Thứ tư, tuân thủ quy định của Công
ước về dẫn độ, thiết lập hoạt động tương trợ
tư pháp, dẫn độ tội phạm và bổ sung quy
định về nguyên tắc dẫn độ tội phạm
- Dẫn độ tội phạm cũng là một nội
dung quan trọng của Luật hình sự quốc tế.
Chế định này bên cạnh ý nghĩa buộc những
người gây ra tội phạm phải chịu trách nhiệm
hình sự, còn thể hiện sự hợp tác của các
quốc gia trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Do vậy, các quốc gia tham
gia Công ước cần tuân thủ quy định về dẫn
độ tội phạm.
- Hoạt động tương trợ tư pháp và dẫn
độ tội phạm nguy hiểm là một trong những
yêu cầu quan trọng trong việc hợp tác quốc
tế đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm
xử lý và truy cứu các hành vi phạm tội gây
nguy hại cho xã hội và cộng đồng quốc tế,
cũng như xâm phạm đến các quyền và tự do
của con người. Hoạt động tương trợ tư pháp
và dẫn độ tội phạm là khả năng duy nhất và
quan trọng để thực hiện đầy đủ các hành vi
tố tụng hình sự cần thiết ở nước ngoài. Mặc
dù vậy, hoạt động tương trợ tư pháp, đặc biệt
là dẫn độ tội phạm có liên quan trực tiếp đến
chủ quyền quốc gia, do đó đòi hỏi các quốc
gia phải có quy định chặt chẽ và tham gia
đầy đủ các điều ước, hiệp ước tư pháp liên
quan đến hoạt động tương trợ tư pháp và dẫn
độ tội phạm, để tránh xảy ra tranh chấp khi
có công dân của một nước vi phạm pháp luật
quốc tế. Đặc biệt, các hành vi tố tụng của các
quốc gia có thẩm quyền tài phán chỉ thực sự
thực hiện được đầy đủ và đưa người phạm
tội ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật,
trước cộng đồng quốc tế để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và
của con người, nếu có sự tương trợ tư pháp
của các cơ quan tư pháp các nước tương trợ
tư pháp
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những điểm tích cực, hạn chế của công ước Asean về chống khủng bố và kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích những vấn đề pháp lý cơ bản về Công ước năm
2007 của ASEAN về chống khủng bố, chỉ ra được ý nghĩa của
Công ước đối với các quốc gia thành viên, từ đó đề xuất một số
phương hướng hoàn thiện Công ước ASEAN về chống khủng bố
trong tình hình hiện nay.
Trần Thị Diệu Hương*
Trần Ngọc Thúy*
* PGS. TS. Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
Abstract
This article provides analysis of the basic legal matters of the
Asean Convention on Counter-Terrorism 2007, and also outlines
of the implications of the Convention for the member countries. It
then provides a number of suggestions for further improvements
of the ASEAN Convention on Counter Terrorism in the current
situation.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Công ước năm 2007 của
ASEAN; khủng bố; Cộng đồng quốc
gia ASEAN
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 19/10/2017
Biên tập : 06/03/2018
Duyệt bài : 13/03/2018
Article Infomation:
Keywords: the Asean Convention on
Counter-Terrorism 2007; Counter-
Terrorism; ASEAN Community
Article History:
Received : 19 Oct. 2017
Edited : 06 Mar. 2018
Approved : 13 Mar. 2018
NHỮNG ĐIỂM TÍCH CỰC, HẠN CHẾ CỦA CÔNG ƯỚC ASEAN VỀ
CHỐNG KHỦNG BỐ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Trong những năm qua, hoạt động
khủng bố quốc tế ngày càng gia tăng với
nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi và mức
độ ngày càng nghiêm trọng. Khủng bố đã
trở thành một mối đe dọa và thách thức lớn
đối với an ninh và sự phát triển của mỗi
quốc gia, trong đó có các nước thành viên
ASEAN. Các quốc gia cũng như các nước
thành viên ASEAN đã phải đẩy mạnh các nỗ
lực hợp tác nhằm đối phó có hiệu quả hơn
đối với mối đe dọa và thách thức này. Vào
tháng 1/2007 các nước ASEAN đã ký Công
ước của ASEAN về Chống khủng bố, thiết
lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động hợp
tác an ninh trong khu vực giữa các quốc gia
thành viên nhằm hợp tác, ngăn chặn, chống
khủng bố dưới mọi hình thức.
Công ước năm 2007 ASEAN về
chống khủng bố gồm phần nói đầu và 23
điều khoản, trong đó 19 điều liên quan nội
dung và 4 điều liên quan các thủ tục có hiệu
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 12(364) T6/2018
lực, bổ sung, rút khỏi Công ước và đăng ký
tại Liên hiệp quốc (LHQ).
Công ước của ASEAN về chống
khủng bố bao gồm các nội dung cơ bản:
(i) Mục đích, nguyên tắc và phạm vi hợp
tác theo công ước; (ii) Các tội khủng bố
thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước;
(iii) Quyền tài phán quốc gia và nghĩa vụ
dẫn độ; (iv) Các thủ tục liên quan thực hiện
Công ước.
1. Những điểm tích cực, hạn chế của Công
ước ASEAN về chống khủng bố
1.1 Điểm tích cực của Công ước
ASEAN về chống khủng bố
Thứ nhất, Công ước của ASEAN về
chống khủng bố ra đời trong bối cảnh hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10 (2004)
thông qua chương trình hành động Viên
Chăn, trong đó các nước thành viên ASEAN
cam kết tăng cường nỗ lực hướng tới xây
dựng một Công ước của ASEAN về chống
khủng bố.
Đây là một trong những điểm lợi thế
tiên quyết trong việc nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc xây dựng Công ước về chống
khủng bố trong bối cảnh tội phạm khủng bố
đang diễn ra tinh vi và nhân rộng để kêu gọi
các cơ quan hữu quan của các nước thành
viên hợp tác chặt chẽ, lập nhóm sáng tạo
Công ước và thúc đẩy sớm ra đời Công ước
chống khủng bố trong khu vực.
Thứ hai, có được sự đồng thuận cao
của tất cả các thành viên trong khu vực trong
việc hợp tác để ban hành Công ước chống
khủng bố chung cho các quốc gia ASEAN.
Sự đồng thuận cao là một lợi thế để
khu vực ASEAN dễ dàng trong việc đưa ra
một văn bản chung thống nhất về vấn đề
chống khủng bố, một vấn đề nóng, mang
tính toàn cầu, ảnh hưởng rất lớn tới an ninh
chính trị của quốc gia và toàn khu vực. Đây
là một điểm mạnh khi đàm phán về công
1 Xem thêm: Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình sự của các quốc gia ASEAN năm 2004.
ước quốc tế mà không phải công ước quốc tế
trong cộng đồng ASEAN nào cũng dễ dàng
có được điều này, ví dụ Hiệp định Tương trợ
tư pháp về hình sự của các quốc gia ASEAN
không có được sự tham gia đầy đủ của các
quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Đông
Timo và Myanmar, mặc dù hợp tác trong
lĩnh vực hình sự là một trong những ưu tiên
hàng đầu của khu vực nói chung và mỗi một
quốc gia nói riêng trong vấn đề giữ vững an
ninh, chính trị1.
Thứ ba, về cơ bản, Công ước đã đưa ra
được đầy đủ các điều khoản nhằm đạt được
mục tiêu của các bên
Chỉ với 23 điều khoản nhưng Công
ước ASEAN năm 2007 về chống khủng bố
đã thể hiện được gần như đầy đủ các nội
dung để đạt được mục tiêu của các bên là đối
phó và ngăn chặn khủng bố dưới mọi hình
thức và biểu hiện của khủng bố, tăng cường
hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp luật
và các cơ quan liên quan của các bên trong
việc chống lại chủ nghĩa khủng bố.
1.2 Hạn chế của Công ước của
ASEAN về chống khủng bố
Thứ nhất, các quy định nội dung của
Công ước chưa làm rõ được mục tiêu trong
Công ước.
Mục tiêu Công ước được quy định rõ
tại Điều 1: “Công ước này đưa ra các khuôn
khổ hợp tác khu vực để hợp tác, đối phó và
ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố dưới mọi hình
thức và biểu hiện của nó và tăng cường hợp
tác giữa các cơ quan thực thi pháp luật và các
cơ quan có liên quan của các Bên trong việc
chống lại chủ nghĩa khủng bố”. Quy định này
cho thấy, mục tiêu chính của Công ước là đưa
ra các khuôn khổ hợp tác phù hợp và tăng
cường hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp
luật để chống lại chủ nghĩa khủng bố trong
khu vực. Tuy nhiên, nội dung Công ước lại
chưa làm sáng rõ được hai vấn đề này. Ví dụ,
trong mục tiêu về đưa ra các khuôn khổ hợp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 12(364) T6/2018
tác trong khu vực thì nội dung Công ước có
quy định tại Điều 5 “không áp dụng” và Điều
6 “lĩnh vực áp dụng”2, chỉ dừng lại ở hai quy
định trên thì chưa đủ để thể hiện được khuôn
khổ hợp tác được đề cập đến trong mục tiêu
Công ước, như nguyên tắc hợp tác và hình
thức hợp tác.
Hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp
luật là tất yếu, khách quan, phù hợp với yêu
cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Tuy nhiên, trong
quá trình hợp tác, các bên tham gia có thể
có những hành vi xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của bên thứ ba, như áp dụng
các biện pháp bất lợi hơn cho công dân của
bên thứ ba; phong toả tài khoản của tổ chức
cá nhân của bên thứ ba mà không có lý do
chính đáng Cơ sở pháp lý của nguyên tắc
này là các điều ước quốc tế song phương và
đa phương, đặc biệt là các điều ước song
phương về chống khủng bố thường quy định
trực tiếp nguyên tắc này. Tuy nhiên, Công
ước của ASEAN về chống khủng bố lại
chưa đề cập đến nội dung này để đạt được
hiệu quả trong tăng cường hợp tác giữa
các cơ quan thực thi pháp luật về chống
khủng bố3.
Thứ hai, Công ước chưa đưa ra được
định nghĩa “khủng bố”.
Hiện nay, trong khuôn khổ LHQ
và các tổ chức thành viên (ICAO, IMO,
IAEA) có 13 điều ước quốc tế đa phương
về chống khủng bố đã được thông qua. Công
ước chung về chống khủng bố quốc tế mặc
dù được tiến hành xây dựng từ năm 1996
đến nay nhưng vẫn đang nằm dưới dạng
dự thảo vì còn nhiều ý kiến bất đồng xung
quanh vấn đề định nghĩa khủng bố. Ở cấp độ
khu vực cũng đã có 8 điều ước quốc tế được
ký kết. Ngoài ra còn rất nhiều các Hiệp định
quốc tế song phương và các Nghị quyết của
2 Xem thêm tại: Điều 5, Điều 6, Công ước năm 2007 của ASEAN về chống khủng bố.
3 Xem thêm: Bùi Mạnh Hùng, Hợp tác quốc tế về chống khủng bố và liên hệ thực tiễn Việt Nam, Luận văn ThS, năm
2012.
4 Xem thêm: Chuyên mục Công pháp quốc tế, khái niệm khủng bố từ các công ước quốc tế,
com/2014/06/khai-niem-khung-bo-tu-cac-cong-uoc-quoc.html, 17/06/2014.
5 Xem thêm tại: Điều 2, Công ước năm 2007 của ASEAN về chống khủng bố.
Đại hội đồng, Hội đồng bảo an LHQ về các
biện pháp đấu tranh chống khủng bố. Mặc
dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
quốc tế về chống khủng bố tương đối lớn,
tuy nhiên chưa có văn bản nào đưa ra được
định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc đưa ra
định nghĩa chung về khủng bố là cấp thiết vì
có như vậy mới nâng cao được hiệu quả hợp
tác đấu tranh phòng chống tội phạm này4.
Điều 2 Công ước của ASEAN về chống
khủng bố không định nghĩa “khủng bố” mà
chỉ liệt kê “tội phạm khủng bố” là bất kỳ
hành vi phạm tội nào trong phạm vi và theo
quy định tại một trong các điều ước quốc tế
được liệt kê trong 13 điều ước quốc tế thuộc
khuôn khổ LHQ về đấu tranh chống khủng
bố hiện nay5.
Thứ ba, chưa có thành viên ASEAN
nào tham gia đầy đủ các văn kiện pháp lý đa
phương được quy định tại Điều 2 Công ước
ASEAN về chống khủng bố.
Các tội khủng bố thuộc phạm vi điều
chỉnh của Công ước tại Điều 2 nêu rất rõ
tất cả các tội phạm khủng bố đã được xác
định trong 14 Công ước và Nghị định thư đa
phương liên quan về chống khủng bố sẽ là tội
bị trừng trị theo Công ước ASEAN về chống
khủng bố. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
nước thành viên ASEAN nào tham gia đầy
đủ các văn kiện pháp lý đa phương nói trên
về chống khủng bố. Phù hợp với Công ước
Viên năm 1969 về Luật Ký kết các điều ước
quốc tế giữa các quốc gia, các nước ASEAN
chỉ có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ
theo các văn kiện pháp lý mà họ tham gia và
họ không thể bị ràng buộc bởi các cam kết
trong các Công ước, Nghị định thư mà họ
chưa phải là thành viên. Điều này gây khó
khăn cho việc xác định các tội phạm khủng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 12(364) T6/2018
bố khi các quốc gia vi phạm Công ước này.
Thứ ba, chưa quy định rõ thủ tục giải
quyết tranh chấp.
Điều 19 Công ước ASEAN về chống
khủng bố quy định: Mọi bất đồng hoặc
tranh chấp giữa các bên phát sinh từ việc
giải thích hay thực hiện các quy định của
Công ước này phải được giải quyết trên
cơ sở hòa giải bằng tham vấn hoặc thương
lượng giữa các Bên thông qua con đường
ngoại giao hoặc bằng các phương thức giải
quyết tranh chấp hòa bình khác do các bên
thỏa thuận. Mặc dù tinh thần và ý tưởng là
trong trường hợp các thành viên ASEAN có
tranh chấp và việc trao đổi ý kiến, thương
lượng không giải quyết được tranh chấp thì
các bên liên quan có thể thỏa thuận nhờ vai
trò môi giới, trung gian và hòa giải của các
bên thứ ba hoặc cao hơn là thỏa thuận giải
quyết các tranh chấp qua thủ tục trọng tài
hoặc các tòa án quốc tế, tuy nhiên lời văn
trong điều khoản không nói cụ thể nên sẽ rất
khó khăn cho các bên khi lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp. Biện pháp giải
quyết sẽ rất linh hoạt, song điều then chốt là
biện pháp đó phải được các bên tranh chấp
cùng nhau thỏa thuận, không bên nào bị ép
buộc phải chấp nhận biện pháp giải quyết
mà họ không muốn. Nếu trường hợp các bên
không thỏa thuận được thì sẽ giải quyết theo
phương thức nào? Đây là một trong những
hạn chế lớn nhất của Công ước ASEAN về
chống khủng bố, bởi sự hợp tác nào cũng sẽ
có lúc xung đột và phương thức giải quyết
xung đột là một yêu cầu tất yếu.
2. Ý nghĩa của Công ước ASEAN năm
2007 về chống khủng bố đối với các quốc
gia thành viên
Thứ nhất, Công ước ra đời đáp ứng
được nhu cầu của khu vực nói chung và của
mỗi một quốc gia trong khu vực nói riêng về
giữ vững an ninh tổ quốc
6 Xem thêm tại: Phi Yến, Top 5 quân đội mạnh nhất Đông Nam Á,
dong-nam-a-20150713230642783.htm, ngày 14/07/2015.
Thứ hai, cơ chế hợp tác trong Công
ước không chỉ đóng vai trò thiết lập một
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động hợp tác,
ngăn chặn và chống khủng bố khu vực, mà
thông qua cơ chế hợp tác ASEAN có cơ hội
để hợp tác với nhau nhiều hơn, tạo nên sự
gắn kết chặt chẽ hơn giữa các quốc gia.
Thứ ba, quá trình hợp tác giúp cho các
nước trong khu vực nhận được những khoản
viện trợ, kỹ thuật, học hỏi được kinh nghiệm
trong công tác nâng cao năng lực đội ngũ an
ninh quốc phòng và kinh nghiệm về chiến
thuật đấu tranh chống lại tội phạm khủng bố
Đây là một trong những ý nghĩa rất
quan trọng đối với các quốc gia tham gia
Công ước ASEAN về chống khủng bố, bởi
một trong những điều kiện tiên quyết đưa
đến thắng lợi trong công tác chống lại tội
phạm khủng bố đó là sức mạnh và chiến lược
trong an ninh, quân sự. Với những quốc gia
có quân đội mạnh, chiến thuật tốt và năng
lực an ninh quốc phòng cao như Indonesia,
Thái Lan, Việt Nam hay Singapo6 là thành
viên tham gia Công ước ASEAN về chống
khủng bố sẽ là một lợi thế rất quan trọng
giúp những quốc gia còn lại trong khu vực
học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về quân sự, an
ninh quốc phòng và chiến thuật trong việc
đấu tranh chống lại tội phạm khủng bố.
- Thứ tư, việc phê chuẩn Công ước
của một quốc gia sẽ tạo động lực thúc đẩy
các quốc gia khác trong việc phê chuẩn, phê
duyệt Công ước ASEAN về khủng bố
Công ước ASEAN về chống khủng bố
không đòi hỏi phải có đủ 10 nước phê chuẩn
hoặc phê duyệt mới có hiệu lực. Việc một quốc
gia nào đó trong khu vực sớm phê chuẩn hoặc
phê duyệt Công ước không chỉ đáp ứng các
nhu cầu của chính các quốc gia đó, mà còn
có ý nghĩa tạo thêm xung lực để thúc đẩy các
nước thành viên ASEAN còn lại triển khai
việc phê chuẩn hoặc phê duyệt Công ước.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21Số 12(364) T6/2018
3. Thực tiễn thực thi Công ước và kiến
nghị hoàn thiện Công ước của ASEAN về
chống khủng bố
3.1 Thực tiễn thực thi công ước
Thứ nhất, về phê chuẩn, phê duyệt
công ước. Việc xây dựng Công ước ASEAN
về chống khủng bố là một bước ngoặt quan
trọng trong nỗ lực chung của các nước
ASEAN nhằm ngăn ngừa và trừng trị tội
khủng bố. Yêu cầu đặt ra hiện nay là các
nước ASEAN khẩn trương hoàn thành các
thủ tục pháp lý nội bộ của mình (phê chuẩn
hoặc phê duyệt) để các quy định của Công
ước sớm đi vào cuộc sống. Tuy nhiên đến
nay, việc phê chuẩn, phê duyệt Công ước
chưa được tiến hành một cách đồng bộ trong
phạm vi khu vực. Tháng 10/2007 Singapore
đã phê chuẩn Công ước. Tháng 3/2008 Thái
Lan cũng đã hoàn thành thủ tục pháp lý của
mình, còn các nước ASEAN khác đang trong
quá trình chuẩn bị. Việt Nam cũng đã tiến
hành triển khai Công ước ASEAN về chống
khủng bố ngày 15/8/2012, lên kế hoạch triển
khai thực hiện Công ước ASEAN về chống
khủng bố, xác định nội dung công việc,
trách nhiệm và phân công nhiệm vụ cụ thể
cho các Bộ, cơ quan, địa phương trong triển
khai thực hiện Công ước ASEAN về chống
khủng bố.
Thứ hai, về vấn đề định nghĩa khủng
bố. Xét từ góc độ pháp lý, cần thiết phải
có một định nghĩa về khủng bố ngay trong
nội luật của các quốc gia thành viên. Tuy
nhiên cho đến nay, nội luật của các nước
thành viên ASEAN cũng còn khác nhau, có
nước đã có định nghĩa về khủng bố, nhưng
có nước chưa định nghĩa. Trong quá trình
thương lượng dự thảo Công ước của ASEAN
về chống khủng bố, Việt Nam đã trao đổi
và thống nhất với các nước về cách tiếp cận
linh hoạt là Công ước của ASEAN không
có định nghĩa về tội khủng bố, mà viện dẫn
đến các tội danh đã được xác định trong các
7 Xem thêm: Thái Văn Long, Khủng bố ở khu vực Đông Nam Á hiện nay và quan điểm của Việt Nam trong phòng, chống
khủng bố,
quan-diem-cua-viet-nam-trong-phong-chong-khung-bo.html, cập nhật ngày 26/8/2016.
Công ước và Nghị định thư đa phương hiện
hành về chống khủng bố. Sau này tùy tiến
triển của tình hình, các nước sẽ cùng nhau
xem xét và thỏa thuận về việc bổ sung định
nghĩa khủng bố.
Thứ ba, về vấn đề dẫn độ. Trong
những năm qua, các nước ASEAN đã có
nhiều nỗ lực để duy trì hoà bình, ổn định
khu vực. Tuy nhiên, các nước Đông Nam Á
hiện nay đang phải đối mặt với những thách
thức khủng bố, nghiêm trọng nhất trong thời
gian gần đây là khủng bố từ IS. Chuyên gia
chống khủng bố Rohan Gunaratna, Giám
đốc Trung tâm nghiên cứu khủng bố và bạo
lực chính trị tại Xingapo cho biết, đây sẽ là
thách thức an ninh chính cho khu vực Đông
Nam Á. Để đối phó, “Chính phủ các nước
trong khu vực phải hợp tác cùng nhau để
ngăn chặn việc hình thành tổ chức vệ tinh
của IS tại khu vực, bởi nếu không, thách
thức khủng bố vẫn tiếp tục gia tăng”7. Ở Việt
Nam, thời gian vừa qua cũng đã xảy ra một
số vụ khủng bố nhằm chống lại Nhà nước
Việt Nam, cơ quan đại diện ngoại giao của
Việt Nam ở nước ngoài. Khi Việt Nam đề
nghị các nước hữu quan dẫn độ khủng bố
chống lại Nhà nước Việt Nam, thì yêu cầu
của Việt Nam lại chưa được đáp ứng thỏa
đáng với lý do hoặc là quy định về tội danh
khủng bố của Việt Nam còn chưa chặt chẽ,
có thể bị chính trị hóa, hoặc là do Việt Nam
và nước hữu quan chưa ký kết các Hiệp định
về dẫn độ nên chưa có cơ sở pháp lý để dẫn
độ cho Việt Nam.
Với tình hình trên, việc thực hiện tốt
điều khoản về “dẫn độ” trong Công ước năm
2007 của ASEAN về chống khủng bố là một
yêu cầu, là chiến lược quan trọng đối với các
quốc gia thành viên trước tình trạng khủng
bố gia tăng. Tuy nhiên, trong thời gian qua,
việc áp dụng điều khoản dẫn độ để xét xử
chưa được tuân thủ một cách nghiêm ngặt.
Điều này góp phần làm cho hoạt động khủng
bố ngày một gia tăng, đồng thời ảnh hưởng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 12(364) T6/2018
nghiêm trọng tới giá trị pháp lý của Công
ước ASEAN về khủng bố.
3.2 Kiến nghị hoàn thiện Công ước
năm 2007 của ASEAN về khủng bố
Thứ nhất, hoàn thiện nội dung các
điều khoản để làm rõ mục tiêu trong
Công ước
Cần bổ sung và làm rõ hơn các điều
khoản trong Công ước để đạt được mục
tiêu “đưa ra các khuôn khổ hợp tác khu vực
để hợp tác đối phó và ngăn chặn chủ nghĩa
khủng bố dưới mọi hình thức và biểu hiện
của nó và tăng cường hợp tác giữa các cơ
quan thực thi pháp luật và các cơ quan có
liên quan của các bên trong việc chống lại
chủ nghĩa khủng bố”. Trong mục tiêu đưa
ra các khuôn khổ hợp tác trong khu vực, cần
bổ sung thêm quy định về nguyên tắc hợp
tác, hình thức hợp tác chống khủng bố trong
khu vực. Trong nguyên tắc hợp tác, thiết
nghĩ với vấn đề chống khủng bố thì nguyên
tắc: (i) hợp tác chống khủng bố và các quyền
cơ bản của con người; (ii) nguyên tắc hợp
tác chống khủng bố và lợi ích quốc gia; (iii)
nguyên tắc hợp tác chống khủng bố và vấn
đề quyền tài phán quốc gia; (iv) nguyên
tắc hợp tác chống khủng bố và lợi ích của
bên thứ ba. Về hình thức hợp tác, Công ước
ASEAN có thể chia hợp tác chống khủng bố
thành hai hình thức: hợp tác chính thức và
hợp tác không chính thức. Trong nội dung
mục tiêu về tăng cường hợp tác giữa các cơ
quan thực thi pháp luật, các quốc gia cần ký
các điều ước song phương hoặc đa phương
về chống khủng bố để siết chặt hơn quy định
về sự hợp tác giữa các cơ quan thực thi pháp
luật nhằm đạt được mục tiêu trong Công ước
và đẩy lùi tình trạng khủng bố.
Thứ hai, đưa ra được định nghĩa chính
thức về “khủng bố” trong Công ước
Như đã nêu, Điều 2 của Công ước
không định nghĩa “khủng bố” mà chỉ liệt kê
“tội phạm khủng bố” là bất kỳ hành vi phạm
tội trong phạm vi và theo quy định tại một
trong các điều ước quốc tế được liệt kê trong
13 điều ước quốc tế thuộc khuôn khổ LHQ
về đấu tranh chống khủng bố hiện nay. Quy
định này còn quá chung chung, chưa thống
nhất nên cần sửa đổi lại Điều 2 Công ước
năm 2007 ASEAN về chống khủng bố theo
hướng không liệt kê mà đưa ra một định
nghĩa cụ thể về một cách hiểu “khủng bố”
chung thống nhất. Điều này sẽ giúp nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng chống loại tội
phạm này.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về cơ
quan, thủ tục giải quyết tranh chấp
Điều 19 Công ước ASEAN về chống
khủng bố quy định: Mọi bất đồng hoặc tranh
chấp giữa các bên phát sinh từ việc giải thích
hay thực hiện các quy định của Công ước
này phải được giải quyết trên cơ sở hòa giải
bằng tham vấn hoặc thương lượng giữa các
Bên thông qua con đường ngoại giao hoặc
bằng các phương thức giải quyết tranh chấp
hòa bình khác do các Bên thỏa thuận. Quy
định trên chưa làm rõ trường hợp nếu các
bên không thỏa thuận được thì cơ quan nào
sẽ giải quyết tranh chấp, thủ tục giải quyết
như thế nào. Để giải quyết mọi bất đồng
giữa các bên tranh chấp, cần bổ sung quy
định về thành lập một cơ quan chuyên trách
để giải quyết tranh chấp phát sinh khi các
bên không giải quyết được thông qua con
đường ngoại giao, hòa bình và thỏa thuận.
Thứ tư, tuân thủ quy định của Công
ước về dẫn độ, thiết lập hoạt động tương trợ
tư pháp, dẫn độ tội phạm và bổ sung quy
định về nguyên tắc dẫn độ tội phạm
- Dẫn độ tội phạm cũng là một nội
dung quan trọng của Luật hình sự quốc tế.
Chế định này bên cạnh ý nghĩa buộc những
người gây ra tội phạm phải chịu trách nhiệm
hình sự, còn thể hiện sự hợp tác của các
quốc gia trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Do vậy, các quốc gia tham
gia Công ước cần tuân thủ quy định về dẫn
độ tội phạm.
- Hoạt động tương trợ tư pháp và dẫn
độ tội phạm nguy hiểm là một trong những
yêu cầu quan trọng trong việc hợp tác quốc
tế đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm
xử lý và truy cứu các hành vi phạm tội gây
nguy hại cho xã hội và cộng đồng quốc tế,
cũng như xâm phạm đến các quyền và tự do
của con người. Hoạt động tương trợ tư pháp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 12(364) T6/2018
và dẫn độ tội phạm là khả năng duy nhất và
quan trọng để thực hiện đầy đủ các hành vi
tố tụng hình sự cần thiết ở nước ngoài. Mặc
dù vậy, hoạt động tương trợ tư pháp, đặc biệt
là dẫn độ tội phạm có liên quan trực tiếp đến
chủ quyền quốc gia, do đó đòi hỏi các quốc
gia phải có quy định chặt chẽ và tham gia
đầy đủ các điều ước, hiệp ước tư pháp liên
quan đến hoạt động tương trợ tư pháp và dẫn
độ tội phạm, để tránh xảy ra tranh chấp khi
có công dân của một nước vi phạm pháp luật
quốc tế. Đặc biệt, các hành vi tố tụng của các
quốc gia có thẩm quyền tài phán chỉ thực sự
thực hiện được đầy đủ và đưa người phạm
tội ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật,
trước cộng đồng quốc tế để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và
của con người, nếu có sự tương trợ tư pháp
của các cơ quan tư pháp các nước tương trợ
tư pháp8.
- Bổ sung thêm nguyên tắc dẫn độ tội
phạm như “nguyên tắc có đi có lại” để thể
hiện sự tôn trọng và bình đẳng chủ quyền
quốc gia trong quan hệ quốc tế, trong việc
cùng nhau xử lý tội phạm, không có sự
8 Xem thêm: Trịnh Tiến Việt, Thẩm quyền xét xử và việc dẫn độ trong luật hình sự quốc tế,
com/bai-viet---tin-tuc/tham-quyen-xet-xu-va-viec-dan-do-trong-luat-hinh-su-quoc-te/vn
9 Xem thêm: Trịnh Tiến Việt, tlđd.
bao che, bảo kê cho tội phạm; “nguyên tắc
không dẫn độ công dân nước mình” để tiến
hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi
hành bản án. Đây cũng chính là sự thể hiện
quốc gia bảo vệ quyền con người cho công
dân nước mình, song vẫn phải chuyển giao
cho cơ quan có thẩm quyền trong quốc gia
để tiến hành giải quyết vụ việc đó theo trình
tự, thủ tục tố tụng hình sự nói chung9.
Thứ năm, các quốc gia khẩn trương
hoàn thành thủ tục nội bộ để phê chuẩn, phê
duyệt Công ước
Quốc gia chưa phê chuẩn, phê duyệt
Công ước cần khẩn trương hoàn thiện thủ
tục nội bộ để phê chuẩn, phê duyệt Công
ước, đáp ứng được mục tiêu trong cam kết
chính trị được nêu trong tuyên bố năm 2001
về chống khủng bố giữa ASEAN và một số
đối tác như Mỹ, Úc, Ấn Độ, Pakistan Đây
cũng là một bước ngoặt quan trọng trong nỗ
lực chung của các nước ASEAN nhằm ngăn
ngừa và trừng trị tội khủng bố, góp phần
mang đến hoàn bình, thịnh vượng chung
trong toàn khu vực■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước năm 2007 của ASEAN về chống khủng bố
2. Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình sự của các quốc gia ASEAN năm 2004
3. Bùi Mạnh Hùng, Hợp tác quốc tế về chống khủng bố và liên hệ thực tiễn Việt Nam, Luận văn ThS. chuyên
ngành Luật quốc tế, năm 2012.
4. Chuyên mục Công pháp quốc tế, Khái niệm khủng bố từ các công ước quốc tế,
com/2014/06/khai-niem-khung-bo-tu-cac-cong-uoc-quoc.html, 17/06/2014.
5. Nguyễn Duy Chiến (2009), Công ước năm 2007 của ASEAN về chống khủng bố và sự tham gia của Việt
Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp tháng 03/2009.
6. Mộc Thạch, Khủng bố tấn công tại Jakata, Inđônêxia: Đông Nam Á hãy thức tỉnh,
cập nhật ngày 18/01/2016.
7. Thái Văn Long, Khủng bố ở khu vực Đông Nam Á hiện nay và quan điểm của Việt Nam trong phòng, chống
khủng bố,
hien-nay-va-quan-diem-cua-viet-nam-trong-phong-chong-khung-bo.html, cập nhật ngày 26/8/2016.
8. Trịnh Tiến Việt, Thẩm quyền xét xử và việc dẫn độ trong luật hình sự quốc tế,
com/bai-viet---tin-tuc/tham-quyen-xet-xu-va-viec-dan-do-trong-luat-hinh-su-quoc-te/vn,
9. Phi Yến, Top 5 quân đội mạnh nhất Đông Nam Á,
nam-a-20150713230642783.htm, ngày 14/07/2015.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 12(364) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_diem_tich_cuc_han_che_cua_cong_uoc_asean_ve_chong_khun.pdf