Những giải pháp cơ bản đẩy nhanh quá trình phát triển các công ty cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Những giải pháp cơ bản đẩy nhanh quá trình phát triển các công ty cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay Phần mở đầu Phần nội dung Chương1:Những vấn đề cơ bản về công ty cổ phần 1.Quá trình hình thành và lịch sử phát triển công ty cổ phần. 1.1. Công ty cổ phần: 1.2. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành công ty cổ phần và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế thế giới: 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của hình thái công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc dân. Chương 2: Thực trạng các công ty cổ phần và tình hình cổ phần hoá doanh ngiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay 1. Vai trò của các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị tường có sự quản lí của nhà nước: 2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,nội dung và ý nghĩa thực tiễn. 2.1 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,thực chất và những mục tiêu cần vươn tới. 2.2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,giải pháp chiến lược để đổi mới khu vực kinh tế nhà nước.Con đường liên kết,hội nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh. 3.Thành công và nhũng tồn tại của các công ty cổ phần ở Việt Nam trong thời gian qua. 3.1.Những thành tựu: 3.2.Hạn chế: 4.Nguyên nhân những hạn chế trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 4.1.Về phía khách quan: 4.2.Về phía chủ quan: Chương 3. Phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình phát triển các công ty cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. 1.Phướng hướng tiếp tục thực hiện việc hình thành và phát triển công ty cổ phần thông qua cổ phần hoá. 2.Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của công ty cổ phần. Phần kết luận Tài liệu tham khảo:

doc34 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1863 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những giải pháp cơ bản đẩy nhanh quá trình phát triển các công ty cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản sang sở hữu xã hội về tài sản trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản. Công ty cổ phần là loại hình tổ chức hay công ty mà vốn của nó do nhiều cổ đông(thành viên của công ty cổ phần) góp lại thông qua việc mua cổ phiếu do công ty phát hành.Theo luật thương mại của Anh thì có hai loại công ty cổ phần: *Công ty công cộng(Publich company),loại công ty mà cổ phiếu của nó được mua bán, trao đổi trên thị trường chứng khoán.Loại công ty này tương đương với công ty vô danh ở Pháp(Societé à répónsabilité). *Công ty riêng,tương đương với công ty trách nhiệm hữu hạn của Pháp. Từ nhiều thập kỷ qua,trên thế giới xuất hiện một hiện tượng mới,hiện tượng tư nhân hoá doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước cả trong các nước tư bản phát triển lẫn một số nước xã hội chủ nghĩa khi chuyển đổi nền kinh tế.Song song với hiện tượng” tư nhân hoá ‘,có hiện tượng “cổ phần hoá”.Việc xuất hiện hai hiện tượng trên là có sự nhận thức khác nhau giữa tư nhân hoá và cổ phần hoá.Các nước tư bản chủ nghĩa đã đồng nhất hai hiện tượng trên là một,trong khi các nước xã hội chủ nghĩa kể cả Việt Nam cho rằng không nên đồng nhất hai khái niệm đó. Lịch sử cho thấy có ba con đường hình thành công ty cổ phần đó là: Hình thành theo con đường truyền thống.Điều đó có nghĩa việc hình thành đi từ công ty một chủ sang công ty nhiều chủ từ thấp đến cao theo trật tự tự nhiên. Hình thành do liên doanh liên kết giữa nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. 1.2. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành công ty cổ phần và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế thế giới: Nền kinh tế thế giới,đặc biệt là kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển rất nhanh vào những năm cuối của thế kỷ 19 và những thập niên đầu tiên của thế kỷ 20.Có thể nói sau những thành công của hai cuộc cách mạng công nghiệp,với những nhận thức mới về cơ chế quản lý kinh tế,về cơ cấu và các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà gần như toàn bộ nền kinh tề đã khắc phục được những khó khăn, hạn chế từng ảnh hưởng một cách tiêu cực đến kinh tế thế giới.Với hình thái công ty cổ phần,lần đầu tiên trong lịch sử kinh tế thế giới đã khắc phục được những tồn tại từng gây biết bao khó khăn cho mình;đó là tình trạng các công ty thiếu vốn để đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh,nguồn vốn có được chủ yếu từ khu vực kinh tế nhà nước do vậy luôn tồn tại sự buông lỏng quản lý trong doanh nghiệp;không có động lực trong chiến lược sản xuất,tư liệu bị phân tán;những nguồn lực bị xé lẻ trong dân... Hình thái công ty cổ phần ra đời đánh dấu sự tiến hoá của chế độ tín dụng từ kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mựơn qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính trong đó chủ yếu là thị trường chứng khoán.Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trường chứng khoán.Đổi lại,sự thịnh vượng của thị trường này tạo điều kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở.Có thể nói công ty cổ phần ra đời mang những đặc điểm mới cho phép nó thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường hiện đại mà những hình thái khác không thể đáp ứng được.Đó là: Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của mình.Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Cơ cấu tổ chức trong công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách biệt quyền sở hữu và quyền kinh doanh,tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần còn bên kia là đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho những công cuộc kinh doanh quy mô lớn. Các cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán,vì thế bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần cuộc sống của các doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thường mà không bị ảnh hưởng.Đồng thời nhờ cơ chế này nó đã tạo nên sự di chuyển linh hoạt các luồng vốn trong xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của các công ty và công chúng. Có thể nói những ưu thế được mang lại từ việc hình thành và hoạt động của công ty cổ phần là vô cùng to lớn nó đã khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của các doanh nghiệp,xoá bỏ tình trạng vô chủ trong các công ty.Mặc dù chủ trương trao quyền tự quản cho các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng nó mới chỉ đẩy lùi được chế độ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp còn về mặt nhận thức thì tài sản của doanh nghiệp nhà nước vẫn là tài sản chung cho nên tình trạng vô trách nhiệm,lãng phí của công vẫn không được khắc phục.Khi xuất hiện công ty cổ phần thì mặc nhiên những điều này sẽ không tồn tại. Hơn nữa,công ty cổ phần huy động được nguồn vốn trong xã hội cung cấp cho hoạt động kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp.Một mặt vừa góp phần tháo gỡ khó khăn cho ngân sách nhà nước (không phải chu cấp cho doanh nghiệp) mặt khác vốn và tài sản doanh nghiệp nhà nước nhờ quá trình cổ phần hoá thu lại sẽ được đầu tư mở rộng sản xuất;tăng thêm tài sản cố định góp phần to lớn thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Ngoài ra,hình thái công ty cổ phần xuất hiện sẽ thay đổi cung cách quản lý trong mỗi doanh nghiệp,ở công ty cổ phần quyền lợi của những người chủ mới của doanh nghiệp gắn chặt với sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh vì thế họ rất đoàn kết,gắn bó và thống nhất trong việc tìm kiếm và đưa ra phương hướng hoạt động phù hợp nhất của doanh ngiệp nhằm củng cố,tăng cường sức cạnh tranh của sản phẩm do họ sản xuất ra,quan tâm đến công việc công ty và lao động với tinh thần trách nhiệm cao. 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của hình thái công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc dân. Về mặt lý thuyết,chúng ta đều nhận thấy rằng hình thái doanh nghiệp dưới dạng công ty cổ phần là sản phẩm của một quá trình tiến hoá lâu dài,gắn liền với những nấc thang phát triển của xã hội hoá sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Về mặt lịch sử,có thể thấy rằngquá trình tiến hoá và phát triển của các hình thái doanh nghiệp được đạc trưng bởi ba loại hình chủ yếu tương ứng với ba mức độ phát triểncủa xã hội hoá sở hữu tư nhân mặc dù biểu hiện của chúng hết sức linh hoạt và đa dạng. Hình thái kinh doanh một chủ,một hình thái bao gồm các loại hình doanh nghiệp trong đó người chủ sở hữu tư nhân độc lập duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình trên cơ sở lao động của bản thân hoặc thuê mướn người khác với vốn liếng sẵn có và tính toán của anh ta trên cơ sở những đòi hỏi của thị trường.Đây là hình thái phổ biến thống trị trong nền sản xuất hàng hoá nhỏ và trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.Phương pháp kinh doanh này bao gồm hai cách thức:kinh doanh theo phương thức sản xuất hàng hoá nhỏ và kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa.Giữa chúng tuy có sự khác nhau về mục đích và đặc điểm kinh doanh nhưng lại là sự kế tiếp tất yếu của cùng một quá trình phát triển dựa trên sở hữu tư nhân.Nếu như quá trình xã hội hoá nhờ hai tác nhân chủ yếu là trao đổi và tín dụng thì về mặt lịch sử,chính nhờ sự trợ giúp của tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay nặng lãi mà hình thái kinh doanh một chủ đã có sự chuyển biến về chất.Từ phương thức kinh doanh xé lẻ ruộng đất và phân tán tư liệu sản xuất trong tay những người tư hữu nhỏ sang phương thức kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa bằng quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất,tư liệu sản xuất trong tay một số ít người.Cùng với sự phát triển của thị trường thế giới,quy mô buôn bán và sản xuất đòi hỏi phải tập trung tư bản ngày càng lớn.Để có thể đứng vững trong cạnh tranh và đáp ứng được những nhu cầu của thị trường các hình thức kinh doanh chumg vốn lần lượt ra đời và phát triển. Hình thái kinh doanh chung vốn xét về mặt lịch sử là một bước tiến hoá trong chế dụng tín dụng,chuyển từ phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn sang phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn góp.Nó được xem như là hình thái trung gian để hình thành công ty cổ phần sau này.Trong lịch sử từng tồn tại hai mô hình kinh doanh thuộc hình thái này đó là: Hình thái kinh doanh hợp tác xã của những người sản xuất hàng hoá nhỏ nhằm chống lại sự tan rã và phá sản của họ trước phương thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Hình thái công ty chung vốn của các nhà tư bản với ba hình thức phổ biến:Công ty dân sự; công ty hợp danh và công ty hợp tư đơn giản. Trách nhiệm vô hạn và sự ràng buộc lỏng lẻo về mặt pháp lý là những bất lợi làm cho hình thái công ty chung vốn chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn nhường chỗ cho công ty cổ phần ra đời và phát triển.Những hạn chế đó đã làm cho hình thức này ngày nay có xu hướng thu về những ngành kinh doanh nhỏ trong nông nghiệp,dịch vụ bán lẻ,đại lý cho các hãng...và thường là các nhóm có tính chất gia đình.Qua đó,có thể thấy rằng hình thái công ty cổ phần bằng những ưu thế của mình tất yếu sẽ ra đời và thống trị kinh tế thế giới. Trong tác phẩm “ Tuyên ngôn của nhà tư bản”, hai tác giả L.Kenđơ và M.Atlơ cho rằng:ngày nay các công ty cổ phần đã tồn tại một cách hết sức phổ biến ở Mỹ và các nước tư bản phát triển;mô hình công ty cổ phần với ưu điểm lớn nhất của nó là mọi công nhân đều có cổ phần kinh tế phát triển đến đỉnh cao.Hình thái công ty cổ phần chuyển từ cơ cấu một chủ là chính sang giai đoạn đa dạng hoá chủ sở hữu cổ phần với những công ty có hàng trăm nghìn thậm chí hằng triệu cổ đông bao gồm các nhà tư bản lớn,công nhân và viên chức.Đi đôi với quá trình xã hội hoá sản xuất,trên thực tế nội bộ công ty cổ phần cũng diễn ra hai quá trình:quyền sở hữu cổ phần phân tán cao độ và giá trị cổ phần tập trung cao độ.kết quả của hai quá trình đó là việc đông đảo chủ sở hữu cổ phần giá trị nhỏ,tức là những cổ đông nhỏ vứt bỏ quyền tham gia quyết định tại đại hội cổ đông.Hàng trăm nghìn,hàng triệu cổ đông nhỏ chỉ tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán ,họ không gắn bó cố định với một công ty cổ phần nàc và qua đó những nhà tư bản lớn có thể sử dụng một số vốn tương đối nhỏ,chỉ sở hữu một lượng cổ phần tương đối ít nhưng có thể chi phối một giá trị cổ phần rất lớn đơn cử:Hãng dầu mỏ lớn nhất thế giới etson do năm cổ đông nắm quyền chi phối nhưng năm cổ đông này cũng chỉ chiếm 4,8% cổ phần của hãng.Như vậy,số lượng cổ đông lớn rất ít nhưng đã tập trung trong tay mình quyền chi phối hàng loạt công ty cổ phần loại lớn.Rõ ràng là tại các nước tư bản phát triển các công ty cổ phần là mô hình kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao mà không làm suy yếu quan hệ chiếm hữu tư nhân của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.Công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho tư bản ngày càng tập trung,vai trò chi phối và thống trị của nhà tư bản ngày càng tăng cường.Đến đây đặt ra một vấn đề cần giải quyết là mô hình công ty cổ phần có phù hợp với công cuộc cải cách kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa đăc biệt là ở nước ta trong giai đoạn hiện nay hay không? Chương 2: Thực trạng các công ty cổ phần và tình hình cổ phần hoá doanh ngiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay 1. Vai trò của các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị tường có sự quản lí của nhà nước: Công ty cổ phần hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến trong nền kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế , góp phần hoàn thiện cơ chế thị thường có sự quản lí của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường,công ty cổ phần tạo ra các công cụ để có thể huy động vốn với quy mô lớn và hiệu qủa cao.nhờ phát hành cổ phiếu và trái phiếu,công ty cổ phần có thể huy động được những nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn rỗi nằm tản mạn trong xã hội để đầu tư vào những công trình đòi hỏi những nguồn vốn lớn và dài hạn mà từng cá nhân hoặc từng doanh nghiệp không có khả năng tích luỹ được như đầu tư xây dựng đường sắt,xây dựng những xí nghiệp công nghiệp sử dụng công nghệ cao...trong nền kinh tế nước ta hiện nay thiếu vốn đang là trở ngại lớn nhất cho sự phát triển.Huy động vốn trong dân vừa là giải pháp cấp bách vừa là giải pháp cơ bản trong chiến lược tạo vốn của từng doanh nghiệp. Hình thức huy động vốn hiện nay ở nước ta còn nghèo nàn (với hai hình thức chủ yếu là hệ thống quỹ tiết kiệm và tín phiếu kho bạc nhà nước),và so với hình thức huy động vốn qua công ty cổ phần thì những hình thức đó còn mang nhiều nhược điểm đói với cả người gửi và người đi vay: Thứ nhất nếu huy động vốn qua hệ thống tiết kiệm,tín dụng thì lãi suất và chi phí cao gây khó khăn cho người sử dụng vốn vì phải thông qua nhiều khâu,chi phí nghiệp vụ và lợi tức tăng lên.Huy động vốn qua công ty sẽ giảm được mọi chi phí không cần thiết do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng vốn cũng như bảo vệ quyền lợi người có vốn. Thứ hai gửi tiền vào quỹ tiết kiệm tuy có được một lãi suất ổn định,hạn chế phần nào rủi ro nhưng ngừi có vốn hoàn toàn mất khả năng chi phối việc sử dụmg vốn cũng như không được hưởng những may mắn của việc sử dụng đồng vốn đó.Sử dụng vốn mua cổ phiếu mặc dù phải chịu sự rủi ro ở một mức độ nhất định nhưng họ cũng sẽ được hưởng những may mắn mà trong thương trường lúc nào cũng có.Hơn nữa,mua cổ phần tuy được giải phóng khỏi nhiệm vụ quản lý và sử dụng vốn nhưng các cổ đông vẫn có quyền lực trong đại hội cổ đông,và một khi điều kiện và khả năng cho phép họ có thể đựoc bầu vào cơ quan lãnh đạo công ty.Chính vì những lợi ích ấy mà việc mua cổ phần hấp dẫn hơn gửi tiền tiết kiệm.Tất nhiên cũng cần phải thấy rằng để những điều đó trở thành hiện thực còn phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác liên quan đến việc làm cho công ty cổ phần có một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân. Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro nhằm hạn chế những tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng. Rủi ro trong kinh doanh là có thể xảy ra tuy không phải là một tất yếu đối với mọi doanh nghiệp song cũng là lẽ tự nhiên trong thương trường. Khắc phục rủi ro bằng sự thận trọng là điều cần thiết song không phải là cách duy nhất bởi vì mức độ rủi ro lại thường tỉ lệ thuận với triển vọng thu lợi nhuận.Vì vậy trong kinh doanh muốn thu lợi nhuận cao đôi khi phải mạo hiểm.Chấp nhận rủi ro là một phẩm chất cần có của một nhà kinh doanh nhưng chấp nhận mạo hiểm không phải là liều lĩnh theo kiểu”được ăn cả ngã về không”,chấp nhận mạo hiểm nhưng vẫn cần có cơ chế hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực và sự thiệt hại của rủi ro có thể dẫn đến phá sản.Công ty cổ phần là một cơ chế như vậy. Chế độ trách nhiệm hữu hạn (phân biệt rõ ràng tài sản công ty và tài sản cá nhân người có vốn góp,trách nhiệm tài chính giới hạn trong phạm vi tài sản cũng như phần góp vốn của mỗi người) đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của sự rủi ro,thua lỗ.Trong kinh doanh trường hợp tồi tệ nhất là phá sản nhưng với những hình thức kinh doanh khác nhau tác hại của phá sản cũng không giống nhau.Đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn do đó trong trường hợp phá sản phải sử dụng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán nợ nần. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn tuy chỉ giới hạn trong tài sản của công ty và số vốn góp của mọi người nhưng do chỉ được sử dụng nguồn vốn góp của các thành viên mà không được phát hành bất kỳ một loại tín phiếu nào nên khi bị phá sản mọi thành viên thường phải chịu những thiệt hai nặng nề.Công ty cổ phần được phát hành cổ phiếu và trái phiếu một cách rộng rãi,do đó sự thiệt hại của mỗi người không lớn lắm (tất nhiên không loại trừ những người mua cổ phần với số lượng lớn).Nhờ cơ chế này mà khi phá sản hậu quả tiêu cực về mặt kinh tế xã hội được hạn chế ở mức thấp nhất Đối với công ty cổ phần , người mua cổ phần không được quyền rút vốn chỉ có quyền sở hữu các cổ phiếu và được phép mua bán chuyển nhượng. Như vậylợi ích của các cổ đông gắn chặt với hoạt động của công ty cổ phần.Tuy nhiên do các công ty có thể được chuyển nhượng và mua bán nên các cổ đông khi cần vẫn có thể thu hồi vốn với những mức độ khác nhau và chuyện mạo hiểm rủi ro cũng như sự may mắn sẽ được chuyển cho cổ đông mới. Do đó công ty sẽ không bị rút vốn mà vẫn giữ được tích luỹ liên tục trong qúa trình kinh doanh. Trong hình thức công ty cổ phần, người đầu tư lớn có thể mua cổ phiếu, trái phiếu ở nhiều công ty khác nhau,nhiều ngành khác nhau do đó sự rủi ro và mạo hiểm của đầu tư được phân tán vào nhiều ngành,nhiều lĩnh vực,làm giảm bớt tổn thất cho người đầu tư hơn là tập trung vào một công ty khi công ty đó bị phá sản.Thực ra rủi ro,sự mạo hiểm và lợi ích xã hội là hai đại lượng có quan hệ với nhau:mức độ rủi ro,mạo hiểm ít thì thông thường lợi ích của người đầu tư cũng thấp.Chính cơ chế phân bố rủi ro này tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn đầu tư,làm cho nền kinh tế phát triển và có xu hướng ổn định hơn . Việc ra đời các công ty với việc phát hành các loại chứng khoán cùng với việc chuyển nhượng,mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường chứng khoán-trái tim của thị trường vốn. ý nghĩa căn bản của việc ra đời thị trường chứng khoán là ở chỗ:đó là nơi các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được các nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh;là nơi khai thông các nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư;là cơ chế phân bổ các nguồn vốn đầu tư phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và là cơ sở quan trọng để nhà nước thông qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt những mục tiêu lựa chọn.Thiếu thị trường chứng khoán sẽ không có một nền kinh tế thị trường phát triển.Song sự ra đời của thị trường chứng khoán không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan mà là kết quả của sự phát triển chung về kinh tế xã hội ,trong đó sự ra đời,phát triển và hoạt động một cách hoàn hảo của các công ty cổ phần giữ vai trò quyết định. Công ty cổ phần bảo đảm sự tham gia đông đảo của công chúng,lại có cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ,phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh nên đã tạo điều kiện cho người lao động tham gia quản lý công ty một cách thực sự,sử dụng được những giám đốc tài năng (giám đốc thực sự là một nghề chứ không phải là một quan chức) đảm bảo được quyền lợi,lợi ích và trách nhiệm của chủ sở hữu,đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội,thực hiện nguyên tắc “ai giỏi nghề gì làm nghề đó”. Với công ty cổ phần,những người không thạo kinh doanh có thể yên tâm làm việc chuyên môn của mình vì đồng vốn của họ dù ít dù nhiều vẫn có khả năng sinh lời do đã được các nhà kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng.Như vậy công ty cổ phần đã loại trừ được tình trạng bất hợp lý hiện nay là trong khi các đơn vị sản xuất kinh doanh có khả năng sử dụng vốn một cách có hiệu quả cao,đem lại lợi ích cho cả người có vốn,người sử dụng vốn và xã hội lại không đủ vốn để hoạt động,thì các tầng lớp nhân dân làm việc ở các lĩnh vực khác,mỗi người có chút ít vốn lại phải loay hoay đánh vật với thị trường để kiếm từng đồng lợi nhuận ít ỏi,công việc chuyên môn của mình vốn là nghề chính,có nhiều năng lực lại không được đầu tư thích đáng về tâm sức.Chắc chắn rằng,cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,sự ra đời của các công ty cổ phần sẽ dần dần loại bỏ tình trạng “cả nước đi buôn”, “nhà nhà đổ ra mặt đường”,cơ quan,công sở đục tường,phá rào lập ki-ốt để buôn bán lặt vặt.Tình trạng đó không những gây nên lộn xộn trong nền kinh tế,mà còn làm cho một nguồn vốn lớn bị sử dụng lãng phí và tệ hại hơn là làm rối loạn hệ thống phân công lao động xã hội vì mọi người không được đặt ở vị trí thích hợp của mình để có thể phát huy hết tài năng sáng tạo vốn có.Có thể nói với những ưu thế được mang lại từ việc ra đời và phát triển hình thái công ty cổ phần thì việc mở rộng và phát triển mô hình công ty cổ phần ở nước ta là một sự tất yếu và một trong những biện pháp để nhân rộng mô hình này là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,nội dung và ý nghĩa thực tiễn. 2.1 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,thực chất và những mục tiêu cần vươn tới. Trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta,đổi mới khu vực kinh tế nhà nước có một ý nghĩa quyết định.Một trong những giải pháp cơ bản nhằm tổ chức lại và đổi mới doanh nghiệp nhà nước là cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần đầu tư 100% vốn.Thực hiện chủ trương đó ngày 8/6/1992 chủ tịch hội đồng bộ trưởng nay là thủ tướng chính phủ đã ra quyết định 202/HĐBT “về việc tiếp tục làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần”.Tuy nhiên,tình hình triển khai rất chậm,cán bộ công nhân các doanh nghiệp chưa thực sự hưởng ứng.Một trong những nguyên nhân là do nhận thức về bản chất,mục tiêu và phương pháp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn khác nhau nên sinh ra phân vân,chần chừ,do dự.Vậy thực chất của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước như thế nào? Về vấn đề này,hiện nay có hai loại ý kiến khác nhau.ý kiến thứ nhất cho rằng thực chất cổ phần hoá là tư nhân hoá,loại thứ hai thì cho đó là quá trình xã hội hoá doanh nghiệp nhà nước. Về loại ý kiến thứ nhất:nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kỳ khác nhau nhưng nguyên nhân thường là: Do thay đổi chế độ chính trị xã hội (như các nước xã hội chủ nghĩa Đông âu và Liên Xô cũ) dẫn đến sự thay đổi chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất-từ công hữu chuyển sang tư hữu-vì thế thực chất việc cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận của chủ chương tư nhân hoá nền kinh tế Do khủng hoảng,lạm phát,ngân sách thâm hụt phải cổ phần hoá doanh nghiệp để thu hồi vốn cho nhà nước,giảm phần nào gánh nặng cho nền kinh tế. Do khó quản lí bởi doanh nghiệp nhà nước là sở hữu công cộng và hiệu quả kinh doanh thấp. Để thu hút vốn đầu tư,tranh thủ công nghệ và phương pháp quản lí tiên tiến từ các nguồn trong và ngoài nước nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất nâng cao chất lượng hàng hoá,tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường. Chính vì thực tiễn đó mà các học giả nước ngoài khi xem xét vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn-quá trình tư nhân hoá.Có hai cách hiểu tư nhân hoá theo nghĩa rộng và tư nhân hoá theo nghĩa hẹp.Liên hợp quốc có đưa ra định nghĩa về tư nhân hoá : “tư nhân hoá là sự biến đổi tương quan giữa nhà nước và thị trường”. Theo cách hiểu này thì toàn bộ những chính sách,luật lệ,thể chế nhằm khuyến khích mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh,giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở và dành cho thị trường một vai trò điều tiết đáng kể.Còn tư nhân hoá theo nghĩa hẹp dùng để chỉ quá trình giảm bớt quyền sở hũu của nhà nước hoặc sự kiểm soát của Chính Phủ đối với các xí nghiệp.Việc đó có thể thông qua nhiều biện pháp và phương thức khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là cổ phần hoá. ở nước ta chủ trương cổ phần hoá một số doanh ngiệp nhà nước lại xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay:”Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.Chúng ta đang bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lí cho phù hợp với đường lối ấy,đây là sự chuyển hướng chiến lược kinh tế xã hội của nước ta và đó cũng là đặc điểm lớn nhất chi phối,quyết định nội dung và phương thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.Vì vậy cần nhận thức rằng:thực chất cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta (khác hẳn với cổ phần hoá mà các nước trên thế giới đã tiến hành) là nhằm cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước cho hợp lí và hiệu quả còn việc chuyển đổi sở hữu của nhà nước thành sở hữu của các cổ đông trong các công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiện để thực hiện mục đích ấy. Điều quan trọng là do chưa phân biệt rõ ràng giữa mục đích của cổ phần hoá và phương tiện để đạt mục đích ấy nên nhiều người vẫn cồn phân vân vì cho rằng chuyển doanh nghiệp nhf nước thành công ty cổ phần là thu hẹp chế độ công hữu,thu hẹp quốc doanh,làm suy yếu chủ nghĩa xã hội.Để thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,chúng ta tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển khuyến khích tư nhân mua cổ phiếu nhưng điều đó không có nghĩa coi kinh tế tư nhân là mục đích của công nghiệp hoá. Về loại ý kiến thứ hai:Chúng ta vẫn hiểu xã hội hoá tư liệu sản xuất thực chất là công hữu hoá tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu tư nhân và sở hữu tập thể còn cổ phần hoá (như đã nói ở trên) là việc chuyển từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ cùng sở hữu nhưng không phải là xã hội hoá tư liệu sản xuất bởi vì: Trong các doanh nghiệp nhà nước (sở hữu toàn dân) và các hợp tác xã(sở hữu tập thể),kết quả thu được sau quá trình sản xuất kinh doanh(sau khi đã trừ đi phần chi phí,thuế và tích luỹ) được phân phối theo lao động. Còn các công ty cổ phần (đó là sở hữu hỗn hợp) mỗi người chủ dựa vào cổ phần nhiều ít của mình để ăn chia hưởng lợi và chịu trách nhiệm trước những rủi ro (do hoạt động của công ty đưa lại) trong phạm vi cổ phần mà họ đóng góp,ở đây tồn tại chế độ phương pháp lợi nhuận theo lượng vốn góp. Trong công ty cổ phần,hình thành sở hữu hỗn hợp nghĩa là đồng sỡ hữu chứ không xuất hiện khái niệm sở hữu tập thể,còn đối với doanh nghiệp nhà nước chỉ có nhà nước là chủ sở hữu duy nhất (hình thức xã hội hoá cao nhất) nhưng khi thực hiện cổ phần hoá thì thực chất là nhà nước nhường lại toàn bộ hoặc một phần quyền sỡ hữu của mình cho nhiều người bỏ vốn cùng sỡ hữu.Từ sự phân tích trên có thể cho rằng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và xã hội hoá doanh nghiệp nhà nướclà hai phạm trù không thể đồng nhất. Theo “đề án chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần” ban hành kèm theo nghị định 202-CT nói trên thì cổ phần hoá phải đạt ba mục tiêu: Chuyển một phần sở hữu sang sở hữu hỗn hợp-thực chất là chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước toàn phần trong doanh nghiệp thành hình thái kinh doanh công ty cổ phần hoá:nhà nước,tư nhân hoặc công ty cổ phần tư nhân. Mục tiêu này xuất phát từ yêu cầu,đòi hỏi của nền kinh tế thị trường phải tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau.Nó cũng xuất phát từ yêu cầu của một nền kinh tế quá độ không quốc doanh hoá tràn lan mà chỉ duy trì các doanh nghiệp nhà nước (100% vốn) trên các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.Khi chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần và xoá bỏ cấp chủ quản dưới mọi hình thức,việc xác lập quyền tự chủ kinh doanh,tách quyền quản lí nhà nước và quyền quản lí kinh doanh là đương nhiên thực hiện được.Và cũng chính điều này mang lại một khả năng mới cho việc xác lập bộ máy quản lí và bổ nhiệm người vào các chức vụ quản lí kinh doanh.Nhờ vậy mà nâng cao hiệu qủa sản suất kinh doanh của công ty. Mục tiêu thứ hai là huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cải tiến công nghệ phục vụ cho quyết tâm nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Sự thay đổi cơ cấu sở hữu trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đồng nghĩa với việc thu hút các nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội vào doanh nghiệp.Đây là mục tiêu cần thiết tuy nhiên việc thực hiện ở nước ta còn gặp rất nhiều khó khăn và cản trỏ bởi vì trên thực tế các nhà đầu tư chỉ bỏ vốn cổ phần cho sự lựa chọn của họ đối với các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.Do vậy để thu hút vốn chúng ta phải lựa chọn một cách kỹ lưỡng các doanh nghiệp và xác định từng bước đi cụ thể trong giai đoạn làm thí điểm cổ phần hoá. Mục tiêu thứ ba:tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp.Việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã tách biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất của doanh nghiệp,quyền sở hữu và quyền kinh doanh,hành vi của chính quyền và hành vi của doanh nghiệp được hợp lý hoá một cách rõ nét.Sự can thiệp của các cấp chính quyền vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm đến mức thấp nhất.Thông qua việc mua cổ phần, người lao động mới có điều kiện để thực hiện trên nguyên tắc quyền làm chủ đích thực của mình.Với tư cách là cổ đông họ tham gia cùng các cổ đông khác quyết định chiến lược phát triển công ty,tham gia quản lý,phân chia lợi nhuận,sát nhập,giải thể công ty,lựa chọn hội đồng quản trị... 2.2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước,giải pháp chiến lược để đổi mới khu vực kinh tế nhà nước.Con đường liên kết,hội nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp nhà nước đã có một thời vàng son,vì là hình thức cao nhất của sở hữu công cộng,các hình thức sở hữu khác như hợp tác xã cấp cao,cấp thấp,tập đoàn sản xuất,donh nghiệp tư nhân,cá thể đều được coi là hình thức sở hữu tạm thời trong thời kỳ quá độ và sẽ chuyển dần lên doanh nghiệp nhà nước.Thời cực thịnh của doanh nghiệp nhà nước Việt Nam có khoảng 12000 doanh nghiệp nhưng ở thời điểm này chỉ còn khoảng 40005000 doanh nghiệp và khả năng sẽ còn giảm nữa.Mặc dù vậy doanh nghiệp nhà nước vẫn là thành phần chủ yếu của kinh tế quốc gia,số doanh nghiệp tư nhân tuy nhiều nhưng vốn chỉ bằng 10% doanh nghiệp nhà nước và hầu hết đều hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ;chỉ có doanh nghiệp nhà nước là hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp;số doanh nghiệp tư nhân sản xuất công nghiệp rất ít và quy mô nhỏ.Từ đó có thể thấy rằng doanh nghiệp nhà nước vẫn là xương sống của nền kinh tế nước ta.Bất cứ một chính sách cổ phần hoá nào cũng phải xuất phát từ việc tăng cường hoạt động doanh nghiệp nhà nước,nếu không còn doanh nghiệp nhà nước kinh tế Việt Nam sẽ có khả năng sa sút như Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu những năm đầu thập kỷ 90 (các doanh nghiệp nhà nước được tư nhân hoá và bãi bỏ hàng loạt đưa đến sự tê liệt kinh tế của các nước này mà đến hôm nay cũng chưa gượng dậy nổi.Trái lại,Trung Quốc và Việt Nam vẫn giữ các doanh nghiệp nhà nước thì kết quả tăng trưởng kinh tế thường ở trong khoảng 5 đến 9% mỗi năm,đứng hàng đầu các nước có nhịp độ tăng trưởng cao trên thế giới. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ chính phát triển nhanh kinh tế,thực hiện chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa và chống đình đốn kinh tế, cổ phần hoá phải nhằm vào việc tăng cường hiệu năng kinh tế của doanh nghiệp nhà nước.Sở dĩ ở các nước đang phát triển,doanh nghiệp nhà nước là “nắm đấm phát triển,công cụ không thể thiếu để nhà nước thực hiện chính sách phát triển nhanh,chính sách kế hoạch hoá;chính sách chống đình đốn kinh tế là vì chỉ có các doanh nghiệp nhà nước mới có các điều kiện: Doanh nghiệp nhà nước rất dễ thành lập,chỉ cần một quyết định thành lập doanh nghiệp nhà nước,cử hội đồng quản trị và cấp vốn ngân sách là doanh nghiệp đã đủ điều kiện và phương tiện hoạt động.Vốn hoạt động có thể lên tới hàng chục,hàng trăm tỷ đồng.Ban quản lý doanh nghiệp,tuyển trong các cán bộ nhà nước những người có khả năng nhất. Vốn có thể tăng rất nhanh và dễ qua việc vay tiền ngân hàng với lãi suất ưu tiên hoặc nhờ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế ;các chính phủ bạn tài trợ.Có thể nói sức mạnh về tài chính,kỹ thuật của doanh nghiệp nhà nước là vô cùng to lớn.Nếu không có doanh nghiệp nhà nước thì chắc chắn không có thuỷ điện Hoà Bình,Trị An;đường sắt Nam Bắc;đường dây 500kv Bắc Nam;hàng không Việt Nam...và không có cả hơn 200000 hecta cao su đang thu hoạch hiện nay. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ kế hoạch hoá,chống đình đốn kinh tế của nhà nước.Mấy năm gần đây,nhà nước đã làm được một số công việc rất thành công,ví dụ:đào kênh thoát lũ ra vịnh Thái Lan,bảo đảm mức sống của nhân dân bằng cách đặt ra mức giá sàn đối với một số mặt hàng nông phẩm như lúa gạo,bông vải...lập trên 40 nhà máy đường...Làm thế nào để đạt được những mục tiêu trên?Tất nhiên là phải thông qua ngân hàng nhà nước;các ngân hàng thương mại và ngân sách nhà nước cấp vốn cho một số doanh nghiệp nhà nước để thực hiện.Nhưng ngân sách nhà nước không thể bao quát toàn bộ nền kinh tế trong cùng một thời điểm trong khi vẫn tồn tại những luồng vốn to lớn trong dân không được sử dụng. Nỗi lo của Đảng và nhà nước là doanh nghiệp nhà nước hoạt động rất kém hiệu quả về mặt tài chính.Theo các số liệu thống kê được công bố thì chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp nhà nước hoạt động có lãi;trên 30% thua lỗ và phần còn lại không lợi nhuận.Trên địa bàn thành phố Hà Nội có khoảng 970 doanh nghiệp nhà nước,riêng Hà Nội quản lý 399 doanh nghiệp chỉ 8 đến 10 doanh nghiệp làm ăn có lãi,nộp ngân sách cao còn lại hoạt động cầm chừng do thiếu vốn,không có thị trường tiêu thụ hoặc rơi vào tình trạng phá sản.Doanh nghiệp nhà nước trở thành gánh nặng cho ngân sách quốc gia.Chỉ nhìn trên một địa bàn cũng đã thấy việc tiến hành cổ phần hoá trên cơ sở sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước là điều phải làm 3.Thành công và nhũng tồn tại của các công ty cổ phần ở Việt Nam trong thời gian qua. 3.1.Những thành tựu: Trong thời gian qua viêc xuất hiện của hình thái công ty cổ phần đã tạo ra sự thay đổi căn bản về phương thức quản lí,nâng cao hiệu quả sản xuât kinh doanh trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Hơn thế nữa mô hình này còn thu hút được nguồn vốn kinh doanh của các tổ chức,cá nhân trong và ngoài nuớc để đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển doanh nghiệp.Tạo điều kiện nâng cao vai trò làm chủ thực sự của người có cổ phần,thúc đẩy sự phát triển của công ty. Ngoài ra,một vấn đề được coi là hóc búa nhất trong việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước-vấn đề thất nghiệp-cũng đã được giải quyết một cách thoả đáng.Các doanh nghiệp nhà nước không những không sa thải công nhân khi cổ phần hoá ngược lại,trên thực tế còn tuyển thêm nhiều lao động mới vì hiệu quả kinh tế tăng lên,thị trường mở rộng... Về phía nhà nước,cái lợi vừa mang tính chiến lược lại vừa cụ thể: ngân sách nhà nước bớt được các khoản chi bao cấp,số thu ngân sách nhà nước tăng do doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn.Mặt khác,thông qua cơ chế hoạt động của mô hình công ty cổ phần,nhà nước tạo ra được một cách quản lý mới có tính tập thể và hiệu quả cao.Thông qua hội đồng quản trị,từ nay người lao động cũng được tham gia vào quá trình quản lý và phân phối kết quả kinh doanh cuả doanh nghiệp. Theo các số liệu thống kê được công bố,đến hết tháng 10/1999 đã cổ phần hoá được 240 doanh nghiệp.Trong số 50 doanh nghiệp được cổ phần hoá trên một năm,các chỉ tiêu kinh tế biến chuyển như sau: *Doanh thu tăng gấp 2 lần so với trước khi được cổ phần hoá như công ty cổ phần bông Bạch Tuyết,công ty cơ điện lạnh,thức ăn gia súc... *Nộp ngân sách tăng bình quân từ 2 đến 2,5 lần. *Thu nhập của người lao động tăng bình quân 50%.Có những công ty cổ phần tăng rất lớn như công ty Ong mật từ 0,5 triệu lên 1,2 triệu trên một người trên một tháng. *Lao dộng sử dụng tăng thêm 30%,không có doanh nghiệp nào phải đưa người lao động ra ngoài doanh nghiệp (trừ những người tự ý muốn chấm dứt hợp đồng lao động). *Lợi nhuận tăng từ 2 đến 3 lần ở tất cả các doanh nghiệp đã cổ phần hoá trong thời gian trên một năm hoạt động. *Tốc độ tăng vốn,bao gồm cả phần vốn tự tích luỹ từ lợi nhuận và thu hút thêm từ bên ngoài: 2 lần,có những công ty tăng đến 5 lần như công ty cổ phần chế biến xuất khẩu Long An. *Mức cổ tức tính trên vốn đạt bình quân từ 1 đến 2% tháng (cao hơn lãi suất ký thác tiết kiệm ngân hàng). 3.2.Hạn chế: Công ty cổ phần tuy có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội nhưng không có nghĩa là nó không có những hạn chế, chẳng hạn:Công ty cổ phần với chế độ trách nhiệm hữu hạn đã đem lại những thuận lợi cho công ty,nhưng lại chuyển bớt rủi ro về phía các chủ nợ.Công ty cổ phần gồm đông đảo các cổ đông tham gia,nhưng trong đó đa số các cổ đông lại không biết nhau và nhiều người trong họ không am hiểu kinh doanh;sự tham gia góp vốn vào công ty có sự khác nhau,do đó mức độ ảnh hưởng của các cổ đông đối với hoạt động kinh doanh của công ty không giống nhau.Điều đó có thể dẫn đến việc lợi dụng và lạm dụng hoặc nảy sinh tranh chấp và phân hoá lợi ích giữa các cổ đông hay các nhóm cổ đông khác nhau.Công ty cổ phần mặc dù có cơ cấu tổ chức tương đối chặt chẽ,nhưng việc phân công về quyền lợi và chức năng của từng bộ phận cho hoạt động của công ty có hiệu quả lại rất phức tạp.Công ty cổ phần là tổ chức có tính dân chủ cao trong kinh tế nhưng nó phụ thuộc đáng kể vào tỷ lệ góp vốn,khiến cho nhiều mặt còn bị hạn chế,nhất là việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông có ít cổ phần.Tính công khai của công ty cổ phần là một ưu điểm đối với nhà nước và xã hội,nhưng nó lại là một hạn chế đối với những hoạt động kinh tế vốn có đặc tính “kín đáo”. Những hạn chế của công ty cổ phần không phải là không đáng kể,tuy nhiên không phải là vô phương khắc phục.Việc giảm bớt những hạn chế của công ty cổ phần phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự hoàn hảo của pháp luật,tính hiệu quả cũng như niềm tin của pháp luật,trình độ phát triển chung của nền kinh tế,trình độ phát triển cao của dân trí,và có một bộ máy nhà nước có kỷ cương phép tắc.Trong những điều kiện ngược lại,công ty cổ phần dễ trở thành một mắt xích trong hệ thống làm ăn không lương thiện, gây thiệt hại cho các cổ đông cũng như cho cả xã hội. Từ một cách nhìn như vậy,chúng ta thấy rằng,không có một lý do gì để cản trở sự ra đời của công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay.Nhưng điều đó không có nghĩa là rồi đây chúng ta cho các công ty cổ phần ra đời một cách ào ạt theo kiểu phong trào.Thực tiễn đã chỉ ra rằng,nó cần phải có bước đi thận trọng và liên tục,phù hợp với sự phát triển tự nhiên của đời sống kinh tế như nó cần phải có. 4.Nguyên nhân những hạn chế trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thời gian gần đây tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước diễn ra có nhanh so với trước.Tính riêng 8 tháng đầu năm 1999 đã cổ phần hoá được 98 doanh nghiệp trong khi hơn 7 năm trước (từ tháng 5 /1990) đến hết năm 1998 chỉ cổ phần hoá được 108 doanh nghiệp.Có thể nói đây là sự tiến bộ vượt bậc về cổ phần hoá.Tuy nhiên so với chỉ tiêu mà chính phủ đề ra cho năm 1999 là 400 doanh nghiệp thì mới chỉ đạt 24,5%.Như vậy tốc độ cổ phần hoá vẫn còn rất chậm.Vì sao vậy? 4.1.Về phía khách quan: Chúng ta tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện những bước quá độ từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn,từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường.Trong bối cảnh đó,các điều kiện khách quan cần thiết cho việc triển khai cổ phần hóa còn nhiều bất cập đó là trình độ xã hội hoá sản xuất chưa thật chín muồi,phân công lao động xã hội ở trình độ thấp năng suất,chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh không cao. Hơn thế nữa,nền kinh tế thị trường mới hình thành,chưa thể hiện được những ưu thế vốn có của nó để có thể mang lại những điều kiện đầy đủ về kinh tế xã hội cho sự hình thành của hình thái công ty cổ phần.Mặt khác,do xuất phát từ nền sản xuất nhỏ lại nhiều năm vận hành trong cơ chế cũ nên trình độ kiến thức và yếu tố tâm lý của ta còn bị ảnh hưởng nặng nề chưa thích ứng được với cơ chế mới.Những hạn chế này là lực cản không nhỏ đối với tiến trình cổ phần hoá. 4.2.Về phía chủ quan: Trong điều kiện khách quan như trên,để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan song trong thời gian qua nhân tố này cũng có nhiều vướng mắc. Thứ nhất chưa làm tốt việc thấu suốt quan điểm chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Chính Phủ.Cho đến nay vẫn còn các cấp,ngành,địa phương chưa hưởng ứng tích cực chủ trương cổ phần hoá vì cho rằng cổ phần hoá chẳng khác gì tư nhân hoá nó sẽ làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa,làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.từ đó họ do dự chần chừ ,chờ đợi nghe ngóng,thiếu chủ động.Một số cán bộ tỉnh,thành phố xuất phát từ những lợi ích cục bộ,muốn có trong tay một số doanh nghiệp để”chi phối” nên cũng không muốn cổ phần hoá.Họ sợ mất chức quyền bổng lộc lại phải nhận trách nhiệm nặng nề hơn.Viện lí do sắp xếp, củng cố tổ chức lại doanh nghiệp để trì hoãn công việc này. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc phối hợp giữa các cấp chính quyền không đồng bộ,thiếu thống nhất làm cho cổ phần hoá bị chậm chễ ngay từ khâu xây dựng phương án từ cơ sở. Thứ hai,việc điều hành triển khai cổ phần hoá còn chậm và lúng túng. Điều này trước hết thể hiện ở một số nội dung trong các văn bản chỉ đạo,tổ chức triển khai chưa rõ ràng và thiếu tính hệ thống.Chẳng hạn:cổ phần hoá là tự nguyện hay bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhà nước?Giá trị đất đai có tính vào giá trị của doanh nghiệp để cổ phần hoá hay không?Trách nhiệm của các bộ ngành ,địa phương trong chiển khai cổ phần hoá như thế nào?Sự chậm chễ và lúng túng trong triển khai cổ phần hoá còn thể hiện ở chỗ cho đến nay Chính Phủ vẫn chưa có chương trình cổ phần hoá tổng thể mang tầm vĩ mô cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để làm căn cứ cho việc xác định tiến độ cổ phần hoá:chưa có một đạo luật hay pháp lệnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước làm cơ sở pháp lí cho việc triển khai thực hiện,đa số cán bộ đều là kiêm nhiệm và chưa được đào tạo một cách có hệ thống.Việc giải quyết các thủ tục pháp lí có liên quan đến nhà xưởng,đất đai,xác định vốn,nợ cho các doanh nghiệp cổ phần hoá còn nhiều phiền phức và vướng mắc.Thêm vào đó,việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp để cổ phần hoá còn nhiều khâu rườm rà,không thông thoáng vừa gây chi phí tốn kém vừa làm mất thời gian. Thứ ba:chế độ chính sách trong các doanh nghiệp chậm được ban hành sửa đổi và chưa đủ sức hấp dẫn.Theo nghị quyết số 44/1998/ND-CP,các doanh nghiệp cổ phần hoá được hưởng một số ưu đãi,tuy nhiên vẫn chưa được bình đẳng so với các doanh nghiệp nhà nước.Các doanh nghiệp nhà nước được hưởng ưu đãi hơn các công ty cổ phần về mức vay,khoanh nợ và xoá nợ tại ngân hàng.Các doanh nghiệp nhà nước được vay vốn bằng tín chấp nhà nước còn các công ty cổ phần phải thế chấp mới được vay... Thực tế này đã níu kéo các doanh nghiệp nhà nước không khuyến khích họ hưởng ứng cổ phần hoá.Khía cạnh khác quan trọng hơn là người lao động rất lo sợ bị mất việc làm khi doanh nghiệp cổ phần hoá.Họ đã quen với chế độ bao cấp,chế độ biên chế suốt đời.Sức ỳ này làm cho họ ngại cổ phần hoá Tóm lại,cổ phần hoá đến nay vẫn chậm chễ la do tác động của cả nghuyên nhân chủ quan và khách quan,vì vậy để thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và phát triển mạnh mẽ hình thái công ty cổ phần ở nước ta Đảng,Nhà nước và Chính Phủ cần đưa ra những phương hướng và giải pháp phù hợp nhằm giải quyết những tồn tại và hạn chế đã nêu trên. Chương 3. Phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình phát triển các công ty cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. 1.Phướng hướng tiếp tục thực hiện việc hình thành và phát triển công ty cổ phần thông qua cổ phần hoá. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 đã chủ trương “Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước..” và “áp dụng nhiều hình thức góp vốn liên doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước nhằm tạo thế,tạo lực cho doanh nghiệp Việt Nam phát triển tăng sức hợp tác cạnh tranh với bên ngoài.đồng thời cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực thu hút vốn đầu tư nước ngoài” cụ thể: Thứ nhất đánh giá đúng vai trò của kinh tế tư nhân đồng thời có chính sách thoả đáng khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu tạo cơ sở kinh tế cho việc chuyển hình thức tư nhân một chủ sang công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu.Biện pháp này sẽ tạo điều kiện thuận lợi và phát triển công ty cổ phần theo truyền thống với tốc độ nhanh hơn,góp phần làm cho các doanh nghiệp nâng cao nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung vốn,tạo điều kiện đổi mới công nghệ,rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kinh tế hiện nay ở nước ta. Thứ hai,nắm vững mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp của nhà nước đã ghi trong quyết định 202-CT của Thủ Tướng Chính Phủ trong khi tiến hành cổ phần hoá.Các mục tiêu đặt ra trong chương chình cổ phần hoá là: Trên cơ sở tổ chức xắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước thành bốn loại,mà đổi mới cơ cấu sở hữu,làm cho sở hữu nhà nước được củng cố và tăng cường,nắm được các vị trí then chốt,trọng yếu để giữ vai trò chủ đạo-vai trò quyết định sự ổn định và phát triển nền kinh tế Thưc hiện được tích tụ và tập trunh vốn của nhà nước vào các lĩnh vực then chốt,trọng yếu mà tư nhân hiện nay chưa có khả năng đầu tư nhưng lại rất cần thiết.Từ đó mà huy động vốn ngày càng nhiều của các thành phần kinh tế khác để đầu tư phát triển tất cả các ngành nghề có triển vọng. Thứ ba,trong quá trình cổ phần hoá cần nắm được các yếu tố thuận lợi và khó khăn tác động. Thứ tư,trong việc chỉ đạo và thực hiện cổ phần hoá cần coi trọng một số vấn đề như: Việc lựa chọn doanh nghiệp để cổ phần hoá phải căn cứ vào chương trình tổng thể của việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước chứ không chỉ căn cứ vào ý kiến giám đốc và tập thể người lao động . Dựa vào bảng tổng kết tài sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh để xác định mục tiêu của cổ phần hoá;giải quyết thoả đáng đối với từng nguồn vốn của nhà nước và vốn tự có,quỹ phúc lợi của doanh nghiệp; để thanh toán nợ nần,những tồn đọng về tài chính trước khi chuyển sang công ty cổ phần. Xác định phương pháp và mức độ bán cổ phiếu một cách công khai rõ ràng,thủ tục đơn giản dễ hiểu.Nhà nước không chỉ biết thu hồi vốn mà còn cần phải chấp nhận những phí tổn nhất định vì lợi ích lâu dài như chi phí bảo hiểm;tạo điều kiện cho công nhân mua được một lượng cổ phiếu tối thiểu;trợ cấp cho người lao động mất việc làm.. Các doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ hoạt động trong khuôn khổ luật công ty cổ phần cả về hình thức lẫn hoạt động tài chính. Cuối cùng,nhà nước thông qua chức năng quản lý vĩ mô của mình,tạo hành lang và môi trường chính trị,kinh tế,xã hội một cách thuận lợi và tương đối ổn định,đưa các công ty cổ phần sau khi cổ phần hoá đi vào hoạt động bình thường và có hiệu quả. 2.Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của công ty cổ phần. Để mô hình công ty cổ phần được nhân rộng và phát huy được những tác dụng to lớn của nó đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay nhà nước cần tạo điều kiện phát triển mạnh hình thái công ty cổ phần trong phạm vi cả nước. Mở rộng hành lang pháp lý làm cơ sở cho các công ty cổ phần chiếm lĩnh thị trường trên những lĩnh vực khác nhau,tạo lập sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và các công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh. Ngoài ra các công ty cổ phần cần tự xác định hướng đi và phát triển sản xuất một cách có hiệu quả nâng cao năng lực kinh tế. PHầN KếT LUậN Sự hình thành và phát triển công ty cổ phần ở Việt Nam tiến hành trong bối cảnh đất nước đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường,các thành phần kinh tế phi nhà nước nói chung còn nhỏ bé,đang ở giai đoạn ban đầu của sự phát triển,chưa phát huy được các tiềm năng về vốn,lao động,công nghệ.Đối với các doanh nghiệp Nhà nước đã có nhiều biến đổi:Đa số các doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện được chế độ hợp tác kinh doanh,chủ động tìm vốn,vật tư,lao động,kể cả lao động kỹ thuật và chuyên gia theo yêu cầu của thị trường không trông chờ ỷ lại vào cấp trên vào nhà nước.Nhiều doanh nghiệp đã có biện pháp tích cực tổ chức lại sản xuất kinh doanh,đổi mới thiết bị công nghệ bố trí lại bộ máy quản lý theo hướng gọn nhẹ có hiệu quả,bước đầu tiếp cận và thích nghi với cơ chế thị trường,chấp nhận cạnh tranh.Vì thế,nhiều doanh nghiệp nhà nước nhất là các doanh nghiệp trung ương đã đứng vững,bắt đầu ổn định và phát triển. Mặc dù có những đổi mới quan trọng,có những bước tiến đáng kể trong nhiều lĩnh vực,nhưng hiện tại hệ thống doanh nghiệp nhà nước vẫn gặp rất nhiều khó khăn.Thực tiễn đang đòi hỏi phải đổi mới căn bản doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Về phía các doanh nghiệp phi Nhà nước,loại hình này đã phát triển khá đa dạng nhưng quy mô còn nhỏ bé,công nghệ kỹ thuật thấp kém.Nhiều người có vốn nhưng chưa dám mạo hiểm đầu tư kinh doanh lớn.Do đó để phát triển nền kinh tế với quy mô lớn kỹ thuật công nghệ hiện đại cần phải có những giải pháp phù hợp trong đó việc hình thành công ty cổ phần là một biện pháp quan trọng.Vì vậy việc nghiên cứu hình thái công ty cổ phần và xem xét sự vận động của nó trong cơ chế thị trường là sự tất yếu khách quan.Qua việc nghiên cứu mô hình kinh tế mới này chúng ta sẽ có thêm những cơ sở khoa học,được trang bị thêm những kiến thức cả về lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng nền kinh tế mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù còn khá nhiều thiếu sót trong việc nghiên cứu đề tài bởi vì lượng thời gian không cho phép,hơn nữa đây là đề tài nghiên cứu kinh tế đầu tiên của sinh viên-một người chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức kinh tế trong nhà trường cũng như hoàn toàn chưa có kinh nghiệm xã hội về phương pháp quản lý kinh tế.Tuy nhiên,như đã nói ở phần mở đầu đây là một sự cố gắng rất lớn của em trong quá trình học tập và vận dụng những kiến thức đã được trang bị từ môn kinh tế chính trị và các môn khoa học kinh tế khác để có thể xem xét một hiện tượng,hình thái kinh tế xã hội mới xuất hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây. Một lần nữa,em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Việt Tiến gỉảng viên bộ môn kinh tế chính trị trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội đã giúp đỡ,hướng dẫn chỉnh lý và bổ sung đề tài. Cho phép em gửi lời cảm ơn đến trung tâm tư liệu,thông tin thư viện trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân và toàn thể các bạn đã quan tâm giúp đỡ hoàn thành đề án. Tài liệu tham khảo: 1.Phan Thanh Phố (chủ biên): Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam.Nhà xuất bản giáo dục 1996,chương 8. 2.Nguyễn Ngọc Quang: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.Cơ sở lí luận và ý nghĩa thực tiễn. 3.Nguyễn Minh Tú;Tô Đình Thái: Hỏi đáp về chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 4.Đảng cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6,7,8. 5.Trường Đại Học kinh tế quốc dân: Giáo trình kinh tế chính trị tập một-1998,chương 6. 6.Dự thảo lần hai Kinh tế chính trị Mác-Lênin(giai đoạn hai)1997 chuyên đề hai. 7.Các thời báo và tạp chí kinh tế. mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCNXH (74).doc
Tài liệu liên quan