc phải
trưng cầu giám định để xác định
hàm lượng, khi ra Quyết định trưng cầu
giám định đối với các chất nghi là chất ma
túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy đã thu giữ được
thì nội dung yêu cầu giám định cần ghi
rõ: “Mẫu gửi giám định có phải là chất ma
túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái
phép chất ma túy không? Loại chất ma
túy, tiền chất gì? Trọng lượng (khối lượng)
của mẫu gửi giám định là bao nhiêu?”.
Đối với cơ quan giám định, trong kết
luận giám định phải xác định rõ về chất ma
túy để phù hợp với quy định của BLHS, ví
dụ như chất Hêrôin, chất Côcain... Không
được kết luận “là chế phẩm Hêrôin” hoặc
“có thành phần Hêrôin”. Khi ra Quyết
định trưng cầu giám định thì nội dung
yêu cầu giám định của cần ghi rõ: Đối
với các mẫu gửi giám định ở thể rắn (là
thuốc gây nghiện hoặc thuốc hướng
thần...): “Mẫu gửi giám định (chất bột,
viên nén...) có chứa chất ma túy, tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma
túy không? Loại chất ma túy, tiền chất gì?
Hàm lượng chất ma túy, tiền chất? Trọng
lượng (khối lượng) chất ma túy, tiền chất
là bao nhiêu?”.
- Đối với các mẫu gửi giám định ở thể
lỏng cần ghi rõ: “Mẫu gửi giám định (dung
dịch, chất lỏng...) có chứa chất ma túy,
tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép
chất ma túy không? Loại chất ma túy,
tiền chất gì? Hàm lượng chất ma túy, tiền
TRẦN ĐÌNH HẢI
27Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
chất? Thể tích (trọng lượng, khối lượng)
chất ma túy, tiền chất là bao nhiêu?”.
Trong kết luận giám định của cơ quan
giám định cũng phải nêu cụ thể chất ma
túy, tiền chất được giám định theo đúng
tên gọi để phù hợp với quy định của
BLHS.(1)
Đối với các chất mà Thông tư 08/2015
quy định bắt buộc phải giám định hàm
lượng là chất ma túy, tiền chất dùng vào
việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được
hòa thành dung dịch; chất ma túy, tiền
chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy
ở thể lỏng đã được pha loãng; xái thuốc
phiện; thuốc gây nghiện, thuốc hướng
thần thì cần chú ý:
- Sở dĩ các chất này được quy định bắt
buộc phải giám định hàm lượng bởi lẽ đây
là những chất mà người thực hiện hành vi
vi phạm đã biết rõ và cố ý tạo ra sản phẩm
không phải ma túy nguyên chất. Trong đó
chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản
xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành
dung dịch hoặc ở thể lỏng được pha loãng
thường được pha chế để sử dụng (chứ
không phải sản xuất), việc vận chuyển,
tàng trữ, mua bán trái phép thông qua thủ
đoạn này nhằm tránh sự phát hiện của
lực lượng chức năng. Tương tự như vậy,
xái thuốc phiện cũng không được hình
thành trong quá trình sản xuất trái phép
chất ma túy mà là chất thải, phần không
cháy hết của nhựa thuốc phiện được hình
thành sau khi sử dụng, nhiều đối tượng
vì lên cơn nghiện hoặc không có tiền mua
các chất ma túy khác nên đã sử dụng;
thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần cũng
không được hình thành do quá trình sản
xuất trái phép mà là các loại thuốc chữa
1 Xem Công văn số: 2955/CSĐT(C44) của Cơ quan
Cảnh sát Điều tra - Bộ Công an ngày 29 tháng 8 năm
2016 về việc giải quyết các vụ án về ma túy
bệnh được quy định trong các danh mục
do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất kích
thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác,
nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình
trạng nghiện đối với người sử dụng.
- Khi xác tính khối lượng các chất để
xử lý, cần căn cứ vào quy định tại Điều
3 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày
02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy
định về việc tính tổng khối lượng hoặc
thể tích chất ma túy tại một số điều của
BLHS 2015. Trong đó, việc xác định khối
lượng thuốc phiện trong xái thuốc phiện,
thuốc phiện pha loãng, thuốc phiện pha
trộn được tính theo thuốc phiện chứa
10% morphine làm căn cứ quy đổi. Tỷ lệ
phần trăm về khối lượng hoặc thể tích của
từng chất ma túy được tính theo quy định
của Nghị định 19 nêu trên nếu là số thập
phân thì gồm một chữ số sau dấu phẩy và
không làm tròn (sau khi có kết luận giám
định sẽ xác định được chính xác tỷ lệ %
morphin có trong chất đó).
Ví dụ: Vật chứng thu giữ là 2000g xái
thuốc phiện, giả sử kết quả giám định xác
định hàm lượng morphine là 0,14%.
Bước 1: Tính khối lượng morphine trong
tang vật
Theo Nghị định 19 thì cách tính số
thập phân gồm một chữ số sau dấu phẩy
và không làm tròn, do vậy từ kết quả
giám định chúng ta chỉ tính hàm lượng
morphine là 0,1%. Vì vậy, khối lượng của
morphine có trong 2000g xái thuốc phiện
như sau: 2000g x 0,1: 100 = 2g (morphine)
Bước 2: Từ khối lượng morphine tính ra
khối lượng thuốc phiện để làm căn cứ xử lý
Theo Nghị định 19, lấy thuốc phiện
chứa 10% morphine làm chuẩn (tức tỷ lệ
thuốc morphine trong thuốc phiện là 1/10)
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA NHÓM TỘI PHẠM VỀ MA TÚY...
28 Khoa học Kiểm sát Số 04 - 2018
Vậy 2 gam morphine sẽ là 2 x 100: 10
= 20 (gam thuốc phiện).
Mặt khác, việc tính tổng khối lượng
hoặc thể tích chất ma túy trong trường
hợp các chất ma túy không được quy
định trong cùng một điểm thuộc các
khoản của một trong các điều 248, 249,
250, 251, 252 của BLHS năm 2015 thì cần
lưu ý đã có sự thay đổi cách tính so với
hướng dẫn tại Thông tư 17/2007/TTLT
nêu trên. Cụ thể, theo quy định tại Nghị
định số 19/2018/NĐ-CP, cách tính để xác
định hành vi thỏa mãn cấu thành phạm
tội cơ bản hoặc khung tăng nặng vẫn
trên tinh thần như hướng dẫn tại Thông
tư 17/2007/TTLT ở chỗ áp dụng phương
pháp tính tỷ lệ phần trăm về khối lượng
hoặc thể tích của từng chất ma túy so với
mức tối thiểu đối với từng chất đó được
quy định tại một khoản nhất định của
một trong các điều 249, 250, 252 của Bộ
luật hình sự năm 2015. Sau đó cộng tỷ
lệ phần trăm về khối lượng hoặc thể tích
của từng chất ma túy lại với nhau để xác
định tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng
hoặc thể tích của các chất ma túy. Tuy
nhiên, điểm khác biệt là trước đây, tại
Thông tư 17/2007/TTLT nếu kết quả cộng
tỷ lệ đạt trên 100% thì cho phép xác định
luôn khung hình phạt tương ứng chính
là khung hình phạt có chứa mức khối
lượng, thể tích ma túy tối thiểu dùng để
tham chiếu. Còn hiện tại, theo Nghị định
19/2018/NĐ-CP, nếu kết quả cộng tỷ lệ là
trên 100% thì cần tiến hành thêm bước
tiếp theo là tính tỷ lệ phần trăm về khối
lượng hoặc thể tích của từng chất ma túy
so với mức tối thiểu đối với từng chất đó
được quy định tại khoản tăng nặng liền
kề. Nếu kết quả vẫn trên 100% thì cho
phép chuyển khung, nếu dưới 100% thì
giữ nguyên khung ở bước trước.
Bên cạnh đó, Thông tư 08/2015/TTLT
còn hướng dẫn “Trường hợp không thu
giữ được vật chứng là chất ma túy, tiền chất
nhưng có căn cứ xác định được trọng lượng
chất ma túy, tiền chất mà người phạm tội đã
mua bán, vận cuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về các tội danh và điều khoản tương
ứng”. Tuy nhiên, để vận dụng một các triệt
để hơn quy định này đòi hỏi các cơ quan tư
pháp cần sớm ban hành hướng dẫn cụ thể
hơn, bởi lẽ quy định trên nhằm khắc phục
những vụ án về ma túy mang tính truy
xét mà không thu giữ được vật chứng của
vụ án là ma túy. Nhưng nếu chỉ “thông
qua lời khai của các đối tượng thì trọng
lượng hầu hết chỉ tồn tại dưới dạng định
lượng không rõ ràng như “tép”; “gói” ma
túy đá, Hêroin; “bánh” Hêroin. Vì vậy, sẽ
rất khó để lượng hóa một cách chính xác
trọng lượng một “tép”; một “gói”; một
bánh Hêroin là bao nhiêu gam, bởi thực tế
xét xử cho thấy trọng lượng “tép”; “gói”;
“bánh” là chất ma túy thu giữ trong các
vụ án về ma túy là không giống nhau?(1)
2. Một số lưu ý khác trong công tác
thực thi Bộ luật hình sự năm 2015
Trong quá trình thực thi BLHS năm
2015 đối với các tội phạm về ma túy, ngoài
các nội dung trọng tâm nêu trên, các cơ
quan tiến hành tố tụng cần quán triệt,
thống nhất nhận thức và vận dụng chính
xác, khoa học một số vấn đề sau:
Thứ nhất, BLHS năm 2015 có bổ sung
quy định “đã bị xử phạt vi phạm hành chính
về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” như
một điều kiện của cấu thành tội phạm để
1 Xem thêm: Phạm Thị Hồng Đào - Văn phòng luật
sư Thạnh Hưng,
Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2019 truy
cập ngày 18/06/2018
TRẦN ĐÌNH HẢI
29Số 04 - 2018 Khoa học Kiểm sát
xử lý trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ
trái phép chất ma túy và tội vận chuyển
trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều
249 và khoản 1 Điều 250. Như vậy, trình
tự, thủ tục, thời hạn và thẩm quyền xử lý
vi phạm hành chính cũng như việc lưu
trữ, quản lý, tra cứu, cung cấp và sử dụng
thông tin đối với các trường hợp đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng
trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy cần
phải được cụ thể hóa và tổ chức thực hiện
một cách đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ
và có tính hệ thống cao. Do đó, ngoài việc
ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
các quy định của BLHS, các cơ quan có
thẩm quyền cần phải quan tâm đầu tư kịp
thời về phương tiện kỹ thuật, xây dựng
hệ thống thông tin, dữ liệu đồng bộ và
phải đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ của các cơ quan chức năng
và của chính quyền các cấp nhằm bảo
đảm cho hoạt động tố tụng hình sự cũng
như công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm ma túy nói chung và tội phạm tàng
trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy nói
riêng đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, trong quá trình xét xử người
phạm tội ma túy, cần lưu ý một số quy
định của BLHS khác nhưng có liên quan
tới người phạm tội về ma túy như sau:
- BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định
không áp dụng hình phạt tử hình đối với
người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội
hoặc khi xét xử và không thi hành án tử
hình đối với những người này, bởi việc áp
dụng hình phạt tử hình đối với người phạm
tội từ đủ 75 tuổi trở lên là không nhân đạo
và làm giảm ý nghĩa giáo dục. Do vậy, để
góp phần thể hiện sâu sắc tính nhân đạo và
chính sách khoan hồng của pháp luật hình
sự nước ta, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy
định mới: không áp dụng hình phạt tử hình đối
với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc
khi xét xử và không thi hành án tử hình đối với
họ (các khoản 2, 3 Điều 40 về hình phạt tử
hình). Vì vậy, đối với các bị cáo trên 75 tuổi
(không phụ thuộc thời điểm thực hiện tội
phạm về ma túy họ bao nhiêu tuổi), Tòa án
cần hết sức chú ý để đảm bảo quyền lợi cho
đối tượng này.
- Trường hợp người bị kết án về các tội
phạm ma túy được hưởng án treo. Trong
quá trình thi hành án nếu đang trong thời
gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật Thi hành án hình
sự từ 02 lần trở lên (quy định tại Điều 64
luật thi hành án hình sự năm 2010) thì Tòa
án có thể buộc chấp hành hình phạt tù của
bản án về tội phạm ma túy đã cho hưởng
án treo.(1) Đây là trường hợp cần hết sức
lưu ý bởi các đối tượng phạm tội về ma
túy thực tế thường có nhiều biểu hiện vi
phạm trong quá trình thi hành án treo
như rời khỏi địa phương không khai báo
tạm vắng, không có mặt theo yêu cầu của
chính quyền sở tại, tiếp tục có hành vi vi
phạm đặc biệt khi người người thi hành
án treo nghiện ma túy ...
Bên cạnh đó, các cơ quan bảo vệ pháp
luật Trung ương tăng cường hơn nữa
công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật
và phát triển án lệ. Thường xuyên mở
các cuộc hội thảo khoa học, tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu cho cán bộ
làm công tác chuyên trách phòng, chống
ma túy của các ngành Hải quan, Cảnh sát
biển, Bộ đội biên phòng, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án có điều kiện tốt nhất
trau dồi kinh nghiệm, nâng cao khả năng
công tác đáp ứng tinh thần Nghị quyết 49
của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp./.
1 Nghị quyết 02/2018.NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao ngày 15 tháng 05 năm
2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS về án treo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_diem_moi_cua_nhom_toi_pham_ve_ma_tuy_trong_bo_luat_hin.pdf