Chất lượng quản trị chịu ảnh hưởng
không nhỏ từ yếu tố cá nhân người đứng
đầu
Cá nhân người đứng đầu nhà nước và
theo đó là đứng đầu các cơ quan nhà nước
là yếu tố mang tính chất quyết định. Các
quyết sách và đường lối cai trị của những
người đứng đầu nhà nước chính là tôn chỉ
hành động của Nhà nước, cũng chính là mục
tiêu của quá trình quản trị. Lịch sử đã chứng
minh, những vị vua mẫn cán, thương dân
thường là những vị vua có chính sách quản
trị tốt, được nhân dân tin yêu, hiệu quả quản
trị thể hiện ở sự vững mạnh của bộ máy nhà
nước, sự bền vững của triều đại, sự ấm no
của dân chúng. Triều Hậu Lê đã có những
vị vua xuất chúng như Lê Thái Tổ, Lê Thánh
Tông, là những vị vua "lo cái lo trước thiên
hạ và vui cái vui sau thiên hạ". Triều Hậu Lê
thịnh trị cũng nhờ những vị vua đã đặt nền
tảng và có những cải cách mạnh mẽ như hai
vị vua này. Ngược lại, những vị vua như Lê
Tương Dực, Lê Uy Mục chỉ chăm lo hưởng
thụ, thích giết chóc, thị uy, không chăm lo
đến đời sống nhân dân, đã sớm mang lại
họa suy vong cho nước nhà, bị nhân dân
oán thán, căm ghét. Tư cách, phẩm hạnh,
tài năng của người đứng đầu nhà nước sẽ
như một quy định bất thành văn, ảnh hưởng
mạnh mẽ đến đội ngũ quan lại, công chức
thừa hành công vụ.
Do đó, triều Hậu Lê đã rất coi trọng và
cũng đòi hỏi rất cao đối với vị trí của người
đứng đầu, người chịu trách nhiệm trong các
hoạt động quản trị. Các cách thức quy định
trách nhiệm công vụ cũng như dự liệu về
trách nhiệm pháp lý của quan lại đã thể hiện
sâu sắc nhận thức này
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 780 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Những giá trị trong quản trị Nhà nước triều Hậu Lê, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÖÕNG GIAÙ TRÒ TRONG QUAÛN TRÒ NHAØ NÖÔÙC TRIEÀU HAÄU LEÂ 
Phạm Thị Duyên Thảo*
Tóm tắt: 
Bài viết phân tích những đặc điểm cơ bản trong quản trị nhà nước triều 
Hậu Lê và rút ra những giá trị trong quản trị nhà nước triều Hậu Lê.
Abstract: 
This article provides analysis of the substantial characteristics in the 
state governance by the Post-Lê and the values of the Post-Lê’s state 
governance.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quản trị nhà nước; quản 
trị nhà nước triều Hậu Lê; pháp luật 
triều Hậu Lê 
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 30/11/2016
Biên tập: 12/06/2017
Duyệt bài: 19/06/2017
Article Infomation:
Keywords: state governance, state 
governance of the Post-Lê, the laws 
of the Post-Lê
Article History:
Received: 30 Nov. 2016
Edited: 12 Jun 2017
Appproved: 19 Jun 2017
* TS, Bộ môn Lý luận - Lịch sử Nhà nước pháp luật, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Năm 1428, nghĩa quân Lam Sơn đã 
giải phóng hoàn toàn đất nước, khôi phục 
nền độc lập dân tộc, đưa Lê Lợi lên ngôi tại 
kinh thành Thăng Long, triều đại Hậu Lê 
được thiết lập. Dựa trên đặc điểm phát triển, 
giới sử học chia nhà Hậu Lê thành hai giai 
đoạn: Lê sơ và Lê trung hưng. Giai đoạn 
Lê sơ (1428 - 1527) gắn liền với tên tuổi 
các vị vua anh minh: Thái Tổ, Thái Tông, 
Thánh Tông và nhà chính trị - văn hóa thiên 
tài Nguyễn Trãi Nước Đại Việt dưới thời 
các vị này phát triển rực rỡ: Nhà nước trung 
ương tập quyền được củng cố vững chắc, 
biên giới phía Bắc được giữ yên, lãnh thổ 
phía Nam mở rộng tới Bình Định, hoạt động 
lập pháp cũng đạt nhiều thành tựu đáng kể, 
vai trò của Nhà nước trung ương tập quyền 
được khẳng định. 
1. Những điểm cơ bản trong quản trị nhà 
nước triều Hậu Lê
Coi trọng việc bảo vệ ruộng đất, phát 
triển nông nghiệp 
Triều đại Hậu Lê sớm xác định được 
vai trò của nguồn tài nguyên đất đai và của 
sản xuất nông nghiệp, nên đã coi việc bảo vệ 
ruộng đất, phát triển nông nghiệp là nền tảng 
thúc đẩy kinh tế đất nước. Theo đó, triều 
Hậu Lê đã có hàng loạt quy định pháp luật 
để bảo vệ ruộng đất công cũng như ruộng 
đất tư: cấm mua bán, chuyển nhượng, cầm 
cố; cấm quan lại làm sai quy định trong quá 
trình phân cấp ruộng đất công, thu sai hoặc 
chiếm đoạt thuế; cấm lấn, chiếm, tranh đoạt; 
cấm bán trộm ruộng đất của người khác; 
cấm ức hiếp để mua ruộng đất...
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 12(340) T6/2017
Đi cùng với các chính sách về ruộng 
đất là chính sách khuyến nông. Nhà Lê cho 
thành lập hàng loạt các cơ quan chuyên môn 
liên quan đến phát triển nông nghiệp như Sở 
Tầm tang, Sở Thực thái, Sở Đồn điền, Sở 
Điền mục để phụ trách các việc trồng dâu, 
nuôi tằm, trồng rau hoa màu, khai hoang, 
chăn nuôi. Các quan chức phụ trách nếu làm 
không hết chức phận gây hậu quả sẽ bị xử 
phạt hoặc bãi chức. 
Đề cao quy tắc bảo vệ, tôn trọng 
quyền con người
Pháp luật được chú trọng xây dựng 
ngay từ những ngày đầu triều Hậu Lê giành 
được chính quyền với một trình độ kỹ thuật 
lập pháp phát triển cao. Các sản phẩm pháp 
điển hóa, tập hợp hóa điển hình như: Từ 
tụng điều lệ (1468), Nhân mạng tra nghiệm 
pháp (1737), Quốc triều hình luật (1428), Lê 
triều quan chế (1471), Quốc triều khám tụng 
điều lệ (1717-1777), cùng hàng trăm văn 
bản pháp luật đơn hành của nhà vua được 
ban hành trong quá trình hoạt động, quản lý 
nhà nước. 
Trong quá trình vận hành quyền lực 
chính trị, triều Hậu Lê đã thể hiện tinh thần 
pháp chế mạnh mẽ như lời của vua Lê Thánh 
Tông: "Đặt luật là để trừ kẻ gian, sao dung 
được bọn coi thường pháp luật", "Quân pháp 
chỉ có một chứ không có hai"1. 
Pháp luật được các triều đại Hậu Lê 
sử dụng để tổ chức bộ máy nhà nước, quy 
định cách thức tổ chức, hoạt động của các 
cơ quan nhà nước, quyền, nghĩa vụ và trách 
nhiệm pháp lý của các quan chức thừa hành 
công vụ, điều chỉnh các lĩnh vực quan trọng 
trong đời sống xã hội và đặc biệt, thể hiện 
tinh thần nhân văn, tôn trọng và bảo vệ các 
quyền cơ bản của con người. Qua việc thể 
chế tư tưởng “kính thiên ái dân” của Nho 
gia vào những quy định về trách nhiệm của 
quan lại với vua, trong công vụ, với bản thân 
và đồng liêu; việc thể chế hóa lễ để quản lý, 
giáo hóa dân chúng cho đến các biện pháp 
1 Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2009, tr. 622.
chế tài đa dạng để buộc các quan chức thừa 
hành công vụ phải thực hiện nghiêm túc 
trọng trách của mình trước nhà nước, trước 
nhân dân, pháp luật triều Hậu Lê đã hướng 
đến bảo vệ và tôn trọng các quyền, lợi ích cơ 
bản của con người.
Tăng cường kiểm soát việc thực hiện 
quyền lực của bộ máy nhà nước 
Bộ máy nhà nước trong các triều đại 
Hậu Lê, đặc biệt là thời Lê sơ, được tổ chức 
theo hướng tăng cường hiệu quả, bước đầu 
có sự giới hạn quyền lực nhà nước để bảo 
vệ quyền con người, tăng trách nhiệm của 
các chủ thể công quyền. Vua trực tiếp nắm 
và điều tiết công việc của các cơ quan nhà 
nước ở trung ương mà không cần qua các 
chức quan như Tả, Hữu tướng quốc thời đầu 
Lê sơ. Các cơ quan nhà nước được chuyên 
môn hóa theo hướng các bộ giám sát từng 
lĩnh vực công việc mà bộ mình phụ trách, 
đồng thời giám sát các lĩnh vực khác theo 
thẩm quyền. Quan chức không biết hay để 
mặc, dung túng cho sai phạm trong quá trình 
kiểm tra, giám sát đều bị phạt. Sự siêng hay 
lười, lỗi lầm hay công trạng, thuyên chuyển 
hay thăng thưởng của quan lại đều được ghi 
vào sổ sách, quản lý chặt chẽ làm cơ sở để 
bổ dụng, thưởng phạt (Điều 25, 27, 60,61 
Bộ Quốc triều hình luật).
Ở địa phương, các Ty ngự sử có chức 
năng giám sát đạo. Ty ngự sử đóng ở đạo 
nhưng hoạt động độc lập, trực thuộc và báo 
cáo trực tiếp hoạt động giám sát các đạo lên 
Ngự sử đài ở trung ương. Việc quản lý đạo 
vốn chỉ bởi một cá nhân được thay bằng hệ 
thống các cơ quan là Thừa ty, Đô ty và Hiến 
ty với các chức năng tương ứng là quản lý 
hành chính, tài chính, dân sự; trông coi việc 
quân, quân sự, và thực hiện chức năng xét 
xử và giám sát các ty trên. 
Trách nhiệm cá nhân, đạo đức công 
vụ của người áp dụng pháp luật được xem 
là nguyên tắc xuyên suốt: "Từ Thượng thư 
Hình bộ trở xuống cho đến Đại lý tự và 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 12(340) T6/2017
các ngục quan, người nào làm không đúng 
phép, tha buộc tội cho người, phải nên tâu 
hặc”2. Bản thân nhà vua cũng chịu một cơ 
chế kiểm soát và hạn chế quyền lực khi dưới 
vua là một hệ thống quan lại và cơ quan 
nhà nước có tính chất tư vấn, khuyên can 
vua như Hàn lâm viện, Bí thư giám. Các cơ 
quan này ngoài chức năng cùng vua bàn bạc 
những việc trọng đại của đất nước, còn là để 
can gián vua, giúp vua có được những quyết 
định sáng suốt. 
Các công chức dưới triều Hậu Lê đều 
phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, 
phải thực thi hiệu quả công việc được giao 
và chịu hậu quả khi chưa làm tròn trách 
nhiệm. Khía cạnh này đã được thể hiện 
xuyên suốt trong đời sống pháp luật Hậu 
Lê, bao gồm: trách nhiệm với bản thân (các 
quan chức phải là những người có đạo đức, 
năng lực, ứng xử chuẩn mực), trách nhiệm 
với nhà vua, với chức phận của mình; nếu 
không làm hết chức trách, hoặc nhũng nhiễu 
dân, gian lận sẽ phải chịu các hình thức xử 
lý thích đáng. 
Bên cạnh đó, là trách nhiệm với đời 
sống nhân dân. Quan lại phải làm cho nhân 
dân no đủ, an toàn, không để xảy ra tình 
trạng trộm cướp, vỡ đê, mất mùa do tắc 
trách trong lĩnh vực mình quản lý; phải chịu 
trách nhiệm về việc làm của cấp dưới trong 
phạm vi địa bàn phụ trách... 
Chính quyền Hậu Lê đã từng bước có 
cơ chế thực hiện việc giải thích, công khai 
những hoạt động của mình. Lê Thánh Tông 
đã từng tuyên bố: "Từ nay về sau, phàm các 
chỉ, các lệ về lớn nhỏ thì bộ phụ trách, xứ 
ty và các phủ huyện châu đều biên ra bảng 
treo dán lên, để cho nhân dân tuân theo mà 
làm"3. 
2 Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 663.
3 Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr. 667.
4 Điều 19 Chương Tạp luật, Quốc triều hình luật, NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2005. 
5 Điều 110, Chương Vi chế, Quốc triều hình luật, Sđd.
6 Lệ kiện tụng sự ức hiếp, Quốc triều khám tụng điều lệ, Lệ kiện tụng sự ức hiếp, Quốc triều khám tụng điều lệ (người 
dịch Trần Kim Anh, người hiệu đính: Nguyễn Văn Lãng) in trong sách Viện Nhà nước và Pháp luật, Một số văn bản 
pháp luật Việt Nam, Thế kỷ XV - XVIII, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994..
Nhận thức được mối quan hệ giữa 
quyền lực và tham nhũng, việc phòng chống 
tham nhũng được thường trực dự liệu và xử 
lý khá nghiêm khắc. Việc quy định nghĩa 
vụ của quan lại, các hành vi bị cấm như lợi 
dụng chức vụ, quyền hạn sách nhiễu nhân 
dân là những đảm bảo cho phòng, chống 
tham nhũng.
Triều Hậu Lê cho rằng, quyền lực mà 
quan lại có được khi thi hành công vụ là 
quyền lực công, phải được sử dụng cho mục 
đích công, nên mọi hành vi của quan lại nếu 
đi trái với tôn chỉ đó đều bị coi là bất hợp 
pháp, là một dạng của tham nhũng và đều 
bị xử lý: "Những dân phu thợ thuyền đang 
làm việc mà chủ ty, giám đương sai làm việc 
riêng thì bị xử tội biếm hay bãi chức và phải 
trả tiền công thuê nộp vào kho"4. Trong quản 
lý hành chính, những hành vi sách nhiễu, 
tham nhũng của dân bị nghiêm cấm, nếu 
vi phạm, quan lại phải bồi thường: "Những 
quan thu thuế, không theo ngạch đã định mà 
thu, lại giấu bớt số thuế thì cũng coi như tội 
giấu đồ vật công; nếu thu thêm thuế để làm 
của riêng thì tội cũng như thế, lại phải bồi 
thường gấp đôi số thuế lạm thu trả lại cho 
dân"5.
Hành vi tham nhũng còn làm biến 
dạng hiệu quả của quá trình quản trị nhà 
nước, nên trong lĩnh vực tư pháp, triều Hậu 
Lê càng chú trọng đến phòng chống và xử lý 
tham nhũng. Sự trong sạch trong hoạt động 
tư pháp đa phần tỷ lệ thuận với quyền lợi 
của những người yếu thế trong tố tụng: "Các 
nhà quyền quý thế gia ức hiếp người khác 
cho khám quan số tiền của ức hiếp, giam 
thu... thì lấy tội biếm bãi mà luận"6. Do đó, 
cần phải ngăn chặn tham nhũng ngay từ quá 
trình bắt người liên quan đến vụ kiện: "Trấn 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 12(340) T6/2017
quan nơi sai bắt, nếu có dính dáng đến việc 
yêu sách, cho người kiện kêu tại khám quan, 
cũng lấy tội phạt mà luận"7.
Trong quá trình xét xử, các khám quan 
phải đảm bảo sự liêm khiết, nếu vụ lợi sẽ bị 
xử lý nghiêm: "Nếu tụng lý đáng phạt lại cố 
thiên lệch do có sự thiên lệch về tiền tài, tình 
nghĩa, điên đảo thị phi, nhằm mục đích tham 
nhũng, tệ hại thì xét theo luật "cố ý thêm bớt 
tội" cho người mà luận hành"8.
Triều Hậu Lê có cơ chế khá tốt cho 
việc đảm bảo sự tham gia của người dân. 
Trong việc xây dựng chính quyền địa 
phương, dưới thời vua Lê Thánh Tông, 
nhân dân đã được tham gia công khai vào 
việc bầu ra xã trưởng. Trên cơ sở các tiêu 
chuẩn về chọn đặt xã trưởng năm 14969 như: 
những người già, giám sinh, sinh đồ, con em 
nhà hiền lành 30 tuổi trở lên, có tư cách đạo 
đức, biết chữ, không thuộc diện anh em thân 
thích cùng làm xã trưởng trong một xã, nhân 
dân trong xã có quyền lựa chọn bầu ra người 
thay mặt mình thực hiện các công việc 
chung của xã. Đây được xem là bước tiến bộ 
vượt bậc của cuộc cải cách hành chính thời 
Lê Thánh Tông.
Nhân dân được tham gia vào quá trình 
giám sát tổ chức và thực hiện quyền lực 
nhà nước. Trong các kỳ khảo hạch quan lại 
theo định kỳ, ý kiến của nhân dân sở tại là 
một trong những tiêu chuẩn để đánh giá về 
hiệu quả công vụ và tư cách đạo đức của các 
quan. Sự đồng thuận của nhân dân là một 
trong những đảm bảo cho quá trình tiếp tục 
thực hiện quyền lực hoặc cất nhắc lên các vị 
trí cao hơn của các quan lại; ngược lại có thể 
là căn cứ giản thải những quan chức không 
đáp ứng tiêu chuẩn.
Dưới thời vua Lê Thái Tông, nhà vua 
đã từng ban chiếu yêu cầu nhân dân, quân 
7 Lệ tróc bắt, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 289.
8 Lệ khám tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 280.
9 Viện Khoa học Xã hội, Một số văn bản pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - XVIII, tr. 242.
10 Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 580.
11 Quốc triều hình luật, Sđd, Điều 647.
12 Quốc triều hình luật, Sđd, Điều 649.
dân, quan lại góp ý với vua để vua quản lý 
cho tốt10. Nhà nước cũng có luôn những quy 
định và chế tài để đảm bảo cơ chế đánh giá, 
lấy ý kiến này được chính xác, thực chất, khi 
quy định việc xử lý hình sự đối với những 
đánh giá gian lận.
Nhân dân được yêu cầu tham gia trực 
tiếp hoặc tạo điều kiện cho pháp luật được 
thực thi trong cuộc sống, nếu họ đủ điều 
kiện trong những trường hợp cụ thể. Đó vừa 
là quyền vừa là nghĩa vụ: "Đuổi bắt tội nhân, 
sức không bắt nổi, kêu người đi đường giúp 
sức, người đi đường có thể giúp được mà 
không giúp, thì bị xử biếm một tư, thế không 
giúp được thì được miễn"11, hay "Thấy có 
người bị đánh từ bị thương què gãy trở lên, 
cùng là thấy quân trộm cướp hay kẻ cưỡng 
gian, thì những người láng giềng đều được 
bắt đem nộp quan"12.
Bước đầu hình thành một số nguyên 
tắc tiến bộ trong hoạt động tư pháp
Một trong những hạn chế lớn trong 
quản trị nhà nước thời Hậu Lê là chưa phân 
định rõ hành pháp với tư pháp (xã trưởng 
vừa quản lý hành chính vừa xử các vụ kiện 
tụng ở xã), làm cho yếu tố độc lập của tư 
pháp chưa được đảm bảo. Tuy nhiên, thực 
tiễn và pháp luật cho thấy, hoạt động tư pháp 
đã ít nhiều thể hiện tư tưởng liêm chính, 
minh bạch tư pháp. 
Tư pháp thời Hậu Lê đã hình thành 
một số nguyên tắc tố tụng hiện đại như: xét 
xử công khai nơi công đường; trong phiên 
tòa, bị can, bị cáo, người bị khiếu kiện có 
quyền trình bày vụ việc của mình khi phán 
quan xét hỏi; hoạt động tố tụng được tiến 
hành theo cấp, với nguyên tắc công bằng, 
đúng pháp luật. "Nếu xã quan xử đoán không 
hợp lẽ thì kêu lên quan huyện; quan huyện 
xử đoán không hợp lẽ thì kêu đến quan lộ; 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 12(340) T6/2017
quan lộ xử đoán không hợp lẽ thì mới đến 
kinh tâu bày"13. 
Bản án phải có “luận đoán về sự trái 
phải để các bên đều hiểu biết, không được 
lược chia trái phải, úp mở trong luận án, để 
bịt đường phúc kêu của người kiện, trái thế 
lấy tội biếm phạt mà luận”14. Bản án sau khi 
được tuyên, phải niêm yết công khai: “Luận 
bàn xong, phải treo niêm yết về luận tích 
để cho hai bên sao chép, không được bàn 
ngầm. Nếu quan khám xét dụng tình viết dôi 
năm tháng tới 2 đến 3 tháng về việc đã luận 
đoán... thì cho bên muốn phúc thẩm kêu để 
phản luận”15. 
Bước đầu đã có cơ chế đảm bảo năng 
lực tiếp cận công lý cho người dân nhằm 
thúc đẩy trách nhiệm của cơ quan tư pháp. 
Đó là những quy định hướng đến một "thời 
hạn hợp lý" khi giải quyết vụ việc tố tụng. 
Cơ quan công quyền phải công khai lịch tiếp 
dân và xử lý công việc: "Các nha môn hàng 
tháng, các ngày làm việc đều niêm yết tờ 
hiển thị vào các ngày đầu tháng để người 
kiện tụng biết, phàm có việc khiếu tố vì lý 
do giao nhận, cho vào ngày ấy trình nộp 
lên"16; "Các nha môn trong ngoài làm việc 
khám, vào tháng nào, ngày nào coi việc thì 
nên theo tháng đó yết thị để hiểu dụ và hiểu 
sức cho người trong vụ kiện theo đúng ngày 
mà đến hầu kiện"17.
Trong quá trình tố tụng, cán bộ tư pháp 
phải có trách nhiệm đảm bảo các nguyên tắc 
tố tụng từ khâu hướng dẫn làm đơn, nhận 
đơn, khám nghiệm hiện trường, tróc bắt 
người. Phán quan phải giải quyết vụ việc 
đúng thời hạn, thời hiệu, nhưng vẫn có quy 
định ngoại lệ nhằm bảo vệ cao nhất quyền 
con người, như nếu việc chậm trễ đến từ 
13 Quốc triều hình luật, Điều 672, tr. 229
14 Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 303
15 Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 303-304. 
16 Lệ về trốn tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 290
17 Lệ về khám tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 278 
18 Lệ người kiện tụng xin hoãn khám, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 290.
19 Lệ kiện tụng vay nợ, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 288.
20 Lệ về khám tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 278.
21 Lệ về soát tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ, Sđd, tr. 296-297.
phía đương sự vì các lý do chính đáng, thì có 
thể châm trước; hoặc, đôi khi, thời hạn được 
hoãn lại vì những lý do rất nhân văn, thể hiện 
tư tưởng "trọng nông" của dân tộc: "những 
vụ kiện tụng về ruộng đất vào kỳ tháng 6, 
hoãn khám để tiện cho việc nhà nông"18. Với 
việc bắt người phục vụ hoạt động tố tụng, 
nếu "như nhà có tang chưa chôn cất, mà đến 
hạn phải trả nợ, thì chủ nợ cũng nên vì việc 
đó mà thương xót không được tróc bắt hoặc 
lấy ngày hẹn ra sách hỏi để đến nỗi làm tổn 
thương việc hiếu, phải để cho chôn cất xong 
mới truy hỏi”19.
Pháp luật đã có những đảm bảo cho 
liêm chính và minh bạch tư pháp khi bước 
đầu đề cập đến sự độc lập trong xét xử của 
quan án, sự công tâm của cán bộ điều tra: 
"Quan khám xét không được phúc vấn, phải 
được lệnh quan, không được nhận riêng sự 
gửi gắm, nhờ vả", "Không được nhận riêng 
đơn kêu tố, rồi một mình làm việc tróc nã, 
bắt, không cùng chung khám xét"; "Cần để ý 
dụng tâm việc tra hỏi, cần hợp ở lý lẽ để cho 
công vụ được rõ ràng, chính xác"20.
Hậu Lê là triều đại đầu tiên đề cập tới 
việc soát tụng (kiểm tra lại việc xét xử) để 
đảm bảo hiệu quả hoạt động này: "Cứ cuối 
năm, quan phủ soát quan huyện, quan thừa 
ty soát quan phủ... quan hiến soát trấn ty, 
thừa ty; ngự sử soát đề lĩnh, phủ doãn và 
hiến ty..."; "Quan chịu trách nhiệm kiểm 
soát nhất nhất phải thẩm tra... Ngoài ra xem 
trải qua kỳ tra soát, nhất thiết các việc không 
đúng lệ cùng các tiền soát lệ, đều phải xem 
xét. Nếu nha môn nào không chịu tuân, căn 
cứ vào sự việc được phát giác, không đợi 
phải khiếu tố, tra rõ sự thực, lấy trọng tội mà 
luận"21. Mục đích là để kiểm tra hiệu quả, 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 12(340) T6/2017
chất lượng của hoạt động tố tụng, giúp nâng 
cao trách nhiệm công vụ cũng như góp phần 
làm giảm thiểu những án oan do cơ quan tố 
tụng có thể đã gây ra cho dân chúng.
Điểm đáng ghi nhận là triều Hậu Lê đã 
đưa ra một hệ các quy tắc tố tụng để cán bộ 
tư pháp chỉ được phép thực hiện trong phạm 
vi đó, không được vượt quá, và phải luôn thể 
hiện trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích chính 
đáng của con người, đặc biệt là nhóm yếu 
thế trong tố tụng; mà không phải theo tinh 
thần ngược lại, là tạo ra một hệ quy tắc để 
bảo vệ hoạt động tố tụng của nhà nước. Vấn 
đề trách nhiệm của chủ thể có thẩm quyền 
luôn được đặt trong tương quan với quyền 
lợi của các bên tham gia tố tụng. Chế tài xử 
lý vi phạm luôn được dự liệu như một đảm 
bảo cho hiệu quả và hiệu lực của hoạt động 
tư pháp. 
2. Giá trị hiện đại trong quản trị nhà nước 
triều Hậu Lê
Xét ở góc độ quản trị nhà nước, quản 
trị tốt theo quan điểm hiện đại, thì quản trị 
nhà nước triều Hậu Lê còn không ít những 
hạn chế mang tính lịch sử như: tư pháp chưa 
độc lập, chưa thực sự thể hiện tính pháp 
quyền, cơ hội cho người dân tham gia vào 
việc ra quyết định mới ở bước đầu, đặc biệt, 
chưa có yếu tố tự do ngôn luận, xây dựng 
các tổ chức xã hội dân sự... Tuy vậy, đã có 
không ít những giá trị mà quản trị nhà nước 
triều Hậu Lê mang lại. Đó là:
 Quản trị nhà nước tốt là cơ sở cho 
sự phát triển của quốc gia dân tộc 
Quá trình thực hiện quyền lực chính 
trị của triều Hậu Lê đã chứng minh cho mối 
quan hệ tất yếu giữa quản trị nhà nước với 
sự phát triển của quốc gia dân tộc. Triều Hậu 
Lê đã từng bước khắc phục những khó khăn 
nhiều mặt từ kinh tế, chính trị đến xã hội để 
đưa đất nước phát triển, trở thành một trong 
những triều đại thịnh vượng và có thời gian 
trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Việt 
Nam. Tất cả những chính sách mà pháp luật 
Hậu Lê thực hiện từ khi vua Lê Thái Tổ lên 
ngôi đều là những khía cạnh tích cực của 
công tác quản trị nhà nước như: xây dựng, 
phát triển hệ thống chính sách pháp luật, đề 
cao pháp luật, coi pháp luật là công cụ chủ 
yếu để ổn định và phát triển xã hội, đề cao 
việc quản lý xã hội bằng pháp luật; chính 
sách xây dựng cơ chế quản trị mới với nguồn 
tài nguyên đất đai; chính sách cải cách toàn 
diện và mạnh mẽ bộ máy nhà nước nhằm 
làm cho bộ máy nhà nước được tổ chức khoa 
học, hoạt động hiệu quả hơn.
Triều Hậu Lê đã từng bước thực hiện 
hữu hiệu các chính sách quản trị nhà nước 
của mình, từng bước chứng minh tính đúng 
đắn trong quá trình phát triển đất nước, 
chứng minh đó là một lựa chọn tất yếu sau 
khi giành lại được chính quyền từ tay nhà 
Minh, là con đường duy nhất để Nhà nước 
vững mạnh, xã hội phát triển.
Mục tiêu cao nhất của quản trị nhà 
nước là sự thịnh vượng, an toàn của nhân 
dân, bảo đảm các quyền con người 
Trong quá trình quản trị nhà nước triều 
Hậu Lê, ở mỗi khía cạnh của quá trình quản 
trị nhà nước, mục tiêu cao nhất vẫn là phải 
bảo vệ được các quyền con người, những lợi 
ích cơ bản của nhân dân. Từ chính sách quân 
điền, việc tổ chức, hạn chế quyền lực nhà 
nước, xây dựng môi trường tư pháp minh 
bạch, liêm chính, đảm bảo sự tham gia của 
người dân vào việc giám sát và xây dựng 
chính quyền đều phải xuất phát từ mục tiêu 
vị con người. Mục tiêu đó của nhà Hậu Lê 
cũng chính là phương thức hoạt động, thực 
hiện quyền lực chính trị, đã làm cho nhà Hậu 
Lê có sự khác biệt với các triều đại khác. Ví 
như nhà Hồ, các chính sách hạn điền, hạn 
nô nhà Hồ ban đầu đều là nhằm hạn chế các 
thế lực nhà Trần, sau đó là khôi phục lại sự 
vững mạnh của nhà nước trung ương tập 
quyền, tuy nhiên, kết quả thực chất mang lại 
là quyền lợi chủ yếu tập trung vào tay các 
tôn thất, quý tộc nhà Hồ. Điều này đã làm 
cho nhà Hồ thất bại trong cuộc chiến chống 
quân Minh khi "lòng dân không thuận". Nhà 
Lý, Trần, mặc dù đề cao tinh thần đoàn kết 
dân tộc, củng cố sự đồng sức đồng lòng để 
bảo vệ độc lập dân tộc, phát triển đất nước, 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 12(340) T6/2017
nhưng về cuối, các chính sách cai trị của 
những triều đại này đều chưa đáp ứng được 
các nhu cầu của nhân dân, chưa lấy quyền lợi 
của nhân dân, các quyền con người làm tôn 
chỉ hành động, nên về cuối đã để xảy ra tình 
trạng kiêm tinh ruộng đất, điền trang thái ấp 
phát triển mạnh, chế độ bóc lột nô tỳ, nông 
nô gia tăng, đời sống nhân dân chật vật, các 
triều Hậu Lý, Trần bị nhân dân chán ghét...
Triều Hậu Lê, đặc biệt là giai đoạn Lê 
sơ, đã nhận thức được sâu sắc cội nguồn của 
quyền lực chính trị, nhận thức được mục 
tiêu của việc thực hiện quyền lực chính trị 
không chỉ để phục vụ các mục tiêu chính trị, 
mà phải là để phục vụ cuộc sống, phải đáp 
ứng được những nguyện vọng chính đáng 
của nhân dân, các lợi ích cơ bản của họ.
Vai trò và trách nhiệm chủ đạo trong 
quản trị nhà nước thuộc về Nhà nước, đội 
ngũ công chức thực thi công vụ 
Hậu Lê là một trong những triều đại 
thấm nhuần nhận thức về trọng trách của 
Nhà nước đối với nhân dân, với xã hội và 
về vận mệnh của quốc gia dân tộc. Trong 
quá trình thực thi quyền lực chính trị 
của mình, triều Hậu Lê luôn có cơ chế để 
khuyến khích, nâng cao trách nhiệm công vụ 
của đội ngũ quan lại, công chức thừa hành; 
cũng luôn có các biện pháp để hạn chế lạm 
quyền, nâng cao cơ chế giám sát lẫn nhau 
giữa các cơ quan nhà nước nhằm tăng cường 
hiệu quả hoạt động công quyền. Cách thức 
để kiềm giữ sự lạm quyền và nâng cao hiệu 
quả hoạt động là luôn có cơ chế gắn trách 
nhiệm chính trị, trách nhiệm công vụ với 
trách nhiệm pháp lý. Điều này thể hiện qua 
hầu hết các quy định pháp luật liên quan, 
đều được thiết kế có kèm theo trách nhiệm 
pháp lý để dự liệu các vi phạm có thể xảy ra 
của các chủ thể có thẩm quyền. 
Đó cũng chính là biểu hiện của việc 
nhận thức sâu sắc mối quan hệ giữa nắm 
quyền lực và lợi dụng quyền lực, mối tương 
quan giữa chất lượng quản trị nhà nước với 
quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Bởi 
người dân, nhất là ở giai đoạn phong kiến, 
họ vẫn ở vị trí "thần dân", mà chưa thật sự 
được ở địa vị của công dân như hiện nay, 
nhận thức còn hạn chế, theo đó mà quyền 
lợi của họ bị xâm hại. Nên các thành tố của 
quản trị như sự tham gia của người dân, hay 
trách nhiệm giải trình, về cơ bản cũng chỉ có 
thể thành hiện thực khi được đảm bảo bởi 
Nhà nước, bằng các cách thức và cơ chế cụ 
thể của Nhà nước.
Chất lượng quản trị chịu ảnh hưởng 
không nhỏ từ yếu tố cá nhân người đứng 
đầu
Cá nhân người đứng đầu nhà nước và 
theo đó là đứng đầu các cơ quan nhà nước 
là yếu tố mang tính chất quyết định. Các 
quyết sách và đường lối cai trị của những 
người đứng đầu nhà nước chính là tôn chỉ 
hành động của Nhà nước, cũng chính là mục 
tiêu của quá trình quản trị. Lịch sử đã chứng 
minh, những vị vua mẫn cán, thương dân 
thường là những vị vua có chính sách quản 
trị tốt, được nhân dân tin yêu, hiệu quả quản 
trị thể hiện ở sự vững mạnh của bộ máy nhà 
nước, sự bền vững của triều đại, sự ấm no 
của dân chúng... Triều Hậu Lê đã có những 
vị vua xuất chúng như Lê Thái Tổ, Lê Thánh 
Tông, là những vị vua "lo cái lo trước thiên 
hạ và vui cái vui sau thiên hạ". Triều Hậu Lê 
thịnh trị cũng nhờ những vị vua đã đặt nền 
tảng và có những cải cách mạnh mẽ như hai 
vị vua này. Ngược lại, những vị vua như Lê 
Tương Dực, Lê Uy Mục chỉ chăm lo hưởng 
thụ, thích giết chóc, thị uy, không chăm lo 
đến đời sống nhân dân, đã sớm mang lại 
họa suy vong cho nước nhà, bị nhân dân 
oán thán, căm ghét. Tư cách, phẩm hạnh, 
tài năng của người đứng đầu nhà nước sẽ 
như một quy định bất thành văn, ảnh hưởng 
mạnh mẽ đến đội ngũ quan lại, công chức 
thừa hành công vụ.
Do đó, triều Hậu Lê đã rất coi trọng và 
cũng đòi hỏi rất cao đối với vị trí của người 
đứng đầu, người chịu trách nhiệm trong các 
hoạt động quản trị. Các cách thức quy định 
trách nhiệm công vụ cũng như dự liệu về 
trách nhiệm pháp lý của quan lại đã thể hiện 
sâu sắc nhận thức này
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 12(340) T6/2017
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhung_gia_tri_trong_quan_tri_nha_nuoc_trieu_hau_le.pdf